Đọc truyện Phía Đông Mặt Trời – Chương 32
Gần trưa, Viva đến ngồi dưới bóng râm của một cây me mọc giữa sân trung tâm nuôi dạy trẻ tình thương, xén gọn những mẩu giấy thừa từ mấy con diều mà đám trẻ đã làm sáng nay. Từ chỗ ngồi, Viva có thể nghe rõ tiếng đùa cợt huyên náo của bọn trẻ, bằng đủ thứ ngôn ngữ: từ tiếng Hindi, Marathi, tiếng Anh đến một vài thứ tiếng khác, thỉnh thoảng chêm thêm vài từ Tamil và Gujarati. Tất cả hòa cùng tiếng của bầy chim bồ câu đóng tổ dưới mái hiên náo động cả một góc phố.
Tiếng ồn ào chợt im bặt khi giọng của Daisy thánh thót vang lên, cô đang ngồi bên cạnh trò chuyện cùng bọn trẻ trong lúc chúng làm việc.
“Chuyện ấy thật buồn cười, đúng không nào”, Daisy nói, “chỉ rất ít người trưởng thành thực sự dừng lại và nhìn lên bầu trời trong xanh lồng lộng – chúng ta lúc nào cũng hối hả xoay mòng với lo toan, hệt như lũ côn trùng. Những người thường xuyên bỏ thời gian để nhìn ngắm bầu trời chỉ là người điên và đám trẻ con, hay… Cháu có thể nói hộ cô được không, Neeta?”.
“Cháu không biết”, giọng Neeta thì thầm, một con bé nhút nhát với đôi mắt lúc nào cũng chất chồng âu lo khắc khoải.
“Những người thả diều”. Suday, một thằng bé hơi đẫy đà nhanh nhảu lên tiếng, hẳn nó muốn khoe với mọi người về con diều trước đây của mình.
“Thế khi nhìn lên trời cao, chúng ta nhìn thấy những gì?”.
“Bầu trời xanh”, Neeta đã mạnh dạn hơn.
“Rất tốt, Neeta. Không chỉ có bầu trời trong xanh vời vợi, khi chúng ta ngước nhìn lên cao, đường chân trời giới hạn của chúng ta trở nên bao la hơn. Và rồi chúng ta nhận ra mình chỉ là một hạt bụi trong vũ trụ mênh mông này, nhỏ bé và tầm thường, tất cả chúng ta đều tỏ ra nghiêm trọng với chính cuộc đời mình, nhưng bầu trời lại không có những ranh giới. Không có sự khác biệt về đẳng cấp, địa vị – cẩn thận với hũ keo dán, Suday – cả tôn giáo và giống loài. Bầu trời dạy cho chúng ta biết, rằng có nhiều điều đang tồn tại trên thiên đường và trong cõi nhân gian, Horatio, hơn là những thứ mà chúng ta vẫn mơ mộng mỗi ngày trong cuộc sống của mình”.
Viva đắng lòng khi chứng kiến lũ trẻ im phăng phắc lắng nghe như nuốt từng lời của Daisy. Thiên đường và cõi nhân gian nào chúng sẽ tìm thấy nơi đây?
Ngay sau đấy, Daisy lên một số kế hoạch cho bọn trẻ trong ngày hôm nay: sau khi công việc dán diều đã hoàn thành, Viva sẽ dẫn chúng ra bãi biển Chowpatty để thả. Daisy vừa dứt lời, bọn trẻ đồng thanh quay đầu ra sau, những ánh mắt háo hức đổ dồn vào Viva; nhiều đứa trong bọn chúng chưa một lần được nhìn thấy biển. Bọn trẻ đang khiến cô có cảm giác mình giống như một ảo thuật gia, một thầy phù thủy.
“Nhìn cháu đây, nhìn cháu này, Wiwaji”, Talu, một cậu bé cao lêu khêu, đôi chân bị tật bước đi tập tễnh hét váng lên. Không một đứa bé nào có thể gọi đúng tên cô, chúng thường gọi Viva bằng cụm từ đầy kính trọng “Thưa quý cô”, kiểu gọi của dân Bombay dành cho những người châu Âu có địa vị ở Ấn Độ, hoặc cô Wiwa, hay đôi khi gọi cô bằng ba tiếng Wi-wa-ji trìu mến. Một số đứa nhỏ tuổi lại gọi cô là Mabap (cô là mẹ là cha của bọn cháu), một lời ca tụng đủ khiến trái tim cô nhảy múa reo vui trong lồng ngực.
“Xem nào, có người mải mê nhìn ngắm con bé như thể bị thôi miên ấy nhé”, Daisy lên tiếng khi tấm sari trên mình Talika xoay tròn trong gió. Viva không hề hay biết Daisy đã đến ngồi bên cạnh cô tự lúc nào.
“Thực tình, Viva này, chị muốn nói với em điều này”, Daisy dịu dàng. “Trông em hạnh phúc hơn rất nhiều so với cái ngày đầu tiên em làm việc ở đây rồi đấy”.
Đuôi diều của Talika mắc vào một cành me, Viva nhảy lên gỡ nó xuống cho con bé.
“Em rất thích nơi đây, Daisy”, Viva ngồi xuống và nói. “Em không thích trẻ con lắm, hay ít nhất em không từng nghĩ là mình sẽ thích chúng”.
“Ừm, em che giấu rất tốt”, Daisy chọc Viva. “Chị có thể đưa ra vài lời cảnh báo được không? Tất nhiên là chúng ta sẽ hạnh phúc rất nhiều khi chứng kiến những đứa trẻ được tự do vui đùa nơi đây, nhưng chúng ta vẫn phải cẩn thận, phải cực kỳ cảnh giác, bởi lúc này tai mắt gián điệp ở khắp nơi, nếu thấy cảnh tượng như vừa rồi, có thể bọn họ sẽ báo với nhà chức trách địa phương rằng chúng ta đang huấn luyện các cô gái nơi đây trở thành những kỹ nữ”.
“Phải chị đang đùa không?”.
“Không, chị ước đấy chỉ là chuyện đùa cợt – năm ngoái đã xảy ra chuyện tương tự. Nhiều người thường không hiểu những việc chúng ta đang làm. Vậy thì tại sao họ lại không hành động như thế được?”.
“Lạy Chúa lòng lành”. Trước đây Viva đã được nghe về những câu chuyện kiểu như thế, nhưng cô không tin lắm – nó giống như một trò chơi hèn nhát, luôn nhìn thấy hiểm nguy ở mọi thứ. “Con bé mới ngây thơ làm sao, em không thể chịu được ý nghĩ buộc phải bắt nó dừng lại”.
“Chị hiểu, không ai trong chúng ta thích thú với những hành động xuyên tạc bóp méo sự thật ấy cả. Nhưng chúng ta không sống trong một thế giới hoàn hảo.
“Và lời khuyên thứ hai của chị”, Daisy nhẹ nhàng đặt tay lên vai Viva, “rằng đừng làm việc quá sức. Năm ngoái, hơn một nửa nhân viên đã đổ bệnh, năm nay bọn chị buộc phải yêu cầu tất cả nhân viên nghỉ ngơi đúng thời gian. Không phải em từng nói với chị trong lần đầu tiên gặp mặt rằng em có kế hoạch lên phía Bắc để thăm lại tổ ấm ngày nào của bố mẹ mình hay sao?”.
“Em đã kể thế à?”. Viva thoáng ngượng ngùng. “Em còn không nhớ mình đã nói như vậy nữa”.
“Ôi, chị xin lỗi”, ánh mắt của Daisy vụt sáng long lanh sau tròng kính. “Chị nghĩ là em đã nói như thế”. Cả hai nhìn nhau lạ lẫm. “Thêm một đề nghị nho nhỏ nữa, cái nóng mùa hè sẽ nhanh chóng vắt kiệt sức lực của chúng ta trước khi mùa mưa kịp đến, thế nên nếu em cảm thấy mệt mỏi, khó ở trong người, thì chị có người bạn đang quản lý một nhà nghỉ ở Ootcamund – một địa điểm cực kỳ yên tĩnh dành cho việc viết lách, giá cả không hề đắt đỏ chút nào – chị sẵn sàng hỗ trợ nếu em không đủ tiền”.
“Chị tốt bụng quá”, Viva cảm động, “nhưng nghe ra thật buồn cười, em gần như không hề có ý nghĩ mình lại có thể bỏ đi vào lúc này”.
“Ban đầu em sẽ có cảm giác như vậy”, Daisy nhẹ nhàng nói. “Lần đầu tiên trong đời, em không còn nghĩ cho bản thân mình nữa. Một sự thay đổi rất lớn, em có nhận thấy điều đấy không?”.
Khi Viva ngẩng đầu lên nhìn, Daisy đang chăm chú ghim lại một chiếc đuôi diều bị tuột, cô không bắt gặp ánh mắt của Viva.
“Em biết không”, cô nói, “những cánh diều đầu tiên được thả lên trời là vào thế kỷ XIV ở Hy Lạp để kiểm tra thị lực của một vị hoàng tử bị mù. Chị có một cuốn sách rất hay viết về câu chuyện này, nếu em thích đọc chị có thể cho mượn – Sức hấp dẫn của chủ nghĩa tôn giáo tượng trưng”.
“Em sẽ mượn”, Viva trả lời, rồi đột nhiên cô đổi chủ đề, “Daisy này, chị có cho rằng em là đứa chỉ biết nghĩ đến bản thân mình hơn bất kỳ ai khác không?”.
Daisy điềm tĩnh nhìn Viva qua đôi tròng kính dày cộp của mình, sau một hồi im lặng, cô trả lời: “Chỉ biết nghĩ đến bản thân mình, nếu hiểu theo nghĩa tiêu cực thì điều này quả thật không bình thường, lúc nào em cũng theo dõi học hỏi, tò mò và đầy hiếu kỳ, chị thích những đức tính ấy ở em; tự bảo vệ có lẽ là từ thích hợp hơn. Em luôn sống kín đáo, hoặc giả có thể em sống khép mình để phục vụ cho việc viết lách của em chăng”. Một lần nữa Daisy lại trêu chọc Viva.
“Có lẽ thế”, Viva không muốn nỗi đau ùa về, nhưng lòng cô như có dao cắt. Nhiều khi cô thấy mệt mỏi bởi bị người khác buộc tội giấu kín những bí mật của bản thân, những bí mật mà thậm chí cô còn không hiểu nổi chúng là gì.
Suốt bữa trưa hôm nay, Viva cứ bần thần nghiền ngẫm, day dứt với câu hỏi tại sao đến giờ này cô hãy còn trào lên những cảm xúc bấn loạn mỗi khi nghĩ về quá khứ, về bố mẹ mình.
Mười tám tuổi, cô đủ lớn để cảm thấy thích thú với cuộc sống hiện tại, bắt đầu tuyệt vọng với nỗi khao khát tìm kiếm một ai đấy, bất kể là ai có thể kiên nhẫn chuyện trò cùng cô, một người không bao giờ nổi nóng. Và rồi William chính là người mà cô tìm thấy, một món quà của thượng đế dành cho cô, anh không chỉ là người thi hành di chúc theo ý nguyện của bố mẹ cô, một anh chàng điển trai, ăn nói lưu loát – sau rốt, anh ta là một luật sư hàng đầu – giàu lòng trắc ẩn. William dành nhiều thời gian bên cô. Những bữa tối cùng nhau, những lần tản bộ dạo chơi bên nhau, những đêm dài chia nhau nhâm nhi chai vang trong căn hộ của một gã độc thân là anh ở Inner Temple.
William nhớ rất rõ về bố mẹ cô, anh kể cho cô nghe về buổi đầu gặp gỡ với họ, từng chung một khoảng sân nhỏ bé trong những tháng ngày sinh sống ở Cambridge, cả cái lần sống chung với bố mẹ Viva ở Kashmir trước khi họ sinh hạ cô.
Anh nhớ rất rõ về Josie, một cô bé hồng hào, bụ bẫm, rất hay cười – anh và bố mẹ cô đều gọi Josie là “cô nàng quý tộc” bởi điệu bộ dựa đầu vào thành giường rồi ngả ngớn tu bình sữa hệt như một nhà quý tộc của chị ấy. Cái đêm anh kể cho cô nghe về Josie cũng chính là cái đêm anh âu yếm đưa tay lau khô dòng nước mắt nóng hổi đang từ từ lăn trên gò má, nhẹ nhàng, rất nhẹ nhàng, anh kề ly vang lên miệng cho cô nhấp một ngụm nhỏ, rồi dìu cô lên giường.
Và rồi, thật lâu sau đấy, cô đã phạm phải sai lầm khá lớn khi hỏi anh về mẹ.
Khi cô và William đang ở trong thang máy trở lên căn hộ của anh, cô bất ngờ hỏi. “Mẹ em có phải là một người có trái tim yếu đuối không?”. Cô buột miệng hỏi câu ấy là bởi câu chuyện cô nghe được từ một bà xơ kể về mẹ mình.
Anh quay sang cô – cô vẫn nhớ như in phút giây ấy, cứ như nó chỉ mới xảy ra ngày hôm qua – và lạnh lùng nói: “Anh chỉ là người thực thi di chúc của bà ấy, không phải là bác sĩ điều trị”. Dứt lời, chiếc thang máy đã leng keng báo hiệu đã lên đến căn phòng ngăn nắp của anh – chỉ lát nữa thôi anh sẽ xếp gọn quần áo, cẩn thận cất những chiếc khung để ráp cổ áo sơ mi vào một chiếc hộp trước khi anh trở nên hờ hững đến lạnh lùng, nhưng vẫn trao cho cô những nụ hôn nồng cháy – anh nói: “Tóm lại là anh phải làm gì với em đây?”, cứ như thể cô là một kẻ tò mò đầy khiếm nhã về những người bạn hết sức tình cờ.
Nó khiến cô trở nên khép nép, cho đến tận bây giờ, mỗi khi nhớ lại thái độ ngoan ngoãn của mình trước những lời quở trách đắng lòng ấy, cô lại nghĩ, sao ngày ấy cô lại có thể dễ dàng chấp nhận chúng đến thế. William là một kẻ biết khá nhiều về những từ ngữ tục tĩu, và anh ta biết sử dụng chúng đúng lúc đúng chỗ, và rồi cô dần trở nên thận trọng trước anh, lúc nào cũng cung cúc ngoan ngoãn dễ bảo đến tội nghiệp.
Viva đứng dậy, nhẹ nhàng phủi những vụn bánh mì bám trên vạt váy, Talika chạy đến bên cô, giả vờ bắt chước điệu bộ nghiêm trọng của Viva bằng cách hếch chiếc cằm nhỏ xíu của nó cho nhô ra phía trước rồi cười vang.
Viva chậm rãi cuốc bộ ngang qua những con phố trở về căn phòng thuê nhỏ xíu của mình, cuối chiều hãy còn có nắng, không khí khá trong lành. Cô cảm thấy mệt mỏi đến nỗi không thể cảm nhận được cơn đói đang sôi réo trong lòng. Ngang qua một quầy trái cây trên phố, Viva mua một trái xoài, cô sẽ ăn nó khi ngồi vào bàn viết tối nay.
Mở cửa chính ngôi nhà nơi cô thuê trọ, Viva nhìn thấy ông Jamshed đang chậm rãi thắp sáng ngọn đèn dầu rồi đặt lên một đầu cầu thang. Khi Viva bước lên tầng trên, chiếc bóng của cô đổ dài trên vách tường, nhịp nhàng lên cao theo từng bước chân, nom hết sức sống động.
Chiếc túi thêu tay của cô căng phồng những sách, khá nặng. Giữa đường, cô dừng chân đặt nó xuống bậc cầu thang, nghỉ ngơi trong chốc lát. Viva ngẩng đầu nhìn lên tầng trên, chỉ còn bốn bậc cầu thang nữa là đến hành lang dẫn tới phòng cô, một bóng người vụt thoáng qua trên tấm kính gắn trên cửa phòng Viva.
“Jamshed”, cô gọi lớn, “phải ông trên đấy không?”.
Sáng nay ông Jamshed đã hứa với Viva cuối buổi chiều ông sẽ sang phòng cô kiểm tra vòi nước bị vỡ. Từ giữa cầu thang, cô đã nghe thấy tiếng nước chảy lọc xọc vọng xuống. Cả tiếng lèo xèo của dầu rán và mùi hạt tiêu dậy khắp hành lang.
“Ông Jamshed, là tôi, Viva đây”, cô khẽ gọi.
Cô nhặt chiếc túi dưới chân, nhanh chóng chạy lên mở cửa phòng.
Một hình người đang nằm dài trên chiếc giường của cô, sát trong góc phòng. Chiếc bóng đứng dậy. Là Guy Glover, vẫn chiếc áo khoác màu đen dài lượt thượt trên người, nó đang chờ cô.
“Suỵt, suỵt, suỵt”, nó khẽ ra hiệu cho Viva khi cô định hét toáng lên. “Là tôi đây”.
Trong ánh sáng nhập nhèm từ ngoài cửa sổ hắt vào, cô nhìn thấy đống áo quần lộn xộn của mình vắt đầy trên thành ghế – sáng nay vì vội vã nên cô chưa kịp thu dọn. Tiếng mèo hoang khản đặc gọi nhau vọng lên từ dưới phố, man dại.
“Cậu làm cái quái gì ở đây, Guy?”, cô hỏi. “Ai cho phép cậu vào phòng tôi?”.
Khi đã quen dần với bóng tối trong căn phòng, Viva nhận ra Guy không mặc áo sơ mi bên trong áo khoác, vồng ngực khẳng khiu của nó đầm đìa mồ hôi.
“Không ai cả, tôi bảo với bà chủ nhà cô là chị gái của tôi – cô thấy đấy, trong mắt bọn họ, ngoại hình của chúng ta trông chẳng khác gì nhau cả”.
Rồi Guy nhoẻn miệng mỉm cười, nhìn nụ cười của nó, bao nhiêu khó chịu ùa về trong cô: Cái giọng nói mới vỡ trong độ tuổi dậy thì khiến người nghe không thể xác định được là của một cậu bé hay của một kẻ hách dịch. Điệu cười lạt của nó. Thậm chí là cả cái mùi bốc lên từ cơ thể thằng bé, đôi khi ngọt ngào nhưng nhiều khi lại chua lòm đến cũ mèm.
Cô thắp một ngọn nến, đưa mắt quan sát xung quanh để kiểm tra xem liệu nó có thay đổi thứ gì trong phòng mình. Một hốc nhỏ lõm xuống trên tấm chăn trải giường – món thừa kế duy nhất của bố mẹ cô để lại – nơi nó vừa nằm cách đây ít phút.
“Nhìn xem, Guy”, cô gần như hét lên với nó, “tôi không biết tại sao cậu lại đến đây, nhưng giữa chúng ta không có gì phải nói với nhau cả, thế nên tôi muốn cậu biến khỏi đây ngay lập tức, trước khi tôi gọi cảnh sát”.
“Bình tĩnh đi, Viva”, thằng bé nói, “tôi chỉ đến đây để trả cô tiền, thế thôi”.
Giọng điệu buồn bã đến đau đớn của Guy nhắc cô nhớ lại những lần nó đã đánh lừa chặn họng cô như thế nào, cũng bằng cái giọng thiểu não ấy.
Cô thắp thêm vài cây nến nữa, ánh sáng ngập tràn căn phòng, nom cả hai lúc này đã sáng sủa hơn trước. Một chấm mụn trứng cá trên mặt thằng nhóc hãy còn rỉ máu.
“Cậu không thấy phát sốt với chiếc áo khoác trên người à?”, cô hỏi.
“Tất nhiên là tôi đang sôi lên ấy chứ”. Nụ cười trên miệng nó khá bẽn lẽn. “Nhưng tôi không thể cởi ra được – không phải bây giờ”.
Tinh thần cô bấn loạn khi nhìn nó. Phải những gì thằng nhóc đang thể hiện chỉ là những nỗ lực đáng yêu của tuổi mới lớn, hay thực sự chỉ là hành động của một kẻ không bình thường về thần kinh, một thằng điên?
“Tại sao lại không?”.
“Bởi vì món quà của tôi dành cho cô được cất trong đấy”.
Nó thò tay vào trong tấm áo, lôi ra một con búp bê với chiếc váy được may từ hai màu hồng và vàng khoác trên người, con búp bê có hàm răng trắng tinh đều tăm tắp – một món quà lòe loẹt rẻ tiền được bày bán nhan nhản trong các cửa hiệu đồ lưu niệm.
Tại sao thằng bé luôn khiến mình có cảm giác đang đóng một vai trong một vở kịch tồi tệ thế này? Viva đột nhiên nổi giận. Tại sao nó không bao giờ sống thật với con người mình? Cô muốn giáng cho nó một cái tát vào mặt.
“Tên của nó là Durga”, thằng nhóc nói, nhẹ nhàng đặt con búp bê vào tay cô. “Thần chiến tranh – bà ta sẽ che chở cho cô”.
“Tôi có thể tự lo được cho mình”. Cô đặt con búp bê xuống bàn.
“Nhận lấy đi”, nó năn nỉ.
“Nghe đây Guy”, sự kiên nhẫn của cô đã hết, “tôi không có hứng thú để tham gia vào trò chơi của cậu. Thực sự, tôi không biết cậu có bị thần kinh hay không khi đối xử như thế với tôi. Cậu đã nói dối với bố mẹ mình về tôi. Tôi…”.
“Tôi đã có việc làm”, nó ngắt lời cô, “tôi là…”.
“Guy, tôi không quan tâm. Tôi đã không một xu dính túi khi tới đây, cảm ơn cậu vì điều đấy”.
“Cô còn may mắn chán vì đã mất bố mẹ”, nó ngắt lời cô. “Còn tôi thì chẳng có gì cả”.
“Nghe này, tôi đã kể với cậu những chuyện vớ vẩn khi còn ở trên tàu”. Nhưng rồi cô đột ngột thay đổi ý định. Tại sao lúc này này cô lại không ngậm miệng lại nhỉ? “Tôi thấy mệt. Cậu mang con búp bê của mình về đi”.
“Thậm chí cô còn không muốn biết tôi đang ở đâu sao?”.
“Không, Guy, tôi không quan tâm. Trách nhiệm của tôi với cậu đã chấm hết khi con tàu cập cảng Bombay”.
Im lặng. Viva có thể nghe được tiếng tích tắc của chiếc đồng trên cổ tay cô, ngay sau đấy là tiếng nước ào ào trong đường ống phía trên phòng ông Jamshed chảy xuống.
“Đấy không phải suy nghĩ của cảnh sát”. Guy thì thầm, nhỏ đến nỗi cô gần như không nghe được gì từ miệng nó. “Bọn chúng là lũ con hoang, cô có thể gặp khá nhiều phiền toái nếu không trả hết nợ”.
“Vì Chúa, Guy, làm ơn đừng có diễn trò nữa”, cô bật khóc.
“Tôi không diễn”, nó lạnh lanh. “Tôi cũng đang sợ chết khiếp đây. Có một gã đang lẽo đẽo theo tôi”. Nó ngồi xuống giường, đưa tay lên che mặt và quan sát cô từ những kẽ hở giữa các ngón tay, rồi lại nuốt nước bọt và cúi đầu nhìn xuống sàn nhà. “Hắn bảo tôi đã làm anh trai của hắn đau đớn khi đi trên tàu, nên giờ hắn sẽ khiến tôi phải cảm thấy đau đớn”.
“Thế người đàn ông ấy bảo cậu đã làm gì anh trai ông ta?”.
Guy hạ giọng, thì thầm. “Hắn bảo tôi đã đánh vào tai của anh trai hắn nên giờ đây ông ta không thể nghe được nữa, nhưng rõ ràng là y đã đánh tôi trước. Đấy là lý do vì sao tôi nghĩ cô cần nó”.
Nó kẹp con búp bê vào giữa hai đầu gối, cẩn thận gỡ hàng cúc phía sau thân áo, thò tay lục lọi trong người con búp bê.
“Cầm lấy”. Nó đưa cho cô một xâu những đồng rupi đã ngả màu được buộc chặt vào nhau bởi một sợi dây chun. “Cô có thể cần đến nó khi bọn họ đến đây. Cô không thể lúc nào cũng phải cảnh giác khi đi trên đường phố quanh đây”.
“Thế thì ai sẽ đến đây?”.
“Đám cảnh sát – cô hiểu không, dính dáng đến pháp luật, tôi là con của cô mà”.
Tinh thần Viva chao đảo, cô tỏ ra thận trọng với những gì đang diễn ra trước mắt. Những dự báo khủng khiếp mà Frank đã cảnh báo với cô ùa về: khả năng khủng khiếp ấy, không thể tượng tượng nổi, rằng dưới con mắt của pháp luật, có thể thằng nhãi từng có mối liên hệ với cô?
Cô chộp lấy xâu tiền trong tay nó. Không cần đếm, cô cũng có thể đoán được có bao nhiêu trong đây, có thể là 100, cũng có thể nhiều hơn, 200 rupi. Ít nhất ngần này cũng đủ để cô ngã giá với đám cảnh sát khi bọn họ đến đây, nhưng cô cảm thấy nghi ngờ khi khoản tiền được ngụy trang dưới vỏ bọc là chi phí thanh toán cho công việc bảo mẫu chăm sóc hộ tống Guy đến Ấn Độ.
“Tôi nghĩ cô nên xin lỗi tôi vì đã có thái độ khiếm nhã như vừa rồi”, nó tỏ vẻ cáu kỉnh. “Giờ thì tôi tin chắc cô đã hiểu tôi chỉ đang cố gắng giúp đỡ cô mà thôi”.
“Guy”, Viva tỏ ra cứng rắn. “Tôi không nghĩ mình phải xin lỗi về những gì thuộc về mình”.
Guy đột nhiên ngoác miệng nhăn nhở. “Thế thì, sau tất cả mọi chuyện, tôi là của cô chứ?”.
“Không. Không, không… ý tôi không phải thế. Ý tôi là”, cô nhớ lại những lời cảnh báo của Frank, “món tiền này đáng lẽ đã phải là của tôi từ trước đây”.
Nụ cười trên khuôn mặt nó vụt biến mất, nhưng cô không quan tâm.
“Ai nói cho cậu biết tôi sống ở đây?”, Viva hỏi.
“Phải mất cả đời để tìm được cô”. Khuôn mặt nó lại rầu rĩ. “Thế nên tôi đã gọi cho Tor và cô ta đã chỉ đường cho tôi”.
“Tôi hiểu”.
Guy dập nhẹ bàn chân lên sàn nhà.
“Tôi nghe nói cậu đã đi làm? Cậu đang làm ở đâu vậy?”, cô cố hỏi nó bằng giọng điệu tình cờ nhất có thể.
“Không ở đâu cả”, nó lầm bầm. “Thực ra, tôi vừa bị đuổi việc. Tôi từng làm nghề chụp ảnh cho một hãng phim. “Cái gã giám đốc chỗ tôi làm trước đây là một thằng ngu”.
“Thế bây giờ cậu đang trên đường về nhà à?”. Cô cảm thấy phấn chấn khi nghĩ đến điều ấy.
“Không”. Nó lắc đầu. “Giờ tôi sống ở đây: trên phố chính cạnh chợ trái cây”. Guy ngừng nhịp chân lên sàn nhà và ngẩng đầu lên nhìn cô. “Ôi, thêm một chuyện nữa, suýt nữa tôi quên. Cô làm ơn đừng có khoe khoang với mọi người là tôi chỉ mới mười sáu tuổi khi mà tôi đã bước sang tuổi mười chín”.
“Tôi không định đánh nhau vì điều đấy đâu, Guy. Có gì khác không khi mà cậu không bao giờ chịu trách nhiệm trước bản thân mình?”.
“Tôi có chịu trách nhiệm về bản thân mình”.
“Không, cậu không hề, cậu chỉ là một kẻ nhu nhược”, cô liếc mắt nhìn nó, giận dữ bởi sự xuất hiện của nó đã làm mất của cô một buổi tối quý giá, “và cậu còn nói dối để tránh không phải rơi vào tình cảnh khó khăn”.
Guy lùi lại. “Những lời của cô vừa rồi thật bẩn thỉu”, nó nói. “Tôi sẽ ghi nhớ và sẵn sàng trả thù cô. Tôi sẽ chờ đến thời điểm thích hợp”.
“Thật thế sao?”. Viva thậm chí còn không buồn làm ra vẻ tin tưởng những lời nó vừa nói. “Lần tới, hãy làm cho đúng: bấm chuông và chờ tôi mở cửa cho cậu vào, nhớ đấy”.
Nói xong cô chỉ tay ra phía cửa, cô có thể cảm nhận rất rõ vệt mồ hôi đang từ từ chảy xuống bắp chân mình rồi mất hút trong đôi giày, cả cảm giác bỏng rát ở vết xước sau gót chân nữa.
“Đừng đến đây nữa, Guy”, cô dừng lại trước ngưỡng cửa, nói với nó.
“Không sao, không sao đâu mà”, Guy rối rít trả lời như thể cô vừa yêu cầu một lời cam kết đến từ nó. “Tôi đã hứa là sẽ trả thù cô, và tôi sẽ thực hiện lời hứa ấy đến cùng”.