Phía bên kia nửa đêm

Chương 32part 1


Đọc truyện Phía bên kia nửa đêm – Chương 32: part 1

Chương 14
CATHERINE
Washington 1946
Lúc chín giờ sáng thứ Hai Larry Douglas đến trình diện với phi công trưởng, đại uý Hai Sakowits tại văn phòng của hãng Pan American ở sân bay La Guardia ở New York. Khi Larry bước vào cửa, Sakowits nhặt bản sao lý lịch quân nhân của Larry mà ông ta đã nghiên cứu kỹ lâu nay, rồi ấn vội nó vào trong ngăn kéo bàn.
Đại uý Sakowits là một người chắc nịch, nét vẻ gồ ghề, mặt đầy sẹo, đượm vẻ phong trần, đôi bàn tay rất to, Larry chưa từng thấy ai có bàn tay như thế bao giờ, Sakowits quả là một trong những tay lão tướng trong ngành hàng không.
Ông bắt đầu vào nghề từ những ngày còn những đội phi cơ du hành, bay các máy bay đưa thư một động cơ cho chính phủ, đã từng làm phi công dân sự trong hai chục năm trời và là phi công trưởng của Pan American trong năm năm qua.
– Tôi rất vui mừng được thấy anh đến cộng tác với chúng tôi, anh Douglas ạ – Ông ta nói.
– Tôi cũng lấy làm mừng được có mặt tại đây – Chàng đáp.
– Anh nóng lòng được lên lại máy bay chứ gì?
– Ai cần máy bay nào? – Larry toét miệng cười – Cứ chỉ tôi lên trời, tôi sẽ cất cánh ngay lập tức.
Sakowits chỉ một chiếc ghế tựa.
– Mời ngồi. Tôi rất muốn làm quen với các bạn trẻ đến dây để thế chân cho tôi.
Larry cả cười:
– Ông lại khéo đuổi tôi.
– Ồ, tôi không trách bất kỳ ai trong số các anh. Các anh đều là những loại phi công liều mạng, các anh có thành tích chiến đấu, khi bước vào đây đều nghĩ rằng “nếu thằng già Sakowits này có thể làm phi công trưởng thì người ta phải cho mình làm chủ tịch Ban điều hành mới đáng”. Không có một anh nào dự định làm hoa tiêu lâu. Đây chỉ là một bước đệm để tiến đến vị trí phi công. Cũng được. Con đường đi phải như thế!
– Tôi rất mừng vì ông nói ra như vậy – Larry nói.
– Song có một điều anh cần phải biết trước, Larry ạ, tất cả chúng ta đều thuộc một liên đoàn và việc đề bạt phải tuân thủ chặt chẽ theo thâm niên công tác.
– Tôi hiểu.
– Điều duy nhất có thể là anh không hiểu nổi đó là vì sao những công việc này rất “bẫm” và ngày một nhiều người lao vào hơn số rút ra. Vì thế khả năng được đề bạt giảm đi.
– Tôi sẽ tìm kiếm cơ hội – Larry đáp.
Cô thư ký của Sakowits mang cà phê và bánh ngọt vào, hai người còn ngồi chuyện trò, làm quen với nhau thêm một giờ nữa. Tác phong của Sakowits cởi mở, ôn tồn, nhiều câu hỏi của ông có vẻ vu vơ, vụn vặt, song đến khi ra về để đi dự giờ học đầu tiên, Sakowits đã biết được nhiều điều về Larry Douglas.
Larry vừa đi khỏi được mấy phút, Carl Eastman bước vào văn phòng.
– Công việc thế nào? – Eastman hỏi.
– Tốt lắm.
Eastman nhìn ông chăm chú:
– Ông nghĩ thế nào, ông Sak?
– Chúng tôi thử thách anh ta.
– Tôi hỏi là ông nghĩ thế nào?
Sakowits nhún vai:
– Được thôi, tôi sẽ nói với ông. Theo tôi có lẽ y là một tay phi công cự phách. Với chiến tích như vậy thì đích thị là cự phách rồi. Nếu đưa anh ta một chiếc máy bay, hàng đàn máy bay địch lao vào anh, tôi chắc sẽ không ai hơn được anh ta đâu – Ông ta ngập ngừng.
– Cứ nói tiếp đi – Eastman giục.
– Vấn đề ở đây là trên vùng trời Manhattan này không có những máy bay chiến đấu của địch. Tôi quen biết nhiều gã như Douglas vì lý do gì tôi không rõ, cuộc đời của họ đã gắn với hiểm nguy. Họ làm nhiều việc điên rồ như trèo lên các đỉnh núi cao không ai leo lên được rồi nhào xuống biển, cũng có thể họ còn lao vào những nguy hiểm quái quỷ gì nữa chứ. Khi có chiến tranh nổ ra, họ nổi lên như lớp kem trong tách cà phê nóng rẫy – Ông ta xoay chiếc ghế ngồi, quay người nhìn ra ngoài cửa sổ.
Eastman đứng yên lặng chờ đợi.
– Anh Carl ạ, tôi có linh tính về Douglas. Rằng y có chuyện gì đó không ổn. Có lẽ nếu y là trưởng cơ của một chiếc máy bay hãng ta, y được lái, y có thể làm nên chuyện. Song tôi không tin rằng y có đủ phẩm cách tâm lý để chấp hành lệnh của một kỹ sư, một sĩ quan số một và của một phi công, đặc biệt khi y cho rằng y có thể bay giỏi hơn tất cả bọn họ.
Ông xoay lại, nhìn thẳng vào mặt Eastman:
– Và cái điều trớ trêu nhất lại là ở chỗ y có thể làm được.
– Anh làm tôi thấy băn khoăn đấy. – Eastman nói.

– Cả tôi nữa chứ – Sakowits thú thật – Tôi cho rằng y không… (ông ngừng lại, tìm một chữ cho đúng)… vững vàng. Khi nói chuyện với y, tôi có cảm giác y như một thùng thuốc nổ, sẵn sàng nổ tung lên.
– Thế ông muốn giải quyết ra sao?
– Chúng tôi đang làm đây. Y sẽ đến trường huấn luyện và chúng tôi sẽ theo dõi y chặt chẽ.
– Có thể y sẽ nhụt nhí. – Eastman nói.
– Anh chưa hiểu được loại người này. Y sẽ là gã đứng đầu lớp đấy.
Điều Sakowits dự đoán thật là chính xác. Khoá huấn luyện gồm bốn tuần lễ học trên mặt đất, sau đó thêm một tháng nữa tập bay. Vì các học viên đều đã từng là những phi công giàu kinh nghiệm đã có nhiều năm bay cho nên khoá học nhằm hai mục đích: trước hết là học các môn như hàng không, thông tin liên lạc, đọc bản đồ và học các thiết bị bay để cho các phi công có dịp ôn lại kiến thức cũ và xác định những thiếu sót của họ, mục đích thứ hai là giới thiệu cho họ làm quen với những thiết bị mới mà họ sắp phải sử dụng.
[ alobooks ]
Môn thiết bị bay được tiến hành trên một thiết bị tập luyện. Đó là một buồng nhỏ có hình dạng buồng lái của máy bay, được đặt trên cái bệ chuyển động tạo những điều kiện cho người phi công ngồi trong khoang lái có thể điều khiển máy bay theo bất kỳ thao tác nào bao gồm động tác nhào tắt máy, nhào xoáy ốc, xoay tròn và bay vòng tròn. Người ta đặt một nắp che màu đen trên đỉnh khoang lái để phi công không nhìn thấy gì trong khi bay và chỉ sử dụng những thiết bị trước mặt người phi công. Huấn luyện viên ở bên ngoài phòng luyện tập sẽ ra mệnh lệnh cho người phi công, ra chỉ dẫn cho anh ta cất cánh và hạ cánh trong tình hình tốc độ gió mạnh, có bão tố, có những rặng núi trước mặt và cứ cách một lần lại đến một lần xuất hiện một nguy hiểm tưởng tượng phải giải quyết. Đa số các phi công ít kinh nghiệm khi mới bước vào phòng luyện tập có cảm giác đầy tự tin, song ngay lập tức họ nhận ra rằng khoang luyện tập nhỏ bé khó thao tác hơn nhiều so với điều kiện người ta tưởng. Trong một buồng lái nhỏ người ta thấy xuất hiện một cảm giác cô đơn lạ lùng, họ cảm thấy bị tách rời hoàn toàn khỏi thế giới bên ngoài.
Larry là một học viên có năng khiếu. Chàng rất chăm chú nghe giảng trong lớp và lĩnh hội mọi điều người ta truyền đạt. Chàng làm hết toàn bộ các bài tập ở nhà và làm hết sức đầy đủ, cẩn thận. Chàng không hề tỏ ra nóng ruột, bứt rứt hoặc chán ngán gì cả. Trái lại, chàng là một học sinh rất chăm chỉ trong khoá học và chắc chắn là học sinh xuất sắc nhất. Chỉ có một lĩnh vực mới mẻ đối với Larry đó là thiết bị phi cơ DC-4. Những loại máy bay qua tay Douglas là loại máy bay dài, bóng láng với một số thiết bị chưa từng có khi chiến tranh bắt đầu. Larry bỏ ra nhiều giờ để khảo sát các máy bay, từng inch một, nghiên cứu cách lắp ráp chúng với nhau và cách thức chúng hoạt động. Tối tối chàng cặm cụi với hàng chục cuốn sách giáo khoa về sử dụng máy bay.
Một đêm khuya sau khi tất cả các học viên đã rời khỏi xưởng để máy bay, Sakowits còn bắt gặp Larry ngồi trong một chiếc DC-4, chàng đang nằm ngửa ra dưới buồng lái để xem xét hệ thống dây điện.
– Thú thực với anh là thằng khốn nạn này đang tìm cách tranh việc của tôi đấy – Sáng hôm sau Sakowits bảo với Carl Eastman như vậy.
Eastman cười.
– Cứ như cách y đang làm thì rồi đây y có thể đạt được đấy.
Kết thúc tám tuần lễ, người ta tổ chức một lễ nho nhỏ mừng tốt nghiệp. Catherine đầy tự hào đáp máy bay tới New York để chứng kiến việc người ta gắn cho Larry phù hiệu đôi cánh của người hoa tiêu lên áo của chàng.
Chàng cố tỏ ra xem thường việc này.
– Cathy ạ, cái mảnh vải họ treo cho anh chỉ là chuyện vớ vẩn, cần phải nhớ rằng cái chính là công việc khi bước vào khoang lái.
– Ấy anh chớ nói vậy – Nàng bảo – Em đã trao đổi với đại uý Sakowits, ông ấy cho biết rằng anh là học viên xuất sắc.
– Cái thằng Ba Lan ngậm hột thị đó biết gì mà nói! – Larry bảo – Thôi ta đi tổ chức ăn mừng đi.
Tối hôm đó Catherine và Larry cùng với bốn học viên cùng lớp với Larry và các bà vợ của họ đi tới ăn tối tại câu lạc bộ Hai mươi mốt ở phố Năm mươi hai Đông. Căn phòng lớn đông nghịt người, chủ tiệm cho họ hay rằng nếu không có việc đặt trước thì sẽ không có bàn.
– Cái tiệm khốn nạn? – Larry bảo – Thôi ta sang tiệm Toots Shor bên cạnh.
– Khoan đã – Catherine nói. Nàng tiến đến người bồi trưởng, hỏi xin gặp Jerry Berns.
Một lát sau, một người thấp bé, gầy gò với đôi mắt xám xoi mói, hối hả tiến ra, nói:
– Tôi là Jerry Berns. Bà cần gì tôi giúp ạ?
Catherine giải thích:
– Vợ chồng chúng tôi cùng mấy người bạn, chúng tôi có mười người cả thẩy.
Ông ta lắc đầu:
– Nếu như các vị không đặt chỗ trước…
– Tôi là cộng sự của ông William Fraser – Catherine nói.
Jerry Berns nhìn sang nàng trách móc.
– Thế mà bà không nói ngay cho tôi hay. Xin đợi cho mười lăm phút để tôi thu xếp.
– Cảm ơn ông – Catherine đáp, vẻ biết ơn.
Nàng quay lại chỗ cả tốp kia đang đứng đợi.
– Lạ chưa? – Catherine nói – Chúng ta có bàn rồi đấy?
– Em làm thế nào xoay sở được thế? – Larry hỏi.
– Dễ thôi mà. Em nhắc đến tên của William Fraser. – Nàng nhìn thấy cái nhìn là lạ trong đôi mắt Larry. – Anh ấy thường tới đây. – Catherine nói tiếp rất nhanh – Và anh ấy có dặn em nếu như có đến đây, cần bàn ăn ngay thì cứ nhắc đến tên anh ấy.
Larry quay lại những người kia:
– Thôi, chuồn khỏi đây ngay. Chỗ này chỉ dành cho các đôi uyên ương.

Tốp người tiến ra cửa. Larry quay lại Catherine:
– Đi chứ?
Catherine lưỡng lự nói:
– Thì đi. Em chỉ muốn cho họ biết rằng chúng ta không…
– Mẹ cha chúng nó? – Larry nói to – Em có đi không nào?
Mọi người đổ dồn nhìn về phía họ. Catherine cảm thấy mặt đỏ bừng.
– Vâng – Nàng đáp. Nàng quay lại, bước theo sau Larry ra cửa.
Họ tới một tiệm ăn Italia ở Đại lộ thứ Sáu và ăn một bữa rất tồi. Bề ngoài Catherine tỏ ra như không hề có chuyện gì xảy ra, song bên trong nàng giận sôi người.
Nàng giận Larry vì chàng đã cư xử như con nít và vì đã nhục mạ nàng giữa chỗ đông người.
Khi họ về đến nhà, nàng đi thẳng và phòng ngủ không nói một lời, cởi xống váy, tắt đèn, đi ngủ ngay. Nàng nghe thấy Larry ở phòng khách đang pha rượu uống.
Mười phút sau, chàng bước vào phòng ngủ, bật đèn lên rồi tiến tới bên giường:
– Cô định tự hành hạ mình đấy à? – Chàng hỏi.
Nàng ngồi dậy, nổi đoá:
– Anh đừng bắt em phải tự vệ. Thái độ của anh tối hôm nay không thể tha thứ được. Cái gì len vào anh vậy?
– Thì cũng cái thằng đó len vào cô đấy.
Nàng trừng mắt nhìn lại:
– Sao?
– Tôi đang nói đến cái ông toàn thiện toàn mỹ Bill Fraser đấy.
Nàng nhìn chàng, ngơ ngác không hiểu:
– Bill chỉ làm những việc gì giúp đỡ cho chúng ta thôi.
– Đừng có giả bộ ngớ ngẩn – Chàng nói – Cô nhờ hắn mà có việc làm. Tôi cũng nhờ hắn mới có việc làm. Bây giờ hai ta không thể vào tiệm ăn nếu không được Fraser cho phép. Đấy, tôi đã ớn với việc hắn găng họng tôi ra hằng ngày.
Catherine choáng váng trước giọng nói của Larry hơn là nội dung chàng nói gì. Cái giọng đó đầy vẻ chán chường, bất lực và lần đầu tiên nàng nhận thấy chắc hẳn là chàng bị dày vò đau khổ lắm. Chứ sao nữa? Bốn năm đi chiến đấu trở về chàng lại phát hiện ra vợ chàng cùng hội cùng thuyền với người tình cũ. Tồi tệ hơn nữa, nếu không có sự can thiệp của Fraser chàng không thể tự kiếm ra được việc làm.
Catherine nhìn Larry, phút giây đó nàng chợt nhận ra đây là một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời vợ chồng của họ. Nếu như nàng còn ở lại với chàng, thì chàng phải là trước hết, trước cả công việc của nàng, trước hết thảy mọi thứ. Lần đầu tiên Catherine cảm thông thật sự với Larry.
Dường như đọc được ý nghĩ của nàng. Larry nói với vẻ ăn năn:
– Anh xin lỗi. Tối nay anh hành động như một thằng khùng. Nhưng khi chúng ta không kiếm được bàn ăn mà em vừa nhắc đến cái tên Fraser kỳ diệu kia thì anh… anh bất ngờ lộn ruột lên như thế đấy.
– Em cũng xin lỗi, anh Larry ạ – Catherine nói – Em sẽ không bao giờ làm cho anh phải khó chịu nữa đâu.
Khi họ ôm chặt nhau, Larry bảo:
– Đừng bỏ anh, Cathy nhé.
Catherine cảm thấy nàng đã đạt tới hạnh phúc, nàng ghì chặt lấy chàng:
– Em sẽ không bao giờ bỏ anh đâu, cưng ạ.
***
Đợt đi công tác đầu tiên. Larry làm hoa tiêu trên chuyến bay 147 từ Washington đi Paris. Sau mỗi chuyến bay chàng ở lại Paris bốn mươi tám tiếng đồng hồ, sau đó trở về nhà nghỉ ba ngày rồi lại bay chuyến khác.
Một buổi sáng Larry gọi đến văn phòng của Catherine giọng đầy phấn kích:
– Này em, anh đã kiếm được một nhà hàng rất tuyệt dành cho chúng mình. Em có thể bỏ đó mà đi ăn trưa nay được không?
Catherine nhìn đống công văn phải thảo và đem duyệt trước buổi trưa nay, rồi đánh bạo:

– Được thôi.
– Mười lăm phút nữa anh sẽ tới đón em.
Lucia, người trợ lý của nàng than thở:
– Chị không thể bỏ mặc tôi được đâu. Ông Stuyvesant sẽ làm tùm lum lên ngay nếu như chúng ta không chuẩn bị cuộc vận động này trong ngày hôm nay.
– Cứ xếp đó đã Catherine bảo – Tôi phải đi ăn trưa với chồng tôi.
Lucia nhún vai:
– Tôi không trách chị. Bao giờ chị chán anh ta thì nhớ cho tôi hay.
Catherine cười khẩy:
– Chị già quá rồi, không được đâu.
Larry đón Catherine lên xe ở trước sở làm việc.
– Anh làm cho công việc của em ngày hôm nay thêm căng thẳng phải không? – Chàng ranh mãnh bảo.
– Đâu có.
Chàng cả cười:
– Tất cả cái bọn hành chính đó sẽ bị một vố choáng váng.
Larry lái xe về phía phi trường.
– Nhà hàng có xa không? – Catherine hỏi. Chiều nay nàng có năm cuộc hẹn làm việc, bắt đầu từ lúc hai giờ.
– Không xa lắm… Chiều nay em bận à?
– Không – Nàng chối liền – Không có gì quan trọng.
– Tốt.
Khi họ rời đường rẽ vào phi trường, Larry lái xe quẹo vào đó.
– Nhà hàng ở trong phi trường?
– Ở cuối đằng kia – Larry đáp.
Chàng đỗ xe lại, nắm lấy tay Catherine và dẫn nàng vào cổng của hãng Pan American. Một cô gái đầy hấp dẫn ngồi sau bàn chào Larry bằng đích danh chàng.
– Đây là vợ tôi – Larry nói đầy tự hào – Còn đây là Amy Winston.
Họ chào nhau.
– Nào ta đi – Larry nắm lấy cánh tay nàng và họ về phía đường dốc xuất phát.
– Kìa anh Larry… Đi đâu…
– Chà, em là cô gái nhiễu sự nhất mà anh đưa đi ăn trưa đấy.
Họ tiến tới đến cửa 37. Hai người ngồi sau quầy bán vé cho hành khách lên phi cơ. Có một tấm bảng thông báo ghi: “Chuyến bay 147 đi Paris – Xuất phát 1 giờ chiều”.
Larry tiến tới chỗ một người ngồi sau bàn:
– Nàng đây rồi, Tony – Chàng trao cho người kia một tấm vé máy bay – Cathy, đây là anh Tony Lombardi. Còn đây là Catherine.
– Tôi đã được nghe nói chiều về chị – Gã đàn ông cười toe toét – Vé của chị đã xong rồi – Y trao cho nàng tấm vé.
Catherine kinh ngạc nhìn tấm vé:
– Thế này là thế nào?
Larry mỉm cười:
– Anh đã dối em đấy. Anh không đưa em đi ăn trưa đâu mà đi Paris đấy. Sang nhà hàng Maxim.
Giọng Catherine lạc hẳn:
– Ma… Maxim? Ở Paris? Bây giờ?
– Đúng thế?
– Em không đi được – Catherine than vãn – Không thể đi Paris bây giờ được.
– Đi được mà – Chàng cười ha hả – Anh đã lấy hộ chiếu cho em rồi.
– Larry! Anh điên rồi sao? Em không mang theo quần áo Có hàng tỉ cuộc hẹn làm việc. Em…

– Đến Paris anh sẽ mua quần áo cho em. Miễn tất cả cuộc hẹn đó. Trong vài ba ngày tới không có em, Fraser vẫn có thể xoay sở được.
Catherine trừng trừng nhìn chàng, không biết nói gì nữa. Nàng nhớ lại những điều nàng đã quyết định phải làm. Larry là chồng nàng kia mà. Chàng phải được ưu tiên số một. Catherine nhận ra rằng điều quan trọng đối với Larry không phải là việc đưa nàng sang Paris. Chàng muốn trổ tài cho nàng thấy, cho nên mới chèo kéo nàng đi trên chuyến phi cơ do chàng dẫn đường. Thế mà suýt nữa nàng làm hỏng hết cả dự định này. Nàng nắm lấy tay chàng, nhìn chàng, mỉm cười:
– Chúng ta còn đợi gì nữa nhỉ? Em đến chết đói bây giờ!
Paris không thiếu gì trò du hý. Larry đã bố trí nghỉ phép một tuần. Catherine có cảm tưởng là bất kể ngày hoặc đêm, giờ nào nàng cũng có việc để làm. Họ lưu trú tại một khách sạn nhỏ xinh xắn ở bên bờ tả ngạn sông Senie.
Ngay buổi sáng đầu tiên ở Paris, Larry đưa Catherine tới một nhà hàng ở Champs Elyséls, tại đây chàng cố tìm mua rất nhiều hàng cho nàng. Song nàng chỉ mua những thứ mà nàng cần vì những thấy choáng váng trước tình hình thứ gì ở đây cũng đắt.
– Em có biết em được thoải mái chọn không? – Larry hỏi – Em quá áy náy về chuyện tiển nong đấy. Nhưng em đang đi hưởng tuần trăng mật cơ mà.
– Vâng, thưa ngài. – Nàng đáp. Song nàng từ chối mua một chiếc áo dài dạ hội vì nàng thấy không cần. Khi nàng hỏi gặng xem Larry lấy đâu ra nhiều tiền như vậy thì Larry gạt đi không chịu giải thích, song cuối cùng nàng cứ một mực đòi được biết.
– Anh được tạm ứng lương – Larry bảo – Cũng khá đấy chứ?
Nhưng Catherine không dám bày tỏ ý kiến gì. Về vấn đề tiền nong, chàng như một đứa trẻ, rộng rãi, vô tư lự, và một phần tình hình thoải mái của chàng là ở đây. Tính cách này cũng thấy được ở cha nàng trước đây.
Larry đi tham quan một vòng quanh Paris, thăm bảo tàng Louvre, Tuileries và Les Invalides, thăm mộ chí của Napoléon. Chàng đưa nàng tới một nhà hàng trang trí sặc sỡ ở gần Sorbonne. Họ đi tới Les Halles, đến chợ nhiều tầng của Paris, ngắm nhìn cảnh rau quả và thịt tươi được mang từ các nông trại khắp nước Pháp tới đây. Họ trải qua buổi chiều chủ nhật cuối cùng tại Versailler, sau đó ăn tối tại khu vườn tuyệt đẹp ở Cog Hardi ngoại ô Paris. Thật là một tuần trăng mật tuyệt đẹp lần thứ hai của họ.
Hai Sakowits đang ngồi trong văn phòng, mở xem các báo cáo nhân sự hàng tuần. Trước mặt ông lúc này là báo cáo về Larry Douglas. Sakowits ngả người ra sau, nghiên cứu bản báo cáo, bặm môi suy nghĩ. Cuối cùng ông lại nhổm dậy và bấm náy nội đàm, bảo:
– Cho anh ta vào.
Một lát sau, Larry bước vào, trong bộ đồng phục của hãng Pan American, khoác theo một chiếc túi bay. Chàng mỉm cười với Sakowits, nói:
– Xin chào sếp.
– Mời ngồi.
Larry nặng nhọc ngồi xuống ghế đối diện chiếc bàn rồi châm điếu thuốc, hút. Sakowits bảo:
– Tôi có trong tay một báo cáo cho biết rằng thứ hai tuần trước ở Paris anh đã đăng ký để xin chuyến bay chậm hơn ấn định bốn mươi lăm phút.
Nét mặt Larry bỗng biến sắc:
– Tôi bị kẹt vì một cuộc diễu binh ở Champs Elysées. Song chiếc phi cơ vẫn cất cánh đúng giờ. Tôi không biết là ở đây người ta quản lý một trại con trai tồng ngồng.
– Chúng tôi quản lý một hãng máy bay – Sakowits lặng lẽ nói – Và chúng tôi quản lý theo điều lệnh.
– Thôi được – Larry bực dọc đáp – Từ nay tôi sẽ không đến gần Champs Elysées nữa. Còn gì nữa không?
– Còn đại uý Swift cho rằng anh đã làm một hai ly trước khi cất cánh trong hai chuyến bay gần đây.
– Hắn nói xạo? – Larry quát lại.
– Cớ gì mà hắn phải nói xạo?
– Bởi vì hắn sợ tôi sẽ tranh mất việc của hắn – giọng Larry càng thêm bực dọc – Thằng chó đẻ đó chỉ đáng là một con mụ đầy tớ già bẽn lẽn, đáng ra phải về hưu cách đây mười năm rồi.
– Anh đã từng bay với bốn trưởng cơ khác nhau, Sakowits nói – Vậy anh thích bay với ai nhất?
– Chẳng thằng nào hết – Larry đáp lại. Chàng nhận ra cái bẫy, song đã quá muộn. Lập tức, chàng vớt vát lại. – À, không… Họ đều tốt cả. Tôi không có gì phản đối họ.
– Họ cũng chẳng thích bay với anh đâu – Sakowits nói đều đều – Anh làm cho họ luôn lo lắng.
– Nói thế là quái gì?
– Nghĩa là khi có tình huống khẩn cấp, anh cần phải đảm bảo cho người ngồi ở ghế bên cạnh anh. Người ta không tin anh.
– Lạy Chúa? – Larry nổi khùng – Tôi đã từng sống qua bốn năm trong tình trạng khẩn cấp trên bầu trời nước Đức và vùng Nam Thái Bình Dương, hàng ngày phải giơ cái “gáo” ra hứng đạn, trong khi đó bọn chúng ru rú ngồi nhà, hưởng lương bẫm béo múp míp, thế mà bây giờ bọn chúng lại không tin tôi? Anh muốn giỡn tôi đấy hả?
– Ai cũng biết là anh rất xuất sắc trên máy bay tiêm kích rồi – Sakowits đáp nhỏ nhẹ. – Nhưng ở đây chúng ta đang điều khiển các máy bay hành khách. Đây là một cuộc chơi bóng kiểu khác.
Larry ngồi, hai tay nắm chặt, cố kiềm chế cơn giận dữ:
– Thôi được – Chàng cau có nói – Tôi đã nhận được thông điệp bay. Ông đã trao đổi xong chưa để tôi còn cho chuyến bay cất cánh sau vài ba phút nữa.
– Đã có người khác tiếp quản việc đó rồi – Sakowits nói – Anh đã bị sa thải.
Larry nhìn ông ta, kinh ngạc:
– Tôi làm sao?
– Douglas ạ, xét về một phương diện nào đó thì đây chính là lỗi tại tôi. Lẽ ra ngay từ đầu tôi không được thuê mướn anh mới phải.
Larry đứng vụt dậy, đôi mắt chàng bừng lên lửa giận dữ.
– Thế tại sao ông lại thuê tôi? – Larry gặng hỏi.
– Bởi vì vợ anh có một người bạn tên là Bill Fraser.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.