Những câu chuyện kỳ lạ của Darren Shan ( Tập 2: Đệ tử của Ma cà rồng )

Chương 3: tập 2 chương 11-15


Bạn đang đọc Những câu chuyện kỳ lạ của Darren Shan ( Tập 2: Đệ tử của Ma cà rồng ) – Chương 3: tập 2 chương 11-15

CHƯƠNG MƯỜI MỘT
Sam sống cách nơi gánh xiếc cắm trại khoảng một cây số. Nó ở cùng cha mẹ, hai em trai, một em gái, ba con chó, một con mèo, hai con vẹt, một con rùa và một cái hồ đầy cá nhiệt đới.
Nó cười rũ rượi, hồn nhiên nói thêm:
– Cứ như trên thuyền của ông Nô-ê vậy. Tớ tìm cách chuồn khỏi nhà càng lâu càng tốt. Ba má mình cóc cần đâu. Ông bà bảo con nít cần phải được tự do mới phát triển hết cá tính. Miễn là tớ còn về nhà ngủ là hai cụ khoái rồi. Thỉnh thoảng tớ bỏ học, ba má cũng chẳng quan tâm. Vì ông bà bảo trường học là một hệ thống giáo dục áp đặt, tàn-bạo; làm bẻ gãy ý chí và dập tắt sáng tạo của chúng ta.
Nó nói như ông cụ non. Nếu nghe nó nói chuyện, bạn không thể ngờ được là nó nhỏ tuổi hơn tôi.
Xoay xoay một củ hành muối quanh miệng (Sam mê hành muối lắm, lúc nào nó cũng tha theo một củ). Nó hỏi:
– Vậy là hai cậu ở trong gánh xiếc?
Evra nằm ườn trên cỏ, tôi ngồi trên một cành cây thấp. Sam leo trèo phía trên tôi. Chúng tôi chưa kịp trả lời, nó lại hỏi:
– Diễn trò gì vậy? Chẳng thấy hình vẽ trên xe gì hết? Lúc đầu, tớ cứ tưởng đây là một đoàn du lịch. Sau khi quan sát tớ mới chắc là một đoàn biểu diễn trò gì đó.
Evra véo von cất tiếng:
– Chúng tôi là bậc thầy của những trò kỳ lạ, đầy biến ảo, siêu thực đến không ngờ.
Hắn làm Sam mê mẩn. Ước gì tôi cũng nói được như Evra. Tôi là đứa ăn nói không được trôi chảy lắm.
Sam sôi nổi hỏi:
– Xiếc ảo thuật chứ gì?
Tôi láu táu nói ngay:
– Ảo thuật là chuyện nhỏ. Đây là Gánh Xiếc Quái Dị.
Nó há hốc miệng làm rớt cả miếng hành, lắp bắp hỏi:
– Người… người hai đầu và những thứ giống… giống như thế hả?
– Đại khái vậy. Nhưng những diễn viên của chúng tớ tuyệt vời lắm, không chỉ là những người trông khác thường đâu.
Nó liếc cậu bé rắn, gật gù:
– Lúc đầu tớ tưởng cậu ấy bị bệnh ngoài da, không ngờ còn có những người như thế không đoàn nữa. Những người kia trông như thế nào?
– Cậu hỏi những diễn viên hả? Người đàn bà có râu…
Evra thêm:
– Người-sói.
Tôi tiếp:
– Người Hai-bụng.
Lần lượt chúng tôi đưa ra hết danh sách diễn viên. Thậm chí Evra nói đến tên cả những diễn viên tôi chưa từng thấy bao giờ. Họ đến và đi, tuỳ theo nơi trình diễn.
Thằng Sam đờ đẫn cả người. Lần đầu tiên, từ khi gặp, nó im thin thít, miệng há hốc, mắt thao láo, lắc đầu lia lịa như thể không tin nổi những gì đang nghe. Chúng tôi chấm dứt rồi, nó vẫn ngồi im một lúc mới thì thầm:
– Thật khó tin. Các cậu là những đứa trẻ may mắn nhất hành tinh rồi đấy. Sống cùng một gánh xiếc quái dị thật sự, du lịch khắp thế giới, trực tiếp tham gia những điều bí ẩn tuyệt vời. Ước gì mình đổi chỗ được với các cậu.
Tôi cười thầm, nghĩ: Chẳng đời nào nó đổi chỗ với tôi, nếu nó biết toàn bộ sự thật.
Nhưng Sam chợt nghĩ ra một sáng kiến, nó phấn khởi nói:
– Nè, chắc chắn mình không thể nào đổi chỗ với các cậu được, nhưng mình lanh lợi, thông minh, chịu khó làm việc, rất có trách nhiệm. Mình làm phụ tá cho các cậu được mà. Giúp mình đi.
Tôi và Evra ngó nhau cười. Evra bảo:
– Không được đâu, Sam. Nếu cậu lớn hơn, hay cha mẹ cậu gửi gắm thì lại khác.
– Ba má mình không quan tâm đâu. Ông bà còn mừng ình nữa. Ba má mình vẫn bảo, du lịch làm tâm hồn rộng mở, vì được đi nhiều, thấy nhiều mà.
Evra lắc đầu:
– Mình rất tiếc. Có thể đến khi cậu lớn hơn thì được.
Sam tức giận, bứt lá, rung cành làm lá ào ào đổ xuống tôi và Evra. Nó tuôn ra một tràng:
– Thật bất công. Ai cũng chỉ có một câu “chờ mày lớn đã”. Thế giới sẽ ra sao nếu Alexander Đại Đế cũng phải chờ đến khi khôn lớn? Còn Jean d’Arc nữa, nếu bà ta cũng chờ đến khi khôn lớn thì đế quốc Anh nuốt chửng nước Pháp rồi. Ai quyết định ột người phải đủ lớn mới được tự do hành động chứ? Đó là chuyện cá nhân của một con người mà.
Nó tiếp tục phàn nàn về người lớn và “hệ thống hủ bại”, về thời gian trưởng thành đủ để làm một cuộc cách mạng của trẻ em. Nó làm tôi tưởng mình đang nghe một nhà chính trị điên khùng trên tivi. Nó gào lên:
– Nếu một đứa trẻ muốn mở một lò bánh ngọt, hãy để nó làm. Nếu nó muốn làm nài ngựa, hãy đồng ý đi. Nếu nó muốn làm một nhà thám hiểm, tại sao không đồng ý. Chúng ta là nô lệ trong một thời đại văn minh. Chúng ta…
Evra bỗng hỏi:
– Sam, cậu muốn đến xem con rắn của mình không?
– Tớ hả? Tưởng chẳng bao giờ cậu mời tớ chứ.
Nó toét miệng cười ngay. Tụt xuống khỏi cây, le te chạy trước, chẳng còn nhớ gì đến bài diễn văn hùng hồn. Evra và tôi lững thững theo sau, vui vẻ cười, cảm thấy hai đứa chúng tôi “già và khôn” hơn chú nhóc nhiều.
CHƯƠNG MƯỜI HAI
Sam thấy con rắn của Evra là vật tuyệt vời nhất trần đời. Nó chẳng e dè, sợ hãi chút nào, tỉnh queo để cô ả quấn quanh cổ như tấm khăn choàng. Miệng nó không ngớt hỏi: con rắn dài bao nhiêu, ăn gì, bao lâu mới lột da một lần, bò nhanh không?
Evra trả lời tất cả những câu hỏi. Hắn là chuyên gia về rắn mà. Chẳng có điều gì về vương quốc rắn mà hắn không biết. Thậm chí hắn còn có thể cho Sam biết gần đúng số vẩy trên mình con rắn.
Chúng tôi hướng dẫn Sam một vòng quanh trại. Anh chàng thật sự run sợ khi đứng trước chuồng và nghe tiếng gầm gừ của Người-sói. Sau khi được giới thiệu với Hans Tay-thần, nó may mắn được chứng kiến Rhamus Hai-bụng đang luyện tập. Mắt Sam thô lố muốn lòi cả tròng khi thấy Rhamus rau ráu nhai một cái ly thuỷ tinh thành mảnh vụn, nuột ngon lành, chắp vá lại cái ly từ trong bụng, đẩy lên cuống họng, rồi nhả ra khỏi miệng.
Tôi định biểu diễn mấy trò với Quý bà Octa cho nó xem, nhưng cảm thấy không có hứng. Thiếu chất “thuỷ ngân đỏ”, bụng tôi lúc nào cũng sôi sùng sục vì đói, dù ăn bao nhiêu đồ ăn vẫn không cảm thấy no. Nhiều khi tôi chóng mặt đến nỗi phải ngồi thụp xuống. Nếu tôi bị ngất khi con nhện đã ra khỏi lồng là cực kỳ nguy hiểm. Chỉ một giây mất tập trung, bạn sẽ bị nó tấn công liền.
Nếu có thể, thằng Sam sẵn lòng ở lì với chúng tôi suốt đêm ngày. Nhưng trời sắp tối, gần đến giờ ông Crepsley thức dậy, tôi và Evra còn nhiều việc phải làm; nên tôi giuc nó ra về. Sam năn nỉ:
– Cho tớ ở thêm một tí nữa thôi.
– Nhà cậu sắp tới giờ ăn rồi đó.
– Mình ăn với các cậu được không?
Tôi phịa:
– Không đủ đồ ăn đâu.

– Không sao. Mình ăn hành no lắm rồi.
Evra bảo:
– Có thể cậu ấy ở lại cũng được.
Tôi ngạc nhiên nhìn hắn, nhưng Evra nháy mắt cho tôi biết hắn chỉ giả bộ thôi. Tuy nhiên Sam hớn hở ra mặt, hỏi:
– Được không?
– Được chứ. Nhưng cậu phải giúp tụi mình một tay.
– Làm gì cũng được, mình không ngại đâu. Nào, làm gì đây?
– Cho Người-sói ăn, tắm rửa và đánh răng.
Bộ mặt tí tởn của Sam biến thành mặt mếu:
– Ngư… ư… ười… só… ó… ói… hả?
– Đừng sợ. Ăn uống no đủ, Người-sói êm ru hà. Ít khi nó cắn người nào giúp nó lắm. Nếu bị tấn công, cậu chỉ việc tránh sao đừng để đầu chui tọt vào mồm nó, thà thọc cánh tay vào. Mất một tay còn hơn mất đầu.
Sam vội nói:
– Mình phải về nhà gấp. Bây giờ mới nhớ, má mình bảo tối nay nhà mình có khách.
– Ồ, vậy là cậu phải về sao?
Evra cười nói. Sam liếc về phía chuồng Người-sói, rồi vội bước đi. Trông nó buồn rười rượi, tôi gọi với theo:
– Sam, mai cậu làm gì?
– Không làm gì hết?
– Chiều mai đến chơi với tụi tớ, được không?
Nó ngó lại, ngập ngừng nói:
– Mình không phải đánh răng, cho ăn…?
– Không đâu.
Evra cười nói. Chúng tôi ngoắc tay chào nó. Tôi bảo Evra:
– Thằng nhóc được quá chứ?
– Được. Phải chi nó đừng ra bộ cụ non và bớt thỏ đế một chút. Tuy nhiên cu cậu cũng được.
– Cậu nghĩ nó vào đoàn được không?
– Chẳng khác nào một chú chuột nhắt lọt vào giữa bầy mèo.
– Hả? Cậu định nói gì?
– Cuộc sống này không phải ai cũng chịu nổi đâu. Xa gia đình mấy tuần, phải cọ cầu tiêu, nấu ăn ấy chục người… Nó la làng lên mà bỏ chạy.
– Chúng mình sống được đó thôi.
– Chúng mình khác. Chúng mình không giống mọi người. Mọi người có tổ ấm để quay về. Chúng mình chỉ có nơi này…
Hắn ngừng lại, chau mày, nhìn xa xa phía sau tôi. Tôi vội quay lại. Suốt mấy giây, tôi chẳng thấy gì, nhưng rồi qua những tán cây về hướng đông, tôi thấy những tia sáng nhấp nháy.
– Ai vậy nhỉ?
– Mình cũng không biết?
Mấy phút sau, ánh đuốc lại gần hơn chúng tôi đã có thể nhìn thấy bóng khoảng sáu, bảy người. Rồi, khi họ qua khỏi lùm cây, tôi đã nhận ra họ là ai, toàn thân tôi nổi da gà.
Đó là những người bé nhỏ, trùm kín mít từ đầu đến chân bằng môt màu xanh, mà tôi và Steve đã thấy đêm đầu tiên xem xiếc. Họ phụ giúp diễn viên trên sân khấu và bán kẹo bánh, đồ lưu niệm. Mấy tháng qua, hầu như tôi đã quên bẵng mấy người tí hon này.
Họ ra khỏi rừng, từng cặp một. Tôi đếm được mười hai người. Người thứ mười ba đi sau cùng cầm cây đuốc.
Tôi thì thầm với Evra:
– Họ từ đâu ra vậy?
– Mình không biết. Họ đi khỏi đoàn mấy tuần trước. Chẳng ai biết họ đi đâu. Lúc nào họ cũng sát cánh bên nhau.
– Họ là ai?
– Là…
Bỗng Evra ngừng bặt, mắt mở to khiếp đảm.
Chính người thứ mười ba, cao lớn nhất – lúc này đã thấy rõ mặt – làm cho Evra khiếp đảm.
Đoàn người khăn áo xanh lặng lẽ đi qua. Khi người thứ mười ba tiến tới, tôi nhận thấy hắn ăn mặc khác những người trong nhóm. Không cao lắm, hắn chỉ cao lớn hơn, nếu so sánh với những người áo xanh kia. Tóc hắn ngắn và bạc trắng, đeo cặp kính dày cộm, áo vàng, ủng xanh. Người hắn mập ú, tròn quay; tướng đi lạch bạch như vịt bầu.
Khi qua mặt chúng tôi hắn mỉm cười vui vẻ. Tôi cũng cười lại, nhưng Evra thì cứng đờ người không nhếch nổi mép.
Họ đi đến một bãi đất trống sau trại. Rồi những người áo xanh bắt đầu dựng lều – chắc họ đều đem theo vật dụng dưới lớp áo choàng xanh. Người thứ mười ba tiến thẳng đến xe ông Cao.
Tôi nhìn Evra. Toàn thân nó run rẩy, dù mặt nó không bao giờ trắng bệch – vì màu da khác thường của nó – nhưng lúc này nhợt nhạt hơn bao giờ. Tôi hỏi nhỏ:
– Cậu sao vậy?
Nó lặng lẽ lắc đầu, không mở miệng trả lời nổi. Tôi hỏi dồn dập:
– Chuyện gì? Sao cậu hốt hoảng quá vậy? Người đó là ai?
– Đó là… đó là…
Evra tằng hắng, hít mạnh một hơi. Khi nó cất tiếng nói, giọng nó run rẩy, thì thào, đầy khiếp đảm:
– Đó là lão Tí-nị.
Tôi không thể nào cạy miệng cho nó nói thêm một lời nào nữa.
CHƯƠNG MƯỜI BA
Tới buổi chiều tối, Evra đã bớt sợ, nhưng nó vẫn chưa hoàn toàn bình thường như trước. Suốt đêm nó tỏ ra bực dọc, khó chịu. Tôi giật con dao, giúp nó gọt khoai tây cho bữa ăn chiều, vì sợ nó cắt phải tay.

Sau khi ăn và rửa chén bát, chúng tôi ngồi trong lều. Evra chơi với con rắn. Tôi lên tiếng hỏi về ông Tí-nị.
Evra im lặng, tôi tưởng nó sẽ không trả lời, nhưng rồi nó thở dài bắt đầu nói:
– Lão Tí-nị là sếp của những người Tí-hon.
– Là những người nhỏ bé trùm kín mít từ đầu đến chân đó hả?
– Đúng vậy. Lão gọi chúng là Tí-hon. Lão là sếp của đám đó. Lần sau cùng mình gặp lão là hai năm trước. Lão ít khi đến đây, nhưng mỗi lần lão xuất hiện là mình rùng mình, rởn cả tóc gáy. Đó là con người quỉ quái nhất mình từng biết.
– Tớ thấy ông ta cũng đàng hoàng đấy chứ.
– Lần đầu gặp lão, mình cũng nghĩ vậy. Nhưng cậu cứ đợi khi nào cậu có dịp nói chuyện với lão thử xem. Khó tả lắm, mỗi lần lão nhìn mình, mình có cảm giác như lão sắp giết mình, lột da đem nướng vậy.
– Lão ta ăn thịt người à?
– Không biết. Có thể đúng, có thể sai. Nhưng cậu sẽ có cảm giác là lão muốn ăn thịt cậu. Không phải chỉ riêng mình có ý nghĩ kỳ cục đó đâu. Tất cả mọi người trong gánh xiếc đều có cảm giác giống như thế. Không ai ưa lão. Kể cả ông Cao. Mỗi khi lão quanh quẩn tại đây, ông Cao lại bẳn gắt, khó chịu.
– Sao lại không ai ưa? Những người Tí-hon phải mến lão mới theo và tuân lệnh lão chứ?
– Có lẽ chúng sợ lão. Có thể lão ép buộc chúng phải tuân phục vì chúng là nô lệ của lão.
– Có bao giờ cậu trò chuyện với họ chưa?
– Chúng không hề nói. Mình không biết là chúng không thể nói hay không thích nói, nhưng tất cả mọi người ở đây chưa bao giờ được nghe chúng nói một tiếng nào. Chúng rất siêng năng, làm tất cả những gì được bảo, nhưng câm lặng như những xác ướp biết đi.
– Cậu có thấy mặt họ không?
– Một lần. Chúng không bao giờ rời mũ trùm mặt. Nhưng một hôm, mình giúp hai tên Tí-hon di chuyển một cái máy rất nặng. Vì cái máy này đổ và nghiến nát chân một tên trong số chúng. Chắc đau đớn lắm, nhưng tên bị nạn không hề thốt một tiếng rên. Mũ trùm đầu rớt sang một bên, vì vậy mình mới thoáng nhìn được mặt nó.
Vuốt ve con rắn, Evra lặng lẽ tiếp:
– Khủng khiếp lắm! Mặt nó đầy sẹo và vết khâu, lõm vào như bị một quái vật khổng lồ bóp nát bằng móng vuốt. Không tai, không mũi, còn miệng có một vật như mặt nạ bịt ngang. Da nó xám ngoét như người chết, mắt như hai cái bát màu xanh lù lù sát trán. Nó không có một cọng tóc nào.
Evra rùng mình. Tôi cũng lạnh cả người.
– Rồi sao? Nó chết rồi à?
– Không biết. Mấy anh em nó khiêng đi. Mình luôn nghĩ chúng là anh em, nhưng chắc không phải.
– Cậu không gặp lại hắn bao giờ sao?
– Chúng trông giống hệt nhau. Chỉ cao hơn hay nhỏ hơn nhau một chút, thật sự không có cách nào phân biệt được. Mình đã cố gắng nhiều rồi, nhưng… bó tay.
Toàn chuyện lạ lùng! Mà tôi vốn mê tít những chuyện kỳ bí, lạ lùng. Tôi thật sự muốn tìm hiểu về ông Tí-nị. Với khả năng của ma-cà-rồng, có thể tôi sẽ khám phá ra bí mật này, sẽ tìm cách nói chuyện với một tên Tí-hon áo xanh kia. Tôi hỏi Evra:
– Đám Tí-hon từ đâu tới?
– Không ai biết. Thường thì chúng có mặt tại gánh xiếc từ bốn đến sáu tên. Đôi khi tự đến đông hơn. Đôi khi do lão ta đưa tới. Điều kỳ lạ là khi cậu tới, không có tên nào có mặt ở đây.
– Cậu nghĩ là có điều gì liên quan đến chuyện tôi và ông Crepsley tới đây?
– Tớ nghi lắm. Nhưng cũng có thể chỉ là tình cờ thôi. Hay là… định mệnh. Còn điều này nữa, cậu cần biết: Lão Tí-nị có họ là Desmond.
– Thì sao?
– Lão bắt mọi người gọi lão là Des.
– Là sao?
– Ghép mấy chữ đầu lại đi.
Tôi ghép thử: Des – Tí-nị… Destiny. Destiny. Destiny trong tiếng anh nghĩa là ĐỊNH MỆNH!
Nghe tôi thì thầm, Evra gật đầu đồng ý.
Càng bị thôi thúc thêm vì tò mò, tôi đặt đủ mọi câu hỏi với Evra. Gần như nó chẳng biết điều gì hơn về ông Tí-nị, càng mù tịt về những người áo xanh trùm đầu. Nó chỉ biết họ ăn thịt, người họ bốc ra một mùi rất kỳ cục, di chuyển thật chậm chạp. Họ không hề biết đau (hay không hề bày tỏ sự đau đớn). Và họ không có chút tinh thần hài hước nào.
– Sao cậu biết họ không có óc khôi hài?
– Nhờ Bradley Kéo-dài. Lão vẫn thường đi diễn với đoàn. Chân tay lão dẻo như cao su, có thể kéo dài lằng nhằng cả thước. Bradley có tật xấu là liên tục đem chúng tôi làm trò cười, tiếng cười của lão dễ ghét lắm. Lối trêu chọc của lão ta không chỉ làm cho cậu cảm thấy mình là một thằng ngố đâu, mà làm cho cậu cảm thấy mình thực sự là một đứa ngớ ngẩn, đần độn nhất trên đời. Một lần, cùng diễn chung trong một lâu đài Ả Rập. Đó là buổi diễn dành riêng ột tiểu vương. Ông ta thích thú tất cả các màn diễn, nhưng đặc biệt nhất là đối với tài năng của Bradley. Trong lúc chuyện trò, Bradley nói với tiểu vương, lão không thể đeo bất cứ đồ trang sức nào, chúng sẽ bị rơi rớt hay vỡ tung vì sự thay đổi của hình thể lão. Tiểu vương vội lấy một chiếc vòng nhỏ bằng vàng đeo vào cổ tay lão, rồi bảo lão thử biến dạng thân thể. Thế là Bradley làm cho tay to đùng, nhỏ xíu, ngắn ngủn, dài thòng… nhưng chiếc vòng vẫn cuốn quanh cổ tay lão. Tiểu vương bảo đó là nhờ phép thuật. Chỉ có thể tháo vòng khi nào người đeo thực sự muốn. Đó là một món quà vô giá, nhưng ông tặng cho Bradley để tỏ lòng hâm mộ.
Evra nhìn tôi nói tiếp:
– Cậu hỏi mình vì sao biết những tên Tí-hon không có óc khôi hài và mình đã bảo là nhờ Bradley mình mới biết, phải không? Chuyện thế này: Bradley rất khoái trêu chọc đám này. Lão giăng bẫy để treo họ tòng teng lên cao. Lão quăng áo choàng của họ vào lửa, bôi keo dính hay xà phòng lên dây biểu diễn, làm cho họ bị trơn trợt hay dính tay. Lão bỏ đinh vào đồ ăn của họ, hay khoá cửa xe, nhốt họ bên trong.
– Sao ông ta chơi ác thế?
– Mình nghĩ, tại đám kia trơ trơ, không hề tỏ ra một chút phản ứng nào. Lão Bradley chỉ khoái làm người khác phát cáu, nổi quạu lên, lão mới đã. Đám Tí-hon thì lại không hề rên rỉ kêu ca. Dường như chúng không quan tâm. Không quan tâm, đó là mọi người ở đây nghĩ thế.
Evra bật ra một âm thanh chẳng ra cười không ra rên:
– Hừ! Rồi một sáng thức dậy, chúng tôi chẳng tìm thấy Bradley ở đâu. Lão biến mất tăm. Chúng tôi chẳng có gì lo ngại, tiếp tục lên đường, vì diễn viên đến rồi lẳng lặng đi là chuyện thường xảy ra tại đây. Mình cũng chẳng nghĩ ngợi gì, cho đến hơn một tuần sau, lão Tí-nị xuất hiện, đem đi tất cả đám Tí-hon, chỉ để lại hai tên. Ông Cao bảo mình giúp đỡ hai tên còn lại này. Mình dọn dẹp quanh lều, cuốn võng hộ chúng (chúng chuyên môn nằm võng), vì vậy mình mới có cái võng đang nằm đó. Mình kể cho cậu nghe chuyện này rồi phải không?
Nó chưa kể, nhưng sợ nó lạc đề, tôi nín thinh. Evra tiếp:
– Sau đó mình lấy cái chảo to đùng đặt trên bếp giữa lều đi rửa. Mình đem chảo ra ngoài, đổ xương thịt thừa lên bãi cỏ. Rửa cái chảo sạch bong, mình đem lại vào lều. Rồi chợt nhớ lời ông Cao vẫn nói: “Phí của trời, mười đời không có”, mình trở ra nhặt nhạnh thịt thừa cho Người-sói. Lẫn trong mấy mẩu xương mình chợt thấy một vật lóng lánh…
Evra thọc tay vào trong một cái túi xách, đặt dưới võng, lấy ra một cái vòng vàng nhỏ. Nó đeo vòng vào cổ tay trái, lắc tay thật mạnh. Cái vòng như bám chặt lên da thịt nó.
Evra ngừng lắc tay, gỡ nhẹ cái vòng bằng mấy ngón tay phải, quăng cho tôi. Tôi ngắm nghía, hỏi:
– Vòng Tiểu vương cho Bradley?
– Nó đó. Mình không biết vì lão ta đùa quá lố hay vì chúng quá mệt mỏi vì bị liên tục trêu chọc. Nhưng kể từ đó chúng tôi hết dám giỡn mặt với đám Tí-hon câm như hến, suốt ngày xùm xụp trong đống vải xanh lè đó.
– Cậu làm gì với… à… mấy miếng thịt thừa đó? Chôn à?
– Ồ, không. Mình đã bảo là cho Người-sói ăn mà.
Nhìn tôi nhăn mặt vì ghê sợ, Evra nói như cái máy:
– Phí của trời, mười đời không có nghe con!
Tôi trợn mắt nhìn nó rồi rũ ra cười. Hai đứa ôm nhau, cười lăn lộn trên nền đất. Tôi cố nín, bảo:

– Không biết mùi thịt ra sao?
– Mình không biết. Chắc như mùi cao su.
Chúng tôi lại cười đến chảy nước mắt. Bỗng cửa lều được vén lên. Hans Tay-thần thò đầu vào hỏi:
– Tụi bây quậy gì mà dữ vậy? Ông Cao kêu hai đứa lên xe ông ấy ngay.
Evra hỏi, vẫn còn rúc rích:
– Ông ấy cần tụi này làm gì vậy?
– Ông ấy không cần. Nhưng ông Tí-nị cần. Ông Tí-nị đang ở trên xe ông Cao. Lên ngay đi.
Chúng tôi tắt ngay tiếng cười. Hans đi rồi, Evra lắp bắp:
– Tí…Tí… nị cần mình làm gì?
– Cậu nghĩ chuyện gì vậy?
– Mình… không… không biết.
Tôi biết nó đang nghĩ gì, vì tôi cũng đang nghĩ đến điều đó: Bradley Kéo-dài, đám Tí-hon áo xanh và cái chảo to đùng với những mảnh thịt xương thừa.
CHƯƠNG MƯỜI BỐN
Khi chúng tôi bước vào, trong xe đã có mặt đầy đủ ba ông: Cao, Crepsley và Tí-nị. Evra run như tàu lá, nhưng tôi không lo lắng lắm. Bạn biết sao không? Nhìn vẻ bứt rứt khó chịu của hai ông Cao và Crepsley, tự nhiên tôi cảm thấy yên tâm.
Tí-nị mời chúng tôi tỉnh bơ như đây là nhà của lão ta, chứ không phải ông Cao mới là chủ nhân.
– Vào đi các em. Cứ thoải mái như ở nhà mình vậy.
Evra cố gắng nói:
– Tôi đứng được rồi.
Tôi nói theo nó:
– Tôi cũng đứng.
Trong xe, lão Tí-nị là người duy nhất đang ngồi, tay mân mê một đồng hồ hình trái tim. Mỗi khi lão ngừng nói, tôi nghe rõ từng tiếng tíc tắc. Lão bảo:
– Tuỳ hai đứa. Này, chàng trẻ tuổi Darren Shan, em đúng là một thanh niên trên mọi phương diện rồi đấy. Hy sinh tất cả để cứu một người bạn, hiếm có chàng trai nào được như thế. Thời buổi này con người ích kỷ lắm. Thật đáng mừng khi thấy thế gian này còn sản sinh ra được những bậc anh hùng.
Ngượng đỏ mặt, tôi lúng búng nói:
– Tôi không phải là anh hùng.
– Có đấy. Em là một người hùng. Người hùng là gì nào? Là người làm tất cả để đem hạnh phúc cho người khác.
Tôi khoái chí mỉm cười. Không hiểu vì sao thằng Evra lại phải sợ ông già dễ thương, tốt bụng này nhỉ? Lão Tí-nị có gì đáng sợ đâu. Tôi thật sự mến lão rồi đấy.
– Crepsley cho ta biết em không chịu sử dụng máu người. Đúng, ta không trách em về chuyện đó. Máu người lớn tởm lắm, nhưng của trẻ con thì quá tốt, rất thuần khiết.
Tôi nhăn mặt cãi ngay:
– Không thể làm thế được. Trẻ em còn quá nhỏ và vô tội. Đó là tội giết hại trẻ em.
Lão nhướng mắt, nhếch mép cười:
– Thì sao nào?
Một luồng ớn lạnh chạy dọc sống lưng tôi. Lão nói đùa sao? Nhưng nhớ lại vụ ông Bradley bất hạnh, tôi thấy lão hoàn toàn ngiêm túc. Thình lình tôi chợt hiểu vì sao lão già này làm người ta khiếp hãi đến như vậy.
Tôi tưởng tượng, con người này có thể giết hại cả ngàn sinh mạng chỉ để nghe tiếng gào thét vì đau đớn của họ. Lão nói tiếp:
– Em biết không, trông em rất quen. Chúng ta đã gặp nhau bao giờ chưa, Darren Shan?
Tôi lắc đầu. Lão lại hỏi:
– Chắc chứ? Trông em quen lắm.
– Chưa. Nếu… nếu gặp… thì tôi đã nhớ.
– Đừng quá tin tưởng vào trí nhớ. Trí nhớ đôi khi là một con quái bịp bợm đấy. Nhưng không sao. Có thể ta lầm em với người khác.
Mép lão lại nhếch lên thành nụ cười (làm sao đã có lúc tôi nghĩ rằng đó là một nụ cười hiền lành được nhỉ?). Tôi biết lão vẫn chưa tin, nhưng rõ ràng là lão đã lầm tôi với ai đó, vì tôi chưa bao giờ gặp con người này.
Tay lão bóp chặt cái đồng hồ hình trái tim và trong một thoáng, hình như nó sáng rực lên và chảy ra. Tôi chớp mắt, rồi lấy tay dụi thật kỹ. Khi nhìn lại chiếc đồng hồ, ảo ảnh đó (chắc chỉ là ảo ảnh) không còn nữa. Lão ngồi thẳng lên, nói:
– Bây giờ vào việc. Các em đã thấy ta đến đây cùng đám Tí-hon. Đây là những tên mới được thu nạp, chưa thành thạo việc ở đây. Thường thì ta ở lại dạy dỗ cho chúng được thuần thục, nhưng ta kẹt công chuyện phải đi xa. Tuy nhiên đám này cũng thông minh lắm và chắc chắn chúng học hành cũng rất mau. Ta mong hai chàng trai đàng hoàng, tốt bụng này giúp đỡ chúng, để chúng mau chóng thích nghi với sinh hoạt chung của đoàn. Công việc cũng không nhiều đâu. Chủ yếu là tìm đồ ăn cho chúng. Vì, ta phải cho hai em biết, chúng rất háu ăn. Ta đã xin phép người quản lí của hai em – ông Cao và ông Crepsley rồi. Sao, hai chàng trai vui lòng giúp đỡ lão già này và những người bạn Tí-hon dễ thương rồi chứ?
Tôi nhìn Evra, thấy rõ nó không muốn nhận lời tí nào, nhưng vẫn phải gật đầu. Tôi làm theo nó.
Lão Tí-nị tươi roi rói:
– Tuyệt lắm! Evra Von biết khẩu vị những cục cưng của ta rồi. Có vấn đề gì, cứ báo cáo lại ông Cao, ông ấy giải quyết giúp cho.
Nói xong, lão ngoắc tay cho phép chúng tôi lui ra. Evra muốn chuồn ngay, nhưng tôi đứng lại, lấy hết can đảm hỏi:
– Xin lỗi ông, nhưng vì sao ông gọi họ là Tí-hon?
Lão từ từ đảo mắt nhìn quanh. Dường như lão ngạc nhiên vì câu hỏi của tôi, tuy lão không lộ ra, nhưng tôi thấy rõ điều đó khi nhìn miệng ông Cao và ông Crepsley há hốc. Tuy nhiên Tí-nị vui vẻ cắt nghĩa:
– Vì chúng nhỏ… tí xíu.
– Vẫn biết thế, nhưng chẳng lẽ họ không có một cái tên riêng đàng hoàng sao? Nghe Tí-hon cứ tưởng như những nhân vật trong truyện cổ tích, chẳng hạn như các cô tiên, các vị thần…
– Chúng là tiên đấy. Em thấy đầy rẫy trong truyền thuyết, truyện thần thoại, biết bao nhiêu là những sinh vật nhỏ xíu có phép thuật, phải không? Truyền thuyết phải được bắt nguồn từ một điều gì đó chứ. Những người bạn nhỏ bé, trung thành này bắt nguồn từ truyền thuyết của ta.
– Ý ông là những người lùn trong bộ áo trùm xanh đó là… tiên.
– Không. Tiên làm gì có thật. Những người lùn, theo kiểu nói thô kệch của em, đã được những con người ngu dốt nhìn thấy từ ngày xửa ngày xưa và đặt tên cho chúng là tiên, thần, yêu quái. Và họ đã dựng nên đủ thứ chuyện hoang đường về chúng.
– Vậy… chúng làm được những gì?
Nụ cười nhếch mép biến mất, lão gầm lên:
– Ta nghe nói mi là đứa tò mò hay hỏi, nhưng không ngờ mi… lắm mồm thế. Darren Shan, hãy nhớ điều này: chỉ vì tò mò mà con mèo bị sập bẫy.
Tức đến phát liều, tôi nói ngay:
– Tôi không phải là mèo.
Mặt tối sầm, lão vươn người sát tôi, rít qua kẽ răng:
– Nếu nói thêm một câu nữa, ta sẽ hoá kiếp mi thành mèo. Trên đời này, không có gì tồn tại mãi đâu, kể cả hình dạng của một con người.
Cái đồng hồ trong tay lão lại sáng rực lên, đỏ chót như một quả tim thật sự. Tôi thấy đã đến lúc phải chuồn khỏi đây ngay.
Ông Crepsley dặn dò:
– Đi ngủ đi. Đêm nay được nghỉ học.
Lão Tí-nị vẫy tay chào, giọng trở lại bình thường:
– Nhớ dậy sớm. Các cục cưng của ta xấu đói lắm, buổi sáng không có gì ăn, chúng ngứa răng lắm đấy.
Ra khỏi xe, chúng tôi chạy một mạch về lều. Lăn đùng ra sàn, hai thằng nghe tim nhau đập như tiếng trống. Một lát sau, Evra mới lên tiếng hỏi:

– Cậu điên hay sao ma hỏi lão lung tung vậy?
– Đúng, chắc mình điên thật.
Chúng tôi lên giường, nằm ngó nóc lều cả giờ. Rồi tôi chìm vào giấc ngủ, tôi mơ thấy lão Tí-nị và cái đồng hồ hình trái tim của lão. Nhưng trong mơ, đó không phải là đồng hồ. Đó là một quả tim người. Tim của tôi. Và khi lão bóp…
CHƯƠNG MƯỜI LĂM
Phải thức sớm để đi săn thức ăn cho đám Tí-hon, hai chúng tôi vừa mệt vừa ngái ngủ. Tôi hỏi Evra:
– Tụi nó ăn gì?
– Thịt. Bất cứ thịt gì, miễn là thịt.
– Chúng mình phải săn bắt bao nhiêu thú?
– Chúng có mười hai tên. Trung bình một con nhím hay một con thỏ cho hai tên. Một con chồn hay một con chó lớn đủ cho ba bốn tên. Chúng không kén ăn đâu. Chuột nhắt, chuột đồng cũng làm ráo.
Chúng tôi xách bao đi làm hai ngả. Evra bảo không cần thịt tươi, vì vậy nếu tôi vớ được con sóc hay cáo chết nào cứ việc lượm.
Bắt gặp một con chồn đang lặc lè tha một con gà, tôi núp sau bụi cây, rồi nhào ra đập.
Nó nhả ngay con gà chết, nhe răng, xông lên cắn tôi. Lách mình, tôi vươn tay, túm cổ con chồn và chỉ một cú vặn, một tiếng “rắc” vang lên, nó chết ngay đứ đừ.
Bỏ gà vào bao, tôi rạch một gân máu con chồn… Tôi không muốn làm chuyện này, nhưng tự nhủ mình không còn là người nữa. Một nửa trong tôi là môt ma-cà-rồng. Tôi cảm thấy đau khổ khi phải giết dù là thỏ, chồn hay sói. Nhưng tôi phải tập dần, nếu thiếu máu chúng, tôi sẽ chết. Nhưng còn đối với loài người? Tôi tha thiết mong sao tránh được điều này.
Sau đó tôi săn thêm được một con thỏ. Số thực phẩm này đủ cho sáu bảy tên áo xanh rồi.
Trở lại trại, tôi gặp Evra. Nó kiếm được một con chó chết và săn được một con chồn. Evra vui mừng bảo:
– Hôm nay mình may mắn ghê. Lại còn tìm ra một cánh đồng thả đầy bò. Đêm nay tụi mình ra đó, bắt trộm một con. Ít nhất, đám Tí-hon đó cũng ăn được mấy ngày.
– Chủ bò biết thì sao?
– Nhiều lắm. Khi họ phát hiện, chúng mình đã đi khỏi đây rồi.
– Nhưng bò là tiền, bắt thú hoang thì không sao, trộm cắp là có tội.
Evra thở dài:
– Chúng ta để lại tiền vậy.
– Làm gì có tiền?
– Một thứ mà gánh xiếc quái dị không bao giờ thiếu là… tiền.
Sau đó chúng tôi đi tìm gặp Sam. Nó ngồi trong bụi cỏ đợi chúng tôi từ lâu rồi. Tôi hỏi:
– Sao cậu không vào trại?
– Mình không muốn lạm dụng lòng tốt của hai cậu. Hơn nữa mình sợ, lỡ có ai thả Người-sói ra. Hôm qua, mình thấy như nó không ưa mình.
Evra bảo:
– Người-sói gầm gừ với tất cả mọi người.
– Có thể. Nhưng mình thấy càng tránh xa nó càng tốt.
Sam nhăn nhó như nó đang có cả ngàn thắc mắc. Chắc cả ngày hôm qua nó chỉ nghĩ đến chúng tôi. Nó hỏi Evra:
– Cậu không bao giờ mang giày à?
– Không. Lòng bàn chân tớ cứng lắm.
– Đạp phải gai hay đinh, có sao không?
Evra cười cười, ngồi xuống, đưa chân cho Sam:
– Lấy cái que cào thử xem.
Sam bẻ một cành cây, chọc mạnh vào lòng bàn chân của Evra, như cố đâm một lỗ thủng vào miếng da dày. Evra bảo:
– Một mảnh thuỷ tinh sắc may ra mới cắt nổi. Nhưng da mình mỗi năm lại càng cứng thêm.
– Ước gì mình có lớp da giống cậu.
Sam thèm thuồng nói, rồi quay qua tôi, hỏi:
– Sao lúc nào cậu cũng mặc mỗi một bộ đồ vậy?
Tôi nhìn xuống bộ đồ “tẩm liệm” của mình. Tôi đã định hỏi xin ông Crepsley bộ đồ mới, nhưng quên khuấy mất. Tôi bảo:
– Tại tớ thích.
– Chưa bao giờ mình thấy thằng nhóc nào mặc đồ như thế này. Trừ khi là đám ma hay đám cưới. Người ta bắt cậu mặc à?
– Không.
Evra lên tiếng hỏi để Sam đổi đề tài:
– Cậu xin phép cha mẹ để gia nhập gánh xiếc chưa?
Sam thở dài:
– Chưa. Mình định chờ tới trước khi đi, hay… đi khỏi đây, mình mới báo.
– Cậu vẫn giữ ý định theo gánh xiếc?
– Sao không? Tớ biết các cậu muốn gạt bỏ tớ, nhưng bằng mọi giá tớ sẽ đi theo đến cùng. Hãy mở to mắt mà nhìn. Tớ sẽ đọc sách, học tất cả những gì về những màn trình diễn quái dị, rồi mình sẽ tự đến ra mắt ông chủ của các cậu. Ông ta sẽ giang rộng hai tay mà đón tớ.
Tôi và Evra ngó nhau cười. Chúng tôi biết ước mơ của nó không đi tới đâu, nhưng không nỡ nói ra.
Sau đó Sam đưa chúng tôi tới xem một nhà ga bỏ hoang, cách trại chừng hai cây số. Nó bảo:
– Tuyệt lắm. Trước kia tàu hoả vẫn qua đó. Họ sửa chữa, sơn phết, làm đủ chuyện vui lắm. Rồi một nhà ga mới được xây dựng gần thị trấn hơn, nhà ga này bị phế bỏ. Chơi đùa ở đó đã đời luôn. Có đường ray cũ, nhà xưởng bỏ hoang, có cả mấy toa tàu cổ lổ sĩ nữa. Đã lắm.
Evra hỏi:
– An toàn không?
– Má mình thì chắc chắn bảo là không rồi. Bà lo đủ thứ, nào là ngã lộn cổ từ mái tàu xuống, nào là lang thang trên đường rầy, tàu đi ngang, cán vỡ sọ… đủ thứ. Nhưng tớ chơi ở đó cả ngàn lần, có gì xảy ra đâu.
Đó là một ngày nắng đẹp, chúng tôi đang lang thang dưới những tàn cây rợp bóng, chợt tôi đánh hơi thấy một mùi rất lạ. Tôi vội dừng chân. Evra cũng nhận ra mùi lạ dó. Tôi hỏi:
– Mùi gì vậy?
Evra hít hít không khí, lắc đầu:
– Mình cũng không biết. Từ hướng nào thế nhỉ?
Đó là một thứ mùi nặng nề, chua lè, khó chịu. Chỉ thằng Sam là không nhận thấy gì, nó tiến lại hai chúng tôi hỏi:
– Chuyện gì vậy? Sao hai cậu đứng…
“ÚM XÌ BÙA!” Một tiếng la rổn rảng ngay sau lưng chúng tôi. Một bàn tay cứng như sắt nắm vai tôi, xoay tôi ngược lại. Chỉ kịp thoáng thấy môt cái mặt to đùng, râu ria xồm xoàm, tôi ngã ngửa ra sau, vì bàn tay xô mạnh, làm tôi mất thăng bằng.
 


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.