Đọc truyện Những Bí Ẩn Của Sa Mạc – Chương 4
Don Walker nhấn nhẹ xuống bàn phanh và chiếc Corvette Stingray đời 63 dừng lại một chốc ở lối vào chính của căn cứ không quân Seymour Johnson để cho một số người đi bộ đi qua trước khi lao lên đường cao tốc.
Trời nóng. Mặt thời tháng Tám chiếu thẳng xuống thành phố nhỏ Goldsboro của bang Carolina Bắc khiến những đám bụi trông giống như nước đang chuyển động. Thật hay khi được phóng lên cao để cảm nhận gió, mặc dù gió nóng, chạy qua mái tóc ngắn màu vàng hoe của anh.Anh lái chiếc xe thể thao cổ điển đã lau chùi thật kỹ càng để di lên đường cao tốc số 70, rồi lên cao tốc 13 theo hướng đông bắc.
Don Walker, vào mùa hè nóng bức năm 1990. Ở vào tuổi hai mươi chín, độc thân, một phi công, và vừa được biết mình sắp đi vào cuộc chiến tranh. Tốt thôi, có lẽ vậy. Có lẽ như là nó tuỳ thuộc vào một gã Arập nóng tính thì phải.
Cùng buổi sáng đó vị chỉ huy bay, đại tá (sau này là tướng) Hal Hornburg, đã thông báo: Trong ba ngày nữa, vào 9 tháng Tám, đội bay của ông, những chiếc phóng rocket số 336 của Không lực số chín của Chỉ huy không quân tác chiến sẽ bay trên vịnh Arập. Các mệnh lệnh đã được đưa xuống từ chỉ huy TAC ở căn cứ không quân Langley, Hampton, Virginia. Thế là bắt đầu rồi đây. Sự bồn chồn giữa các phi công đang lên cao. Những năm tập luyện đó sẽ có ý nghĩa gì nếu bạn không bao giờ được bắn?
Với ba ngày trước mặt đó là một đống ngổn ngang công việc cần phải giải quyết, và với anh với tư cách là sĩ quan phụ trách vũ khí của đội bay, còn hơn tất thảy những người khác. Nhưng anh đã xin nghỉ hai mươi tư giờ để đi và nói lời tạm biệt với người thân, và thiếu tá Steve Turner, chỉ huy về vũ khí. Đã nói với anh xem liệu có chi tiết nào bị bỏ quên cho ngày 9 tháng Tám không khi những con đại bàng F-15E lăn bánh. Rồi ông chun mũi hỏi Walker anh có thể quay về trước khi mặt trời lặn không.
Walker phóng như bay trên đồi Tuyết và Greenville vào lúc chín giờ sáng, đi về dãy đảo phía đông Pamlico Sound. Anh thấy thật may mắn vì bố mẹ mình còn chưa về Tulsa, hoặc là anh không phải làm thế. Đang là tháng Tám, họ đang đi nghỉ ở ngôi nhà ven biển của gia đình gần Hatteras, cách căn cứ năm giờ lái xe.
Don Walker là một phi công khéo léo, và anh sung sướng vì điều này. Hai mươi chín tuổi và được làm việc gì mình thích nhất và làm việc đó cực kỳ tốt là một cảm giác thật hạnh phúc. Anh thích căn cứ, anh thích các chàng trai ớ đây và anh yêu thích sự gầm rú và sức mạnh của con đại bàng chiến đấu F-15E McDonnell Douglas anh lái. Anh nghĩ nó là chiếc tốt nhất trong của Không lực Mỹ, và đó là cái quái quỷ mà bọn người trên những chiếc Falcon chiến đấu đến- Chỉ chiếc Hornet F- 18 của Thuỷ quân có thể sánh được với nó, hoặc đó là điều họ nói, nhưng anh chưa từng bao giờ lái chiếc Hornet. Và anh thấy con Đại bàng đã là rất tốt cho mình rồi.
Tại Bethel anh rẽ về phía đông đến Columbia và Whalebone, nơi mà đường cao tốc quay vào dãy đảo; với Kitty Hawk ở sau anh về bên trái, anh rẽ về phía nam hướng về Hatteras, nơi con đường cuối cùng cũng tách ra và biển ở cả hai bên. Anh đã có những kỳ nghỉ rất tốt ở Hatteras khi còn là một cậu bé, đi ra biển vào buổi tinh mơ với ông ngoại để câu cá, cho đến khi ông già ốm đến nỗi không thể đi được nữa. Giờ đây cha anh sẽ về hưu từ công ty dầu lửa ở Tulsa: ông và mẹ sẽ có nhiều thời gian sống ở ngôi nhà ven bờ biển hơn và anh có thể đi đến đó thường xuyên hơn. Anh còn đủ trẻ để mà nghĩ rằng anh không thể quay lại từ vùng Vịnh, nếu có chiến tranh, có thể vụt qua óc anh.
Walker tốt nghiệp trường trung học ở Tulsa vào tuổi mười tám với chỉ một khao khát cháy bỏng duy nhất – anh muốn bay. Cho đến bây giờ như anh còn nhớ được, anh đã từng luôn muốn bay. Anh bỏ ra bốn năm ở bang Oklahoma, chuyên sâu vào ngành cơ khí hàng không, và anh tốt nghiệp tháng Sáu năm 1983. Thời gian đó anh làm cho ROTC, và mùa thu năm đó anh được đưa vào không quân.
Anh được huấn luyện phi công ở William AFB, gần Phoenix, ba chiếc T-33 và T-38, và sau mười một tháng, trong cuộc diễu hành máy bay, anh vượt qua như một người tốt nghiệp xuất sắc, xếp thứ tư trong tổng số bốn mươi học viên. Với niềm vui tột cùng của anh, năm người dẫn đầu được gửi đến trường đào tạo lái máy bay chiến đấu ở Holloman AFB, gần Alamagordo, New Mexico. Các học viên còn lại, anh nghĩ với sự cao ngạo khủng khiếp của một người đàn ông trẻ được lái những chiếc máy hay chiến đấu, có thể được gửi để trở thành các phi công thả bom hay do thám.
Ớ đơn vị huấn luyện luân phiên tại Homestead, Florida. cuối cùng anh cũng rời chiếc T-38 và chuyển sang chiếc Phantom F-4, một chiếc máy bay to lớn thô kệch, mạnh mẽ, nhưng dù sao cũng là một chiếc máy bay chiến đấu thực sự. Chín tháng ở Homestead kết thúc với lần bay đầu tiên trong đội, đến Osan Ở Hàn Quốc, lái chiếc Phantoms trong một năm. Anh cảm thấy tốt và hiểu biết về nó. Sau Osan, họ gửi anh đến Trường vũ khí máy bay chiến đấu ở McConnell AFB ở Wichita, Kansas. Máy bay chiến đấu có vũ khí rõ ràng là cuộc đua khắc nghiệt nhất ở USAF. Nó chỉ dành cho những người bay thiện chiến, khôn ngoan trong công việc. Công nghệ của các vũ khí mới thật ngoài sức tưởng tượng. Các học viên tốt nghiệp của McDonnell phải hiểu mọi kỹ thuật, mọi con chíp bán dẫn và siêu mạch của ma trận rối mù của bảng điều khiển mà một chiếc phi cơ chiến đấu hiện đại phải nằm lòng. Walker lại nổi lên như một học viên tốt nghiệp xuất sắc, điều đồng nghĩa với việc mọi đội máy bay chiến đấu của Không quân đều rất sung sướng có được anh.
Đội 336 ở Goldsboro có anh vào mùa hè năm 1987, bay Phantoms trong-một năm, tiếp theo là bốn tháng ở Luke AFB ở Phoenix, rồi chuyển sang chiếc Strike Eagle cùng những chiếc Rocketeers đi kèm. Anh đã lái chiếc Đại bàng trong hơn một năm khi Saddam Hussein tấn công Kuwait.
Chiếc Stingray rẽ ngay trước giữa đường vào dãy đảo: vài dặm lên phía bắc là công trình ở Kitty Hawk nơi Orville và Wilbur Wright đã phóng lên trời trong vài yard để chứng tỏ rằng con người thực sự có thể bay trong một chiếc máy bay có năng lượng. Nếu họ biết được rằng. . .
Qua Nags Head anh đi theo nhóm người đi bộ và những người xe bò cho đến khi cuối cùng họ rẽ và con đường vắng tanh đi qua Cape Hatteras lên đến đỉnh của đảo. Anh lái chiếc Stingray vào lối vào của căn nhà khung bằng gỗ của bố mẹ mình. Anh thấy họ đang đứng ở cổng nhà nhìn ra mặt biển xanh thẳm im lìm.
Ray Walker nhìn thấy con trai trước và bật ra một tiếng reo vui mừng. Maybelle đi ra khỏi bếp, nơi bà đang chuẩn bị bữa trưa, và lao đến ôm lấy anh. Ông anh đang ngồi trên ghế đung đưa, nhìn ra biển. Don lại gần và nói:
– Cháu chào ông. Cháu, Don đây.
Ông già ngước mắt lên, gật gù và mỉm cười: rồi ông lại quay nhìn ra biển.
– Ông không được khoẻ, Ray nói. đôi lúc ông nhận ra con, đôi lúc không. Thôi ngồi xuống và kể cho bố mẹ tin tức đi nào. Này, Maybelle, thế không có bia cho những kẻ chết khát này sao?
Trong khi uống bia, Don nói cho bố mẹ anh sẽ đi vùng Vịnh trong năm ngày nữa. Bàn tay của Mavbelle đưa lên che miệng; bố anh có vẻ trang trọng.
– Bố cứ nghĩ làm thế làm gì, tập luyện và đủ thứ khác, ông nói chậm rãi.
Don xoay xoay cốc bia và tự hỏi không phải lần đầu tiên tại sao bố mẹ cứ luôn phải lo lắng quá như thế, ông anh nhìn anh chằm chằm, một vẻ nhận biết hiện ra trong đôi mắt mỏi mệt của ông.
– Don sẽ đi ra chiến tranh, ông ạ. Ray Walker kêu lên với ông Đôi mắt ông già lại ánh lên sự sống.
Cả sự nghiệp mình ông đã là một thuỷ quân, cùng với đội đi thẳng khỏi trường, rất nhiều năm trước đây. Năm 1941 ông đã hôn tạm biệt vợ và để cô lại cho người nhà ở Tulsa, cùng với Maybelle đứa con mới sinh của họ, để đi Thái Bình Dương. Ông đã ở cùng với MacArthur ở Corregidor và nghe ông nói: “Tôi sẽ trở về, và ông đã ở cách vị tướng có hai mươi yard khi MacArthur ngoẻo.
Tại đó ông đã chiến đấu đến chục trận ở Marianas và sống sót khói địa ngục Iwo Jima, ông chịu mười bảy vết sẹo trên người. tất cả đều do đánh nhau, và được tặng nhiều huân chương, một Sao Bạc, hai Sao Đồng và bảy Trái tim Tyar trên ngực.
Ông luôn từ chối thoả hiệp, hạnh phúc được là một trung sĩ dẫn đường, mà ông biết được tầm quan trọng thực sự, ông đã ra khơi ở Inchon, Triều Tiên. Và khi cuối cùng họ gửi ông để kết thúc những ngày trong quân đội như là một giảng viên ở quần đảo Parris, bộ quân phục của ông mang nhiều danh hiệu hơn bất kỳ bộ quần áo nào khác trên căn cứ. Khi cuối cùng họ cho ông về hưu sau hai lần trì hoãn, bốn ông tướng đã đến dự cuộc diễu hành cuối cùng của ông, hơn hẳn thông lệ dành cho một ông tướng khác.
Ông già quay nhìn đứa cháu. Don nhổm từ bàn lên để nghe. Hãy theo dõi bọn Nhật, cậu bé. Ông già thì thầm- không thì chúng tóm được cháu đấy.
Don vòng tay ôm ông già to lớn, vai rung rung.
– Đừng lo ông ạ. Chúng không còn ở gần chúng ta nữa đâu.
Ông già gật đầu và tỏ ra hài lòng. Ông đã tám mươi tuổi.
Cuối cùng, đó không phải là người Nhật hay người Triều Tiên đã tóm được vị trung sĩ bất tử. Đó là ông già Alzheimer. Những ngày này ông trải qua phần lớn thời gian trong một giấc mơ êm ái, với con gái và con rể để nhìn lại phía sau mình không còn nơi nào khác để đi cả.
Sau bữa trưa, bố mẹ Don nói anh về chuyến đi của họ ở vịnh Arập, từ đó họ đã trở về bốn ngày trước đây. Maybelle đi đến và chỉ những bức ảnh của bà, những cái vừa lấy về từ chỗ người rửa ảnh.
Don ngồi cạnh mẹ khi bà giở tập ảnh, chỉ những cung điện và nhà thờ hồi giáo, những mặt biển và chợ của những tiểu vương và các sheikhdom bà và Ray đã đến thăm.
– Bây giờ con phải cẩn thận khi đến đấy nhé. Bà nhắc nhở con trai. – Có những kẻ mà con sẽ phải chống lại. Những kẻ nguy hiểm , chỉ cần nhìn vào mắt chúng cũng biết này.
Don Walker nhìn vào bức ảnh trong tay bà mẹ. Người đàn ông Bedouin đứng giữa hai đụn cát với sa mạc sau lưng mình, một chiếc khăn quấn quanh mặt. Chỉ có đôi mắt đen nhìn chằm chằm đầy vẻ nghi kị vào máy ảnh.
– Con sẽ ổn thôi và sẽ tìm ra hắn ta, anh hứa với bà. Bà hài lòng vì điều đó.
Đến năm giờ anh quyết định về căn cứ. Bố mẹ anh đi theo anh đến trước nhà nơi xe của anh đang đỗ. Maybelle ôm con trai và nhắc lại là anh phải cẩn thận, và Ray ôm hôn anh và nói họ tự hào về anh. Don bước lên xe và quay xe ra dường. Anh quay lại nhìn.
Từ ngôi nhà ông ngoại anh. chống trên hai chiếc gậy, đứng lên trên hiên nhà. Chầm chậm ông để hai chiếc gậy sang một bên và đứng thẳng lên, cố đè nén cơn cảm cúm ra khỏi lưng và vai mình cho đến khi nó thẳng lên được- Rồi ông giơ tay lên, hạ xuống, đến đỉnh của cái chày đánh bóng và giữ nguyên đó, và người chiến binh già chào đứa cháu ngoại đang lên đường đến một cuộc chiến tranh khác.
Don, từ xe của mình, giơ tay lên đáp lại. Rồi anh nhấn ga và tăng tốc đi. Anh sẽ không bao giờ gặp lại ông ngoại. Ông già chết trong khi ngủ vào cuối tháng Mười.
Ở London trời đã tối. Terry Martin đã làm việc khuya, mặc dù sinh viên sắp tốt nghiệp đã đi cho một kỳ nghỉ hè dài. anh vẫn có những bài giảng phải chuẩn bị, và vì những khoá học trong hè đặc biệt mà trường vẫn tổ chức lâu nay, anh khá là bận bịu ngay cả trong những tháng hè. Nhưng tối nay anh tự bắt mình tìm việc khác để làm: để tâm trí không cám thấy quá lo lắng như thế.
Anh biết nơi anh trai mình đi đến, và trong con mắt tinh thần của mình anh tưởng tượng những cực hình khi cố xâm nhập vào Kuwait đang bị Iraq chiếm giữ.
Mười giờ, trong khi Don Walker đã bắt đầu lái xe đi về phía Bắc từ Hatteras. Terry rời trường, chuẩn bị một đêm tuyệt diệu cho con chó già mà anh chăm sóc, và đi xuống phố Gower và đường St.Martin để đến quảng trường Trafalgar. Có thể, anh nghĩ, những ánh sáng rõ có thể làm anh hồi lại. Đó là một buổi tối ấm áp và dễ chịu.
Ở St Martin-in-the-Rields, anh nhận ra các cánh cửa được mở và từ phía nam âm thanh của những bài ca vọng ra từ bên trong. Anh đi vào đó, thấy một mục sư gần bục giảng đạo, và nghe dàn đồng ca hát. Nhưng những giọng ca trong sáng của dàn đồng ca chỉ làm anh thêm chìm sâu hơn vào sự khủng hoảng tinh thần. Anh nghĩ đến thời thơ ấu mà anh và Mike đã chia sẻ ba mươi nãm trước ở Baghdad.
Nigel và Susan Martin sống trong một ngôi nhà đẹp, rộng rãi hai tầng ở Saadun, cái quận sang trọng ở một nửa thành phố gọi là Risafa. Ký ức xa nhất của Terry, khi anh còn hai tuổi, là người anh tóc đen đang mặc quần áo cho ngày đầu tiên đến nhà trẻ của cô Saywell. Nghĩa là áo phông và quần cộc, đi giày và tất, đồng phục của một chú bé Anh. Mike đã hét lên chống cự khi bị cởi tuột chiếc dish-dash quen thuộc của mình, một chiếc áo dài bằng vải côtông màu trắng cho cậu được tự do cử động và làm cho cơ thể được mát mẻ.
Cuộc sống đã rất dễ dàng và dễ chịu cho cộng đồng người Anh ở Baghdad trong những năm 1950. Có hội hè ở câu lạc bộ Mansour và Alwiya, với bể bơi, sân tennis, và sân chơi squash, nơi các nhân viên của Công ty dầu mỏ lraq và Đại sứ quán có thể gặp nhau để chơi, bơi, hay uống đồ lạnh ở quầy bar.
Anh nhớ dến Fatima, dada hay vú nuôi của họ, một cô gái dễ chịu đến từ một ngôi làng mà lương trả khá hậu khiến cô có thể cưới một anh chàng trẻ tuổi khá giàu có khi trở về với bộ lạc của mình. Anh thường chơi trên sân với Fatima cho đến khi họ đến để đưa Mike về từ trường của cô Saywell.
Trước khi hai đứa lên ba, chúng đã là những đứa trẻ nói tất cả tiếng Anh lẫn tiếng Arập. học tiếng Arập từ Fatima, người làm vườn hay người đầu bếp. Mike học ngôn ngữ đặc biệt nhanh, và vì cha hai đứa trẻ là một người ngưỡng mộ sâu sắc văn hoá Arập. ngôi nhà thường xuyên đầy bạn bè người lraq.
Những người Arập có vẻ yêu quý những đửa trẻ nhỏ, tỏ ra rất kiên nhẫn với chúng hơn là người châu Âu, và khi Mike có thể đi chơi trên sân với mái tóc đen và đôi mắt cũng đen, chạy tự do trong chiếc dish-dash màu trắng của mình và trò chuyện bằng tiếng Arập, những người bạn Iraq của bố cậu cười phá lên vì vui thích và kêu lên:
– Này Nigel, trông nó cứ như là người của chúng tôi ấy!
Có những chuyến đi chơi vào cúối tuần để xem Harithiya Hunt hoàng gia, một kiểu săn cáo của Anh được du nhập vào Trung Đông, với những chuyến săn chó núi với sự chỉ huy của kiến trúc sư thành phố Philip Hirst. Và có những chuyến dã ngoại tuyệt vời theo sông đến đảo Lợn, nằm ở giữa dòng Tigris nước lững lờ chia thành phố làm hai phần.
Sau hai năm Terry cũng theo anh Mike đến nhà trẻ của cô Saywell, nhưng vì cậu ốm yếu quá nên phải đi đến trường dự bị do ông Hartley làm hiệu trưởng, cùng lúc đó.
Cậu sáu tuổi và anh trai lên tám khi họ lần dầu tiên đến Tasisiya, nơi có một số đứa trẻ người Anh nhưng cũng có một số đứa bé người lraq của những gia đình tầng lớp trên. Hồi đó, có một vụ đảo chính ở Iraq. Ông vua trẻ con và Nuri nhiếp chính đã bị lật đổ và tướng Kassem của Đảng cộng sản mới giành được quyền lực tuyệt đối. Mặc dù hai đứa trẻ người Anh không hề nhận thức được tất cả những chuyện đó, bố mẹ chúng và cộng đồng người Anh trở nên lo lắng. Dung dưỡng đảng Cộng sản Iraq. Kassem đã thực thi một chính sách hà khắc chống lại các thành viên đảng Baath dân tộc chủ nghĩa, đảng đến lượt mình lại tìm cách ám sát ông tướng đó. Một trong số người trong nhóm đã thất bại trong việc bắn súng máy vào một tay súng có tên Saddam Hussein.
Ngày đầu tiên ở trường Terry đã thấy mình bị một nhóm nhóc con người lraq trêu chọc.
– Nó là một thằng lai. Một đứa nói. Terry bắt đầu khóc.
– Tao không phải lai, cậu sụt sịt.
– Đúng là thế đấy, đứa trẻ cao nhất nói. Mày béo và trắng với mái tóc mới dị hợm chứ. Mày trông như thằng lai. Lai, lai, lai.
Rồi cả bọn đứng đồng thanh. Mike xuất hiện từ sau cậu.
Tất nhiên, chúng đều nói tiếng Arập cả.
– Đừng có gọi em tao là lai, nó đe doạ.
– Em của mày à? Nó trông không giống mày. Nhưng dù sao nó cũng giống một thằng lai.
Sự sử dụng nắm đấm không phải là một phần của văn hoá Arập. Trên thực tế, nó có liên quan đến phần lớn các nền văn hoá, chỉ trừ một số ở Viễn Đông. Ngay ở miền nam Sahara nắm đấm cũng không phải là một vũ khí truyền thống. Những người da đen từ châu Phi-và con cháu mình đã được dạy cất nắm đấm đi và chìa khuỷu tay ra. Đúng ra nắm đấm là truyền thống của người Địa Trung Hải và nhất là người Anglo-Saxon.
Nắm đấm tay phải của Mike Martin đã tung vào hàm của đứa cầm đầu trêu chọc Terry và hạ nó ngay. Đứa trẻ không bị đau bằng bị bất ngờ. Nhưng không đứa nào gọi Terry là lai nữa.
Thật đáng ngạc nhiên. Mike và đứa trẻ Iraq đó sau này lại trở thành bạn. Qua những năm học trường dự bị, chúng trở nên không thể tách rời. Đứa trẻ cao tên là Hassan Rahmani. Đứa thứ ba trong đảng của Mike là Abdelkarim Badri. người có đứa em là Osman, cùng tuổi với Terry. Thế là Terry và Osman cũng trở thành bạn, điều rất hữu dụng bởi vì ông bố Badri là một bác sĩ và nhà Martin rất vui mừng có được ông như là bác sĩ gia đình. Chính ông đã giúp Mike và Terry Martin qua những chứng bệnh sởi đậu quai bị của trẻ em.
Abdelkarim, cậu bé Badri lớn, Terry nhớ lại: rất say mê thơ ca, đầu của cậu luôn chìm sâu trong những cuốn sách của các nhà thơ Anh. và cậu đã giành nhiều giải thưởng về đọc thơ ngay cả khi cậu lớn lên cùng với những đứa trẻ người Anh thực sự. Osman, đứa bé hơn, rất giỏi toán và nói nó muốn trở thành kỹ sư hay kiến trúc sư một ngày nào đó và xây dựng những thứ đẹp đẽ Terry đang ngồi trong nhà thờ vào buổi tối ấm áp năm 1990 và nghĩ không biết điều gì đã xảy ra với tất cả những đứa trẻ đó.
Trong khi học tập ở Tasisiya, nhiều điều xung quanh chúng ở Iraq đã thay đổi. Bốn năm sau khi nắm quyền sau khi giết đức vua, chính Kassem cũng bị lật đổ và bị giết thảm bởi một quân đội lo ngại vì ông quá thân thiện với Cộng sản. Tiếp theo là mười một tháng cầm quyền chia sẻ giữa quân đội và đảng Baath, trong thời gian đó những người đảng Baath đã trả thù đẫm máu những kẻ đi trước mình: những người Cộng sản. Rồi quân đội gạt đảng Baath ra. đẩy những thành viên của nó một lần nữa đến con đường lưu vong, và một mình cai trị cho đến năm 1968.
Nhưng vào năm 1966, ở tuổi mười ba, Mike đã được gửi đến để hoàn thiện học tập ở một trường công của Anh tên là Haileybury. Terry cũng tiếp chân vào năm 1968. Cuối tháng Sáu mùa hè đó, bố mẹ cậu đưa cậu sang Anh để có thể cùng tận hưởng kỳ nghỉ trước khi Teny đến gặp Mike ở trường. Do đó họ đã may mắn tránh được hai cuộc đảo chính, vào 14 và 30 tháng Bảy. đã lật đổ quân đội và đưa đảng Baath lên cầm quyền dưới sự lãnh đạo của tổng thống Bakr, với một phó tổng thống tên là Saddam Hussein.
Nigel Martin đã ngờ điều gì đó sắp xảy đến và đã lên kế hoạch cho mình. ông rời IPC chuyển sang làm một công ty dầu lửa đặt trụ sở ở Anh tên là Burmah Oil, và sau khi đã giải quyết công việc gia đình ở Baghdad, ông đưa gia đình đến Hertford, nơi ông có thể giao tiếp hàng ngày với London và công việc mới của mình.
Nigel Martin trở thành một tay golf cừ khôi, và vào các cuối tuần các con của ông thường được làm nhặt hóng trong khi ông chơi với một giám đốc từ Burmah Oil sang một ông Denis Thatcher nào đó, với bà vợ khá quan tâm đến chính trị. Terry yêu Haileybury, ngôi trường được đặt dưới sự điều hành của ông hiệu trưởng William Stewart; cả hai đứa trẻ ở nhà Melvill, mà chủ nhà là Richard Rhodes-James. Như được báo trước, Terry sẽ quay sang thành nhà học giả còn Mike trở thành vận động viên. Khi sắp phải đến trường đại học. Mike thông báo rằng anh muốn lập nghiệp trong quân đội. Đó là một quyết định mà ông Rhodes-James rất sung sướng. Nếu thái độ bảo vệ của Mike với người em thấp bé và béo ị của mình đã bắt đầu ở trường của ông Hartley ở Baghdad, thì nó lại càng được khẳng định ở Haileybury, và anh rất được người em ngưỡng mộ.
Terry Martin rời nhà thờ đã tối om khi dàn đồng ca ngừng hát, đi bộ qua quảng trường Trafalgar, và bắt một chiếc xe bus đi Bayswater, nơi anh và Hilary cùng sống trong một căn hộ. Khi anh đi ngang qua công viên Lane, anh nghĩ lại đến những năm học ở trường cùng với Mike. Và giờ đây, anh đã gây ra việc anh trai mình phải bị gửi đến Kuwait bị chiếm đóng. Anh cảm thấy như phát khóc vì lo lắng và bồn chồn.
Anh xuống xe bus và đi xuống Chepstow Gardens. Hilary, đi công tác ba ngày nay, có lẽ đã trở về. Anh hy vọng thế, anh cần được an ủi. Khi anh đi vào, anh lên tiếng gọi và vui mừng nghe tiếng trả lời từ phòng ngủ.
Anh bước vào phòng và gạt khỏi đầu điều ngu ngốc đã làm. Rồi anh ủ ấm mình, ôm chầm cô gái môi giới chứng khoán dễ thương. trìu mến mà anh chia sẻ cuộc đời.
Mike Martin đã trải qua hai ngày với chỉ huy đội ở Riyadh, một trạm giờ đây đã được bổ sung thêm hai người từ Nhà Thế kỷ. Trạm Riyadh thường hoạt động bên ngoài Đại sứ quán, và từ khi Arập Xêut được xem như là đất nước thân thiện nhất với những lợi ích của Anh, nó không bao giờ dược coi là một vị trí “nặng nhọc”, nên không bao giờ phải yêu cầu một số lượng nhân viên lớn và những thiết bị phức tạp. Nhưng cuộc khủng hoảng mười ngày trước ở vùng Vịnh đã thay đổi nhiều thứ.
Liên minh mới được thành lập giữa phương Tây và các quốc gia Arập đối lập gay gắt với sự chiếm đóng kéo dài của Iraq tại Kuwait đã co hai đồng chỉ huy chính. tướng Norman Schwarzkopf của Mỹ và hoàng thân Khaled bin Sultan bin Abdulaziz, một người lính chuyên nghiệp 44 tuổi, được huấn luyện tại Mỹ và ở Sandhurst, Anh, một người cháu của đức vua. và là con của hoàng thân Sultan bộ trưởng Quốc phòng.
Hoàng thân Khaled, đáp lại yêu cầu của nước Anh, vẫn tỏ ra dễ mến như thường lệ, và với tốc độ đáng kể một vi-la riêng biệt đã được mua ở ngoại ô của thành phố để cho Đại sứ quán Anh thuê.
Các chuyên viên kỹ thuật từ London đã sang để lắp đặt các máy nhận và chuyển với những máy giải mã không thể hiểu cho sự sử dụng khẩn cấp, và địa điểm sẽ trở thành đại bản doanh của Cơ quan tình báo Anh. Một vài nơi quanh thành phố, người Mỹ cũng đã làm điều tương tự cho CIA, tổ chức rõ ràng có rất nhiều người ở đây. Các lực lượng vũ trang Mỹ vẫn chưa vào cuộc.
Mike Martin ở lại trong ngôi nhà tư của chỉ huy trạm. Julian Gray. Hai người đã đồng ý sẽ chẳng hay ho gì nếu Martin bị bất kỳ ai ở Đại sứ quán nhìn thấy. Bà Gray duyên dáng, một người phụ nữ có sự nghiệp, là chủ nhà của anh và không bao nhờ nghĩ đến chuyện hỏi anh là ai hay anh làm gì ở Arập Xêut. Martin không nói tiếng A rập với các nhân viên người Xêut, chỉ nhận cà phê họ mang đến với một nụ cười và một lời cám ơn bằng tiếng Anh.
Vào tối ngày thứ hai, Gray đưa cho Martin bản tin mới nhất. Họ thử nhìn nhận mọi việc có thể, ít nhất là từ Riyadh.
– Anh sẽ bay đến Dhahran vào sáng mai. Chuyến bay dân sự của Xêut. Họ đã ngừng bay thẳng đến Khafji, sẽ có người đón anh. Công ty đã thiết lập một người dẫn đường ở Khafji ; anh ta sẽ gặp anh và đưa anh lên phía bắc. Sparky Low – anh có biết anh ta không?
– Tôi biết anh ta. Martin nói.
Anh ta có tất cả những gì mà anh nói anh cần. Và anh ta đã tìm thấy một phi công trẻ người Kuwait anh có lẽ sẽ thích nói. Anh ta đã chuyển cho chúng ta mọi bức ảnh mới nhất của các vệ tinh Mỹ chỉ ra khu vực biên giới và những trung tâm chính của quân đội Iraq để mà tránh, cộng với tất cả những gì khác mà chúng ta có. Còn bây giờ, cuối cùng, những bức ảnh đó vừa mới được đưa đến từ London.
Ông trái rộng một tấm, những bức ánh khổ lớn trên bàn.
Saddam có vẻ vẫn chưa chỉ định một thống soái người Iraq. Ông ta vẫn còn cố duy trì một loại hành chính của người Kuwait và chẳng đi đến đâu cả. Ngay cả nếu sự chống trả của người Kuwait không làm được gì.
Nhưng có vẻ như đã có sự có mặt của mật vụ ở đó rồi. Người này ở đó có vẻ là chỉ huy AMAM địa phương. tên là đại tá Sabaawi, khá là giẻ rách, ông chủ của hắn ở Baghdad: người có thể đến thăm, là chỉ huy Amn-al Amn. Omar Khatib. Đây này.
Martin nhìn chằm chằm vào khuôn mặt trong bức ánh: nhẵn lỳ, trơ ra, một sự pha trộn giữa bạo tàn và thô kệch kiểu nông dân trong mắt và cái miệng.
Danh tiếng của hắn là khá đẫm máu đấy. Cũng thế với tên phụ tá của hắn ở Kuwait. Sabaawi. Khatib khoảng 45 tuổi: đến từ Tikrit, một kẻ trong bộ lạc của chính Saddam và là phụ tá đắc lực từ lâu rồi Chúng ta không biết nhiều về Sabaawi. nhưng hắn ta sẽ cho thấy sớm thôi.
Gray chìa ra một bức ảnh khác.
Ngoài AMAM. Baghdad còn gửi đến một đội từ Phản gián của Mukhabarat, có khả năng là để đối đầu với những người nước ngoài và bất kỳ ý dịnh do thám hay phá hoại nào được chỉ huy từ bên ngoài sự chinh phục mới của họ. Ông chủ CI là người này này – có danh tiếng khôn ngoan và không mắc lừa ai bao giờ. Hắn có thể là người cần rất cẩn thận dấv.
Đó là ngày 8 tháng Tám. Một Galaxy C-5 khác đang vượt qua trên đầu để hạ xuống sân bay quân sự, một phần của bộ máy hậu cần Mỹ khổng lồ đã bắt đầu khới động và phun ra những thiết bị không ngừng cho một vương quốc Hồi giáo nóng nảy, không hiểu nổi, và hết sức truyền thống.
Mike Martin nhìn xuống và chằm chằm nhìn vào khuôn mặt của Hassan Rahmani.
Lại là tiếng Steve Laing trong máy điện thoại.
– Tôi không muốn nói chuyện, Terry Martin nói.
– Tôi nghĩ chúng ta nên nói chuyện. tiến sĩ Martin. Xem nào, ông lo lắng cho anh trai mình, phải không?
– Rất nhiều.
– Không cần phải thế đâu, ông cũng biết mà. Anh ấy có tính cách rất mạnh mẽ, rất đủ khả năng tự lo lắng cho mình. Anh ấy muốn đi, chẳng có vấn đề gì về chuyện đó cả. Chúng tôi đã cho anh ta quyền tuyệt đối để lựa chọn.
– Tôi nhẽ ra nên im miệng thì hơn.
– Hãy cố nhìn sự việc khác đi nào, tiến sĩ. Nếu điều tồi tệ hơn xảy ra, chúng tôi có thể phải gửi đi nhiều những người anh trai khác, những người chồng, con trai, những người chú, người yêu khác đến vùng Vịnh. Nếu có một cách nào khác mà chúng tôi có thể làm để hạn chế thiệt hại thương vong, liệu chúng tôi có nên không thử không”
– Thôi được rồi. ông muốn gì?
– Ồ một bữa trưa khác, tôi nghĩ vậy. Như thế dễ dàng để nói chuyện hơn. Ông có biết khách sạn Montcalm không? Một giờ nhé.
– Ngoài bộ óc ra, ông ta như thể là một cái bật lửa nhỏ đầy xúc cảm ấy, Laing nhận xét với Simon Paxman vào sáng sớm hôm đó.
Một ông lớn tốt tính. Paxman nói, như là một nhà khoa học người vừa mới nới về những giống loài mới được phát hiện dưới tảng đá vậy.
Một làn bụi mềm và nóng của Carolina đang bay về căn cử quân sự Seymour Johnson yào cuối buổi chiều 10 tháng Tám. Những người của Đội máy bay chiến đấu chiến thuật số 334 vẫn chưa vào chiến dịch trên những chiếc F-15E, và những người TFS số 335, những chỉ huy, những người có thể bay đến vùng Vịnh trong tháng Chạp, đang quan sát. Với đội 336, họ vào Đội máy bay chiến đấu chiến thuật số Bốn của Không lực thứ chín. Đội 336 đang di chuyển. Hai ngày bận rộn cuối cùng đã kết thúc; hai ngày chuẩn bị máy bay, hoạch định con đường, quyết định trên cần số, và dõi vào những sổ nhật trình bí mật và máy tính của đội – với tất cả những chiến thuật chiến đấu bị khoá lại trong ngân hàng dữ liệu – đến những container để được bên vận tải mang đi. Di chuyển một đội máy bay không giống với di chuyển một ngôi nhà, dù một ngôi nhà đã là nặng nề lẳm rồi. Nó giống như là di chuyển một thành phố nhỏ.
Bên ngoài làn khói 24 con Đại bàng chiến đấu F-15E đang bay trong im lặng, những con quái vật đáng sợ đang đợi cho những sinh thể nhỏ bé như nhện cùng giống loài đã thiết kế và xây dựng lên chúng để leo ra ngoài với những đầu ngón tay với sức mạnh kinh người.
Họ đang chuẩn bị cho chuyến bay dài qua suốt cả thế giới để đến bản đảo Arập chỉ trong một lần cất cánh. Trọng lượng xăng riêng thôi – mười ba tấn rưỡi – đã là trọng lượng của năm chiếc máy bay thả bom thời Thế chiến thứ Hai. Và Đại bàng là một máy bay chiến đấu. Và đồ cá nhân của đội bay được gói vào những gói đi đường, trước đây là vỏ bom napalm được sửa lại cho sự sử dụng của con người. những cái can dưới các cánh chứa áo phông, giày. áo ngắn, xà phòng, dao cạo râu, quân phục, túi, và những tạp chí khiêu dâm. Với tất cả những người biết, đó có thể là một con đường dài cho đến quán bar gần nhất dành cho các anh chàng độc thân.
Những chiếc máy bay tiếp nhiên liệu KC-10 khổng lồ sẽ đồng hành với những phi công khi đi qua Đại Tây Dương, và đi vào bán đảo Xêut, mỗi chiếc tiếp nhiên liệu cho sáu con Đại bàng. Chúng bay đợi trên đại dương.
Sau đó, một đội vận tải trên không: những chiếc Starlifter và Galaxy sẽ mang đi phần còn lại, một quân đội nhỏ gồm những người sửa súng và thợ máy, những người lo về phần điện tử và nhân viên hỗ trợ, bộ phận điện báo và những cái que, các máy xạc điện và đồ sửa chữa, thiết bị máy móc và súng ống. Mọi thứ được chuẩn bị để giữ hai tá những chiếc máy bay chiến đấu tinh xảo nhất thế giới hoạt động trơn tru và sẵn sàng tác chiến cách đó nửa vòng trái đất.
Mỗi con Đại bàng của buổi tối này tương ứng 114 triệu đôla với những hộp đen, nhôm, cômpôsit sợi cácbon, máv tính, và đồ điện, cùng với một số thiết bị. Mặc dù đã được thiết kế từ 30 năm trước. con Đại bàng là một máy bay chiến đấu mới, đã trải qua nghiên cứu và phát triển rất nhiều.
Dẫn đầu đoàn dân sự từ thành phố Goldsboro là ông thị trưởng, Hal L. Plonk, ông công chức hết sức lịch thiệp này vui sướng với cái biệt hiệu do 20 nghìn công dân của thị trấn tặng cho – “Kerplunk”: một danh hiệu ông nhận được cho sự khôn ngoan để làm vừa lòng các đoàn khách chính trị từ Washington với cách nói năng kiểu miền Nam và kho truyện đùa của mình. Một số người khách từ thủ đô, sau một giờ của những trò của ông thị trướng, đã về Washington để đến tìm kiếm phương pháp trị liệu chống đau đớn. Một cách tự nhiên, thị trưởng Plonk quay về văn phòng của mình sau mỗi nhiệm kỳ với một sự nổi tiếng thêm lên.
Hal Hornburg đứng cạnh chỉ huy đội bay với vẻ tự hào, nhìn những con Đại bàng đang được kéo đi trên đường băng của họ, chui ra từ các hangar và đội bay trèo lên máy bay, phi công trên chiếc ghế phía trên của buồng lái cùng với sĩ quan phụ trách các hệ thống vũ khí của mình, gọi là wizzo. Xung quanh mỗi máy bay một nhóm những nhân viên mặt đất làm việc để kiểm tra chuẩn bị cất cánh.
– Tôi đã kể cho ông bao giờ chưa nhỉ, ông thị trưởng vui nhộn hói viên sĩ quan rất cao cấp của Không lực đứng cạnh mình, câu chuyện về ông tướng và người móc câu?
Đúng lúc đó. Don Walker đang cẩn trọng bắt đầu khởi động máy móc và cần lái của hai động cơ Pratt & Whitney FI00-PW-220, làm chìm lấp câu chuyện hài. Chiêc F100 chuỵển xăng thành tiếng động rất to và nóng, với sức đẩy lên tới 211.000 pound.
Từng cái một, 24 chiếc Đại bàng của đội 336 khởi động và bắt đầu lăn bánh chạy về phía cuối đường băng. Những lá cờ nhỏ màu đỏ bay phần phật dưới các cánh, để lộ những chiếc hoả tiễn Sparrow và Sidewinder. Chặng đường của họ đến Arập có thể là một chuyến đi thật bình yên, nhưng không thể để một chiếc Đại bàng bay mà không có phương tiện tự vệ nào.
Dọc theo đường băng là những nhóm các vệ sĩ có vũ trang và cảnh sát của Không lực. Một số vẫy tay, một số giơ tay chào. Ngay trước đường băng, những con Đại bàng dừng lại một lần nữa và lại là tâm điểm cho sự chú ý cuối cùng của một dòng người và nhân viên mặt đất. Họ gõ vào lốp: rồi kiểm tra mỗi máy lần lượt, tìm kiếm các chỗ nứt, mở rộng ra, hay panel – tất cả những gì có thể gây ra trục trặc trong khi chạy trên mặt đất. Cuối cùng, các pin của các tên lửa cũng phụt ra.
Một cách kiên trì, những chiếc Đại bàng đứng đợi, dài 63 feet cao 18 và rộng 40, nặng 40.000 pound cốt và 81.000 tối đa trọng tải, nghĩa là trọng tải lúc này nó chúng đang chở. Nó có thể bay rất lâu. Cuối cùng, chúng lăn bánh trên đường băng, quay về ánh sáng đèn, và tăng tốc. Làn khói phụt ra khi các phi công tăng tốc qua “cửa” và những lưỡi lửa dài 30 fit tung ra từ những ống phía đuôi. Bên cạnh đường băng các chỉ huy đội bay, chỉ huy được bảo vệ bởi mũ bảo hiểm từ tiếng động kinh người, chào những đứa con của mình đi xa cho một sứ mệnh ở nước ngoài. Họ có thể không bao giờ nhìn lại được chúng cho đến Arập Xêut.
Cách đường băng một dặm, những cái bánh rời mặt đường và các con Đại bàng đã ở trên không trung. Bánh gập lên, cuộn lại lửa phụt ra đằng sau với năng lượng lớn. 24 con Đại bàng quay mũi về phía bầu trời, bay chếch lên với tốc độ 5.000 fít mỗi phút, và biến mất vào trong cơn gió bụi.
Họ đã ở cao 25.000 feet, và một giờ sau đã thấy những đèn hướng lối của chiếc tiếp nhiên liệu KC- 10 đầu tiên. Đã đến lúc dừng lại. Hai động cơ FI00 tạo thành một tiếng rít rợn người. Với động cơ đốt sau, mỗi máy bay tiêu tốn 40.000 pound xăng mỗi giờ, chính vì vậy động cơ đốt sau hay “phản lực” chỉ được sử dụng cho cất cánh. chiến đấu, hay những động tác thoát khỏi nơi nào đó một cách khẩn cấp. Ngay cả với những chế độ năng lượng bình thường, các động cơ cũng cần được cung cấp mỗi cái mỗi nửa giờ một. Để đến được Arập Xêut họ rất cần đến những chiếc KC-IO của mình, các trạm khí trên trời. Đội bay giờ đây đã ở trên rất cao, mỗi cái cách nhau khoảng một dặm. Don Walker, cùng người wizzo của mình đằng sau, liếc nhìn để xem người cùng mình có giữ đúng vị trí không. Bay về phía đông, họ giờ đã ở trong bóng tối bao quanh Địa Trung Hải. rađa cho thấy vị trí của mỗi máy bay, và những đèn dẫn dường vẫn dẫn họ đi. Ở đuôi chiếc KC-10 phía trên và trước mặt anh, người phi công mở panel bảo vệ, vòi xăng được thả ra chờ khách hàng đầu tiên. Môi nhóm sáu chiếc Đại bàng đã định vị được chiếc tiếp nhiên liệu dành cho mình, và Walker di chuyển khi đến lượt mình. Một cái động tay vào cần lái, thế là chiếc Đại bàng đã đậu dưới chiếc tiếp nhiên liệu. theo đúng hướng.
Trên chiếc tiếp nhiên liệu người chỉ huy “thả” vòi xăng của mình rìa ngoài cánh bên trái chiếc máy bay. Khi anh ta “bật lên”, xăng bắt đầu chảy ra, 2000 pound một phút. Chiếc Đại bàng uống và uống.
Khi đã đầy xăng, Walker tránh ra để đồng đội vào lấy xăng. Trên bầu trời, ba chiếc tiếp nhiên liệu khác cũng đang cùng làm như thế cho mỗi nhóm 6 chiếc cần được tiếp xăng. Họ bay qua đêm, đêm rất ngắn vì họ bay về hướng mặt trời với vận tốc 500 dặm môi giờ trên mặt đất. Sau 6 giờ mặt trời lên, và họ đã đến bờ biển Tây Ban Nha, bay về phía bắc của bờ biển châu Phi để tránh nước Libya. Lại gần Ai Cập, một thành viên của liên quân, đội 336 rẽ quặt sang đông nam, hướng về Biển Đỏ, và bắt được tín hiệu đầu tiên của bãi cát khổng lồ gọi là Sa mạc Arập.
Sau 15 tiếng đồng hồ trên không trung, mệt mỏi và căng thẳng, 48 người Mỹ trẻ tuổi hạ cánh xuống Dhahran ở A rập Xêut. Trong nhiều giờ họ đã hướng thẳng về đích cuối cùng của mình, căn cứ không quân của Thumrait ở Sultanate của Oman. Trong 4 tháng, cho đến giữa tháng Chạp. họ sẽ sống ở đây trong những điều kiện khiến có thể làm họ nhớ nhà. 700 dặm cách biên giới Iraq và vùng đất nguy hiểm. Họ có thể bay những công vụ tập luyện trên vùng trời nội địa Oman khi đội hỗ trợ họ đến, bơi trong dòng nước xanh của Ấn Độ Dương, và đợi những gì mà Chúa và Norman Schwarzkopf đã dự định cho họ.
Tháng Chạp họ có thể đổi chỗ đến Arập Xêut. Và một trong số họ, dù có thể anh ta không bao giờ biết, có thể ngăn được dòng của cuộc chiến tranh.