Đọc truyện Những Bí Ẩn Của Sa Mạc – Chương 3
Steve Laing quay về Nhà Thế kỷ bằng xe điện trong tâm trạng của một sự bất ngờ thú vị và một sự thăng hoa. Ông đã thu xếp ăn trưa với một nhà A rập học thông thái với hy vọng tuyển mộ ông ta cho một nhiệm vụ khác, mà ông vẫn giữ trong đầu và chỉ mới nêu ra được vấn đề Kuwait như là một chủ đề trò chuyện. Nhiều năm hoạt động đã dạy ông cách bắt đầu với một vấn đề hay một đòi hỏi mà mục tiêu có thể không được hòan bị, rồi sau đó chuyển sang vấn đề thực tế cần giải quyết.
Lý thuyết là người chuyên gia, bị bất ngờ bởi lời đòi hỏi đầu tiên. có thể dễ xoay chuyển hơn cho sự tự kính trọng bản thân để đồng ý cái thứ hai. Sự ngạc nhiên của tiến sĩ Martin đã trả lời một câu hỏi đã từng được nêu ra trong một cuộc họp ở cấp cao ở Nhà Thế kỷ hôm trước. Vào lúc nó thường được xem như là một mong muốn vô kế khả thi. Nhưng nếu tiến sĩ Martin trẻ tuổi đúng… một người anh nói tiếng A rập thậm chí còn tốt hơn ông ta . . . và đã ở trong binh đoàn không lực đặc biệt và do đó đã quen cuộc sống nguỵ trang… thú vị, thật là thú vị.
Về đến Nhà Thế kỷ, Laing đi thẳng đến gặp thượng cấp trực tiếp của mình: người phụ trách Trung Đông. Sau một giờ nói chuyện cả hai đi lên gác để gặp một trong hai ông phó. Cơ quan phản gián bí mật, hay SIS – cũng được biết đến rộng rãi với cái tên không chính xác MI-6 – vẫn hoạt động ngay cả trong những ngày chính phủ “mở cửa” một tổ chức trong bóng tối với các nhân viên bí mật. Chỉ trong những năm gần đây Chính phủ Anh mới chính thức thừa nhận rằng tất cả đã tồn tại. Và chỉ sau năm 1991 vẫn chính phủ đó mới rộng rãi cho công bố tên người lãnh đạo của nó, một bước tiến được xem bởi những người nắm rõ nội tình như là một bước đi điên rồ và thiển cận chẳng phục vụ cho mục đích nào khác ngoài việc đẩy con người kém may mắn này đến những lời đàm tiếu thật xấu về những vệ sĩ, được trả tiền bằng nguồn quỹ công. Đó là những trò chính trị dở hơi.
Nhân viên SIS có vỏ bọc là nhân viên của nhiều bộ khác nhau, chủ yếu là Bộ Ngoại giao. Ngân sách không xuất hiện trong tài khoản nào, được che giấu cẩn thận trong những ngân quỹ của hàng chục bộ khác nhau. Ngay cả tổng hành dinh tối tăm của nó trong nhiều năm được coi là một bí mật quốc gia, cho đến khi nó bị phơi bày bởi mọi người lái xe điện London, được hỏi để đi đến Nhà Thế kỷ, có thể trả lời. “Ồ, ông muốn nói đến nhà Spook chứ gì?” Ở điểm này, người ta chấp nhận nếu những lái xe điện của Lon don biết nó ở đâu, thì KGB cũng có thể xử lý nó.
Mặc dù kém nổi tiếng hơn CIA, nhất định là nhỏ hơn và kém hiện đại hơn, “Hãng” đã có được tiếng tăm vững chắc trong số bạn bè và kẻ thù vì chất lượng “sản phẩm” của mình (những thông tin phản gián thu thập được). Trong số những cơ quan tình báo lớn của thế giới. chỉ Mossad của Israel là nhỏ hơn và thậm chí còn tăm tối hơn.
Người đứng đầu SIS dược biết đến một cách chính thức là Lãnh đạo, và không bao giờ, dù hàng đống tên giả trên báo chí, là Giám đốc-Tướng. Tổ chức chị em của nó. MI-5 hay cơ quan an ninh,chịu trách nhiệm phản gián trong lãnh thổ Vương quốc Anh mới có một giám đốc-tướng.
Trong nhà, lãnh đạo được gọi là “C”, dường như viết tắt của từ Chief, nhưng hoá ra lại không phải vậy. Người chỉ huy đầu tiên là đô đốc Sir Mansfield Cummings. và chữ C là viết tắt của họ của quý ngài chết từ lâu đó.
Dưới lãnh đạo là hai phó và dưới họ là các trợ lý lãnh đạo Những người này chỉ huy năm ban khác nhau: Chiến dịch (hay Ops, cơ quan thu thập các tin tức quan trọng). Tình báo (cơ quan phân tích chúng để đưa ra một bức tranh có nghĩa đáng tin cậy), Kỹ thuật (chịu trách nhiệm với những giấy tờ giả mạo, camera mini, chữ viết bí mật, những liên lạc siêu nhỏ. và mọi thứ bit của kim loại khác cần thiết để làm cái gì đó trái với pháp luật và giữ nó không để thế giới thù địch mò đến); Hành chính (coi về lương bổng, lương hưu: danh sách nhân viên, kế toán ngân sách, Cơ quan luật: đăng ký trung tâm, và những cái tương tự); và Phản gián (cơ quan có nhiệm vụ giữ cho đơn vị được trong sạch khỏi sự thâm nhập đối nghịch bằng việc kiểm tra).
Dưới Ops là những người Kiểm tra, những người trông coi các đơn vị khác nhau của toàn thế giới – thế giới phương Tây, khối Vacsava, châu Phi, châu Âu, Trung Đông và Á-Úc – với một cơ quan bên cạnh phụ trách các mối quan hệ, cơ quan có nhiệm vụ cố gắng hợp tác với các cơ quan “thân thiện” khác. Tháng Tám năm 1990 do, tiêu điểm của sự quan tâm là Trung Đông, và đặc biệt là Ban Iraq, đơn vị bị toàn bộ giới chính trị và quan chức của Westminster và Whitehall đổ xô đến như một câu lạc bộ người hâm mộ ồn ã.
Vị phó cẩn thận nghe những gì người Kiểm soát Trung Đông và giám đốc Ops của vùng trình bày đi trình bày lại nhiều lần ý tưởng. Ông nghĩ đó là, hoặc có thể là, một lựa chọn thú vị. Không hẳn là không có thông tin nào lọt dược ra ngoài Kuwait. Trong bốn mươi tám giờ đầu tiên. trước. khi người Iraq đóng các dường dây điện thoại quốc tế, ngay cả công ty Anh có văn phòng ở Kuwait cũng nói chuyện qua điện thoại, fax, telex cho người sở tại ở đó. Đại sứ quán Kuwait đã rót vào tai cơ quan Ngoại giao với những câu chuyện khủng khiếp đầu tiên và đòi được tự do ngay lập tức.
Vấn đề là ở chỗ, hiển nhiên là không một thông tin nào trong đó thuộc vào loại mà lãnh đạo có thể trình bày lên Chính phủ với sự tin cậy tuyệt đối được. Ngay sau vụ xâm chiếm, Kuwait đã là một “đống lầy tởm lợm”, như bộ trưởng Ngoại giao đã nhấn mạnh rất rõ sáu giờ trước. Ngay cả nhân viên của Đại sứ quán Anh giờ đây cũng bị đóng chặt trong chính nó ở bên lề của Vịnh, gần như trong bóng tối của những ngọn tháp Kuwait nhọn hoắt, cố gắng liên lạc bằng điện thoại với những công dân Anh trên một danh sách chẳng chính xác tẹo nào để xem họ có ổn không. Đôi khi đang nói chuyện với những doanh nhân và kỹ sư hoảng sợ đó là họ có thể nghe thấy tiếng súng. “Hãy nói cho tôi cái gì đó mà tôi không biết ấy.” Đó là phản ứng của Nhà Thế kỷ trước những viên đá quý của tình báo đó.
Giờ đây một người ngay trong cuộc,, và là một tay xâm nhập sâu đã được đào luyện, một người của Ops có thể biến thành người A rập – trở nên hết sức hấp dẫn. Ngoài một số thông tin thực tế rất hiếm hoi như là cái quái quỷ gì đang xảy ra ở đó, một cơ may tồn tại để chỉ cho các nhà chính trị cái gì đó đã thực sự xảy ra và làm cho William Webster cẩm đầu CIA phải ngậm đắng nuốt cay.
Vị phó không hề có ảo tưởng nào về đánh giá cao hết sức của Margaret Thateher đối với SAS từ cái buổi chiều tháng Năm năm 1980 khi họ đã hạ đo ván những tên khủng bố ở Đại sứ quán Iran tại London. và bà đã qua cả buổi tối với đội ở các công sự dường Albany uống whisky và nghe những câu chuyện bậy bạ của họ.
Tôi nghĩ, cuối cùng ông nói, tốt hơn hết là tôi phải nói chuyện với bên DSF.
Công khai mà nói, SAS chẳng có gì liên quan với SIS. Những mạng lưới chỉ huy khá là khác nhau. Đội SAS số 22 năng nổ (ngược với đội 23 làm nửa giờ) được đặt ở một công sự gọi là Stirling Lines, ở bên ngoài thành phố Hereford ở miền tây nước Anh. Vị chỉ huy của nó báo cáo cho giám đốc các lực lượng đặc biệt. hay DSF, cái cơ quan trong một dãy toà nhà ớ tây London. Cơ quan hiện thời nằm ở trên cùng một toà nhà có hàng cột từng rất duyên đáng ở trên một cái bao bọc, là một phần của cái bẫy thỏ của những phòng nhỏ thiếu những thứ rực rỡ tầm quan trọng của nhưng chiến dịch được hoạch định tại đây. DSF nằm dưới vị giám đốc của các chiến dịch quân sự (một vị tướng) người đứng dưới vị lãnh đạo của Cơ quan tướng (một vị tướng cấp còn cao hơn). và cơ quan tướng này lại đặt dưới Bộ Quốc phòng.
Nhưng từ Special trong tên của SAS là do một nguyên nhân. Ngay cả từ khi nó được thành lập ở sa mạc miền tây Libya năm 1941 do đại tá David Stirling, SAS đã thay đổi chiến dịch nhiều. Nhiệm vụ của nó thường là luồn sâu với một cái nhìn được đặt kín và quan sát những chuyển động của kẻ thù; sự luồn sâu với mục đích phá hoại, ám sát, và những vụ thông thường; thanh trừng khủng bố. khôi phục; bảo vệ từ rất gần; làm vệ sĩ các nhân vật cao cấp và có quyền lực; và những nhiệm vụ huấn luyện ở nước ngoài.
Là thành viên của một đơn vị toàn tinh hoa, các sĩ quan và người của SAS sống khá tách biệt, không thể nào trò chuyện về công việc của mình với người ngoài, từ chối chụp ảnh: và hiếm khi xuất hiện bên ngoài bóng tối.
Vì cách sống của các thành viên của hai xã hội bí mật có nhiều điểm tương đồng. SIS và SAS biết nhau chí ít là qua quan sát và đã thường xuyên hợp tác trong quá khứ, cả trong những chiến dịch phối hợp hoặc với những người tình báo. “Vay mượn” một lính chuyên gia từ trung đoàn cho một nhiệm vụ đặc biệt. Cũng chính cách này mà vị phó của SIS (người đã hủy chuyến thăm của mình với lãnh đạo, ngài Colin) có trong đầu óc của mình khi ông nâng ly whisky mạch đơn từ tay thiếu tướng J.P.Lovat trong cái tổng hành dinh khó nhận dạng ở London vào buổi tối khi mặt trời sụp xuống.
Đối tượng không hiện diện của cuộc trò chuyện đó giờ này đang nhìn trên một bản đồ trong một doanh trại khác cách đó hàng dặm. Tám tuần vừa qua, anh và đội của mình với mười hai thông tín viên đã sống ở một trong những khu phố được chỉ định cho đội vệ sĩ của Sheikh Zayek bin Sultan của Abu Dhabi. Đó là một nhiệm vụ trung đoàn đã giao nhiều lần trước đó Mọi thăng trầm của bờ biển phía tây Vịnh, từ Sultanate của Oman miền nam đến Bahrain ở miền bắc, nằm trong chuỗi các sultanate, emirate. và sheikhdom ở trong và ngoài nó người Anh đã chiếm đóng hàng thế kỷ. Các quốc gia Trucial, giờ đây là Các tiểu vương quốc Arập, được gọi thế là vì Anh đã tửng ký một hoà ước với những người có trách nhiệm của họ để bảo hộ họ với Hải quân Hoàng gia chống lại những tên cướp biển xấu xa trong những ưu tiên về trao đổi thương mại. Quan hệ tiếp diễn, và nhiều trong số những người câm đầu đó có những đơn vị cao cấp đào tạo ở những nơi tốt hơn của sự bảo hộ chặt chẽ bởi người giảng những đội của SAS đến thăm. Một khoản phí được trả. tất nhiên, nhưng là cho vị Bộ trưởng Quốc phòng ở London.
Thiếu tá Mike Martin có một bản đồ lớn của vùng Vịnh và phần lớn vùng Trung Đông trải dài trên cái bàn rộng và đang nghiên cứu nó, xung quanh là nhiều người của anh. Ba mươi bảy tuổi, anh không phải là người nhiều tuổi nhất trong phòng. hai trong số trung sĩ của anh đã trên bốn mươi, cứng rắn, khắc khổ, và những người lính rất thiện chiến mà trong số đó một người trẻ hơn anh cả hai mươi tuổi đặc biệt quan tâm chăm chú.
– Có gì trong đó cho chúng ta không, ông chủ? Một trong số các trung sĩ hỏi.
Trong những đơn vị nhỏ thế này, các thành viên thường gọi nhau bằng tên thân mật. nhưng các sĩ quan vẫn được gọi là “ông chủ “.
– Tôi không biết. Martin nói, Saddam Hussein đã đích thân vào Kuwait. Vấn đề là: ông ta có làm trái với chính thoả thuận của mình hay không? Nếu không, quân Liên Hợp Quốc có quyền được đưa lực lượng vào và đuổi ông ta ra. Nếu thế tôi sẽ nghĩ ở đó phải có việc gì đó cho chúng ta làm đấy.
– Tốt, trung sĩ hài lòng nói. và sáu người khác ngồi xung quanh bàn cũng gật gù. Đã quá lâu rồi. kể từ khi họ vào đây, họ không được tham dự vào một chiến dịch đánh nhau nào thực sự, ác liệt.
Tại trung đoàn có bốn môn cơ bản, mỗi người được tuyển phải làm chủ được một trong số chúng. Có lính dù, chuyên nhảy dù từ độ cao; những người chuyên leo núi, những người chỉ thích đá dựng dứng chặn dường và những đỉnh cao; những người chuyên lái xe, lái những chiếc Land-Rovers trên mọi địa hình; cuối cùng là lính thuỷ, chuyên sử dụng canô, những người không mệt mỏi âm thầm đi. và lặn trong những công việc cần ở dưới nước. Trong đội mười hai người của mình, Martin có bốn lính dù, kể cả anh, bốn chuyên gia lái xe dạy người Abu Dhabi về những nguyên tắc tấn công chớp nhoáng và phản công trên nền sa mạc. và vì Abu Dhabi nằm ở vùng Vịnh, có thêm bốn lính thuỷ. Ngoài những chuyên môn đặc biệt của mình, những người của SAS phải có kiến thức tốt về những môn còn lại, để có thể thay đổi nhau được dễ dàng. Bên cạnh đó họ còn phải làm chủ được nhiều kỹ năng khác – vô tuyến điện, sơ cứu và ngôn ngữ. Đơn vị chiến đấu cơ bản gồm bốn người. Nếu một trong số đó bị loại khỏi cuộc chiến, nhiệm vụ của anh ta sẽ nhanh chóng được san sẻ giữa ba người còn sống, dù đó là những người vận hành radio hay những người chuyên về y tế.
Ngoài ra họ còn tự mình học hỏi để đạt đến trình độ cao hơn bất kỳ đơn vị nào khác trong quân đội, và vì họ đi khắp thế giới: họ buộc phải biết nhiều thứ tiếng. Trong nhiều năm tiếng Nga được ưa chuộng giờ đây đã hết mốt sau khi chiến tranh lạnh kết thúc. Tiếng Malay luôn rất hữu dụng ở vùng Viễn Đông, nơi trung đoàn đã chiến đấu nhiều năm ở Borneo. Tiếng Tây Ban Nha đang tăng lên từ khi các chiến dịch phản kháng ở Colombia chống các ông trùm ma tuý của Medellin và Cali. Tiếng Pháp cũng cần học – trong một số trường hợp nhất định. Và vì trung đoàn đã tiêu tốn nhiều năm phục vụ Sultan Qaboos ở Oman trong trận chiến của ông với những phần tử Cộng sản từ nam Yemen tiến vào sâu trong Dhofar. nhiều nhiệm vụ huấn luyện khác đã dược tiến hành ở khắp vùng Vịnh và tại A rập Xêut, nhiều người của SAS nói tốt riêng A rập.
Trung sĩ nói: “ông chủ lạ thật. cái gì cũng biết.”
Mike Martin đứng thẳng và xoa tay lên mái tóc nâu sậm.
– Đã đến lúc trở vào rồi đấy.
Mới hơn mười giờ. Họ sẽ phải dậy từ tinh mơ đế tập chạy mười dặm hàng ngày với những gánh nặng trước khi mặt trời trớ nên thiêu đốt. Đó là cái Abu Dhabi không thích lắm nhưng các tộc trưởng của ông lại rất ưa. Nếu những người lính ngoại quốc từ Anh này nói thế là tốt cho họ, thì đúng là tốt cho họ thật. Bên cạnh đó, ông ta trả tiền cho nó, và ông ta muốn tiền của mình thực sự có giá.
Thiếu tá Martin quay về hành dinh của mình và ngủ một giấc ngắn nhưng sâu. Trung .sĩ nói đúng; anh có thể nhìn thấy mọi thứ. Người của anh thường xuyên nghĩ anh thừa hưởng nước da màu bánh mật, mắt đen, và tóc đen sậm từ tổ tiên người Địa Trung Hải. Anh không bao giờ nói với họ, nhưng họ đã nhầm.
Ông ngoại của cả hai cậu bé Martin từng là một người trồng chè của Anh ở Darjeeling, Ấn Độ. Các cậu bé được nhìn ảnh của ông – cao. mặt hồng hào, ria mép màu vàng hung, tẩu thuốc ngậm trong miệng, súng cầm tay. đứng bên một con hổ bị bắn chết. Rất giống pukka sahib, người Anh vùng Raj, Ấn Độ. Sau đó vào năm 1928 Terence Granger đã thực hiện điều không tưởng ấy: ông đã đem lòng yêu và cố mà lấy một cô gái người Ấn. Không hẳn vì nàng đẹp và duyên dáng. Đó hoàn toàn không phải lý do. Công ty chè không sa thải ông – có thể làm họ nguy hiểm. Họ đày ông vào sâu trong lục địa đến một đồn điền hoang vắng ở Assam xa xôi.
Điều này được coi như là một sự trừng phạt, nhưng không thực sự như vậy. Granger và cô dâu mới của mình, hoa hậu Indira Bohse trước đây, thích được ở đó – vùng đất hoang dã, kỳ ảo, đi săn thú và những con hổ, những ruộng chè xanh đậm, khí hậu, con người. Và ở đó Susan đã được sinh ra vào năm 1930. Họ nuôi lớn cô ở đó, một cô gái Anglo-Ấn với những đứa bạn chơi đùa người Ấn.
Năm 1943 cuộc chiến tranh đã lan đến tận Ấn Độ, với cuộc tấn công của người Nhật Bản qua Miến Điện đến biên giới. Granger đã đủ già để không phải đi tình nguyện, nhưng ông cứ cố xin đi, và sau khoá huấn luyện cơ bản ở Delhi ông được phong chức thiếu tá trong đội Assam Rifle. Mọi binh sĩ người Anh đều được thăng thẳng lên thiếu tá; họ không bao giờ phải phục vụ dưới quyền một sĩ quan người Ấn, người Ấn chỉ có thể lên đến trung úy hay đại uý mà thôi.
Năm 1945 ông chết khi hành quân qua Irrawaddy. Thi hài của ông không bao giờ được tìm thấy; nó đã vun thêm chất mùn cho những cánh rừng Miến Điện rậm rạp, đó là một trong mười nghìn người đã từng nhìn thấy những trận chiến giáp lá cà ghê rợn của chiến tranh.
Với một khoản trợ cấp nhỏ của công ty, người vợ goá của ông đã trở về với nền văn hoá riêng của mình. Hai năm sau đó. nhiều vụ loạn lạc lại xảy đến. Ấn Độ bị chia cắt vào năm 1947. Người Anh phải đi. Ali Jinnah cương quyết giữ Moslem Pakistan của mình ở phía bắc, Pandit Nehru đặt chủ yếu quân đội của Ấn Độ Hindu ở phía nam. Vì những làn sóng người tị nạn của hai tôn giáo đổ về phía bắc và nam, chiến sự ác liệt nổ ra. Hơn một triệu người chết. Bà Granger, sợ hãi cho sự an nguy của con gái mình. đã gửi cô bé đi học với người cậu nhỏ tuổi nhất của bà, một kiến trúc sư thực thụ ở Haslemere, Surrey.
Sáu tháng sau, người mẹ chết trong một cuộc bạo loạn. Thế là đến năm mười bảy tuổi Susan Granger đến nước Anh, mảnh đất của ông cha cô mà cô chưa bao giờ được nhìn thấy. Cô bỏ học một năm ở trường nữ học gần Haslemere và sau đó hai năm ở một trại huấn luyện y tá ở bệnh viện Tướng Farnham, tiếp theo làm thư ký cho một cố vấn luật. Ở tuổi hai mốt, tức là tuổi nhỏ nhất được chấp nhận, cô đệ đơn xin phục vụ cho Không quân hải ngoại Anh. Cô được huấn luyện với các cô gái khác ở trường BOAC. trước đây là nhà tu kín St.Mary cổ kính ở Heston, ngay bên ngoài London. Khoá huấn luyện tốt, và trông cô rất già dặn. Hai mươi mốt tuổi cô đẹp, với mái tóc ken dầy, mắt đậm, và da như của người châu Âu với màu vàng óng ả. Sau khi được huấn luyện cô được chỉ định vào đường số Một, London đi Ấn Độ – một lựa chọn tất yếu đối với một cô gái nói tiếng Hindu thành thạo như vậy.
Thật là một chuyến đi dài, rất dài trong những ngày đó trên chiếc Argonaut bốn động cơ đẩy. Lộ trình là London-Rome- Cairo-Basra-Bahrain-Karachi-Bombay. Rồi sau đó là Delhi. Calcutta, Colombo, Rangoon, Bangkok, và cuối cùng là Singapore, Hongkong và Tokyo. Dĩ nhiên, một phi hành đoàn không thể thực hiện được tất cả những cái đó, và phi hành đoàn thứ nhất dừng ở Basra phía nam Iraq, nơi một phi hành đoàn khác sẽ thay họ.
Đó là vào năm 1951, tại một lần uống rượu ở Port Club, cô đã gặp một kế toán trẻ nhút nhát của Công ty Dầu mỏ Iraq, khi đó còn do người Anh quản lý và điều hành. Tên anh là Nigel Martin, và anh mời cô đi ăn tối. Cô từng được cảnh báo về những gã chim gái – những hành khách, phi hành đoàn, và trong những lần dừng nghỉ chân. Nhưng anh thật đẹp trai, do đó cô nhận lời. Khi anh đưa cô về nhà trọ của BOAC, nơi các nữ chiêu đãi viên tập trung. anh chìa tay mình ra. Cô rất kinh ngạc và nắm lấy nó. Rồi cô cứ tự hỏi trong cái nóng kinh người làm thế nào để mà có thể hôn Nigel Martin được.
Lần dừng sau đó ở Basra, anh lại có ở đó. Chỉ sau khi họ đã cưới anh mới nhận rằng anh dã theo dõi cô chặt chẽ thông qua viên sĩ quan Alex Reid của BOAC. Mùa thu năm 1951 đó họ chơi tennis, bơi Ở Port Club. và đi cùng nhau đến những khu chợ của Basra. Theo gợi ý của anh cô đã xin nghỉ và đến với anh ở Baghdad, nơi anh sống. Cô nhanh chóng nhận ra rằng có một chỗ cô có thể hạ cánh. Cô diện những chiếc váy màu sắc sặc sỡ. những dấu hiệu và mùi vị của đường phố. những món ăn bên bờ sông Tigris, những cửa hàng nhỏ diệu kỳ bán cỏ cây và gia vị, vàng, và đồ trang sức – mọi cái gợi cho cô nhớ đến Ấn Độ nơi chôn rau cắt rốn. Khi anh đề nghị cưới cô, cô nhận lời ngay tức khắc.
Họ cưới nhau năm 1952 ở nhà thờ lớn St.George, nhà thờ Anh giáo ở phố Haifa. và mặc dù cô không có ai đứng bên cạnh ở trong nhà thờ, nhiều người đã đến từ IPC và từ Đại sứ quán để trám vào chỗ hai bên nhà trai gái.
Đó là một khoảng thời gian thật tốt để sống ở Baghdad. Cuộc sống chậm rãi và dễ dàng, ông vua trẻ con Faisal ở trên ngai vàng với Nuri nhiếp chính cầm quyền trong đất nước, và ảnh hưởng lớn nhất là từ Anh. Một lẽ vì đóng góp to lớn của IPC cho nền kinh tế và lẽ khác phần lớn các sĩ quan trong quân dội đều được học ở Anh, nhưng chủ yếu là do tầng lớp trên đã nhiễm giáo dục theo lối Anh, điều luôn luôn để lại một ấn tượng rất lâu dài.
Trong thời gian đó nhà Martin có hai cậu con trai, sinh năm 1953 và 1955. Được đặt tên thánh là Michael và Terry, chúng chẳng giống gì nhau hết cả. Ở Michael, gene của hoa hậu Indira Bohse đậm nét: cậu có tóc đen, mắt sẫm màu, và da bánh mật, các thành viên của cộng đồng Anh cho rằng cậu giống người A rập hơn. Terry, kém anh hai tuổi, lại mang những nét của cha mình: thấp, đậm, da hồng hào, và tóc màu hung.
Vào lúc ba giờ sáng, thiếu tá Mike Martin bị lay dậy bởi một người lính có tuổi.
– Có một bức điện, sayidi.
Đó là một thông điệp khá đơn giản, nhưng dấu mã khẩn của nó là “blitz”, và dấu hiệu đó có nghĩa là nó được chuyển thẳng từ Giăm đốc các lực lượng đặc biệt. Không cần trả lời. Nó lệnh cho anh lập tức quay về London ngay trên chuyến bay gần nhất. Anh bàn giao nhiệm vụ cho viên đại uý SAS. người luôn thay anh khi anh về trung đoàn và là người thứ hai sau anh làm công tác huấn luyện, và chạỵ nhanh đến sân bay trong bộ đồ dân sự.
2 giờ 55 sáng chuyến bay về Anh bắt đầu cất cánh. Hơn một trăm hành khách ngáy hoặc càu nhàu với các chiêu đãi viên tuyên bố vì lý do quan trọng nên máy bay sẽ cất cánh muộn chín mươi phút. Khi các cánh cửa lại mở ra để nhận một người duy nhất, một người trong bộ đồ jean, bốt cao cổ đi sa mạc, và áo jacket kín bưng với một cái túi to đeo trên một vai, một số người phải đợi lâu quá chửi rủa anh. Người đàn ông được chỉ cho một chỗ trống ở hàng hạng nhất, khiến anh cảm thấy thoải mái. Và trong mấy phút sau khi máy bay cất cánh anh đã ngả ghế của mình và ngủ thiếp đi nhanh chóng. Một doanh nhân ngồi cạnh anh, đã ăn một bữa tối thịnh soạn để rồi phải đợi hai giờ trong sân bay và hai giờ nữa trên máy bay. chán ngán chửi vào khuôn mặt đang ngủ một cách thoải mái gần mình.
– Đồ Arập khát máu, lão lầm bầm. và cố gắng ngủ mà không được.
Bình minh đã lên trên vùng Vịnh được hai giờ, nhưng chiếc máy bay của British Airways vẫn lao về phía tây bắc, đỗ xuống Heathrow ngay trước mười giờ sáng giờ địa phương. Mike Martin đi ra khỏi sảnh trong những người đầu tiên vì anh không có hành lý gửi trong máy bay. Không ai ra đón anh: anh đã biết trước. Anh cũng đã biết là sẽ phải đến đâu.
Ở Washington bình minh chưa lên, nhưng những dấu hiệu đầu tiên của mặt trời đã làm hồng những ngọn đồi xa xa của hạt Prince Georges, nơi dòng sông Patuxent chảy xuôi xuống gặp Chesapeake. Ở tầng sáu và cũng là tầng cao nhất của toà nhà lớn, hình thuôn giữa đám nhà tạo nên hình dáng cho đại bản doanh của CIA và được biết đơn giản dưới cái tên Langley, ánh sáng vẫn còn tỏ rạng.
Luật gia William Webster, giám đốc Cục Tình báo Trung ương, nhấn nhấn đầu ngón tay vào đôi mắt mỏi mệt, đỏ ngầu, và đi đến những cánh cửa sổ có vẽ hình. Màu sắc bạc trước mặt ông của dòng Potomac khi chúng đang mùa xanh tốt vẫn còn chìm trong bóng tối. Trong một giờ mặt trời lên có thể khiến chúng trở lại màu xanh nhạt. Lại thêm một đêm thức trắng nữa. Kể từ cuộc xâm lược Kuwait ông đã phải phập phồng giữa những cú điện thoại từ Tổng thống, Hội đồng An ninh Quốc gia. Bộ Ngoại giao. và có vẻ như, từ bất kỳ ai có số điện thoại của ông- Đằng sau ông, cũng mệt mỏi như ông, là Bill Stewart đang ngồi, đó là người phó của ông phụ trách các chiến dịch, và Chip Barber, chỉ huy bộ phận Trung Đông.
Thế là ra sao, DCI hỏi, như thể là hỏi lại câu hỏi thì có thể có được câu trả lời tốt hơn.
Nhưng vẫn không có thay đổi gì hết cả. Tổng thống, NSC, và Nhà nước đều đang chờ ngóng những điệp viên cắm sâu từ bên trong trái tim của Baghdad, từ những hội đồng bí mật nhất của chính Saddam Hussein. Liệu ông ta có ở lại Kuwait không ? Ông ta có chịu khuất phục trước sức ép của các nghị quyết của Liên Hợp Quốc đã được Hội đồng Bảo an thông qua? Ông có lùi bước trước lệnh cấm vận dầu mỏ và thắt chặt thương mại? Ông đang nghĩ gì? Ông ta đang dự định gì? Mẹ nó chứ, dù sao thì ông ta đang ở đâu?
Cơ quan không hề biết. Họ có một trạm lớn ở Baghdad: dĩ nhiên. Nhưng người này đã bị đóng băng từ nhiều tuần qua. Người của cơ quan đã bị Rahmani lãnh đạo phản gián Iraq phát hiện. Những “nguồn” tốt nhất của anh ta có vẻ như đều bị Rahmani dò ra cả. Dĩ nhiên, họ có những bức ảnh – đủ ảnh để rút ra cái gì đó. Các vệ tinh, KH-11 và KH- 12, quay quanh Iraq cứ vài phút một lần để có được những bức ảnh cận cảnh rõ nét về mọi thứ trên toàn đất nước .Các chuyên gia chứng nhận có thể có một nhà máy sản xuất chất khí độc, cái có thể là một thiết bị nguyên tử – hay có thể chỉ là một nhà máy sản xuất xe đạp.
Các chuyên gia của Cơ quan do thám Quốc gia, một phần thuộc CIA và một phần thuộc Không quân, cùng với các nhà khoa học ở ENPIC, Trung tâm Xử lý Hình ảnh Quốc gia. đều đưa ra một bức ảnh một ngày nào đó có thể được hoàn chỉnh. Đó là một vị trí chỉ huy chủ yếu: đó là một địa điểm tên lửa SAM. đó là một căn cứ máy bay chiến đấu. Tốt, bởi vì các bức ảnh nói với chúng ta như thế. Và một ngày nào đó: có thể lắm chứ, chúng tất cả đều phải bị ném bom để trớ lại thời kỳ đồ đá. Nhưng Saddam còn có cái khác nữa không? Còn được giấu kỹ: được chôn sâu dưới lòng đất?
Nhiểu năm bỏ bê lraq giờ đã đến ngày phải gặt trái đắng.
Những người bị quay như chong chóng trên ghế của mình đằng sau Webster đều là những tay cựu trào đã ghi vào xương tuỷ về vụ bức tường Berlin khi mà sự thực còn chưa tòi ra. Họ đã đi một chặng đường dài để trớ về. trước khi những thiết bị điện tử đảm nhiệm những công việc thu thập thông tin của tình báo. Và họ đã nói với ông rằng các máy quay phim của NRO và những tai nghe của Cơ quan An ninh Quốc gia ở Fort Meade không phát hiện được các bản đồ, chúng không thể do thám các định hướng, chúng không thể đi vào trong bộ não của một nhà độc tài.
Do đó NRO chụp những bức ảnh và tai nghe của Fort Meade được nghe và ghi âm từng từ ở mợi cuộc gọi điện thoại và các thông điệp phát thanh, bên ngoài và bên trong lraq. Và họ vẫn không có câu trả lởi.
Cũng vẫn cơ cấu chỉ huy đó, cũng vẫn đồi Capitol đó đã bị thôi miên vớl những thiết bị điện tử mà họ đã tiêu hàng tỷ đôla để phát triển và đã tiêu tốn những cái mà bộ óc tinh tế con người có thể cố vấn, giờ đây đòi hói những câu trả lời mà những thứ máy móc đó không thể cung cấp được. Và những người đứng sau DCI đã nói rằng elint. tình báo điện tử, là một chỗ dựa và thêm vào cho humint, phương thức thu thập tin tức tình báo bằng con người, chứ không phải thay thế cho họ. Điều này thật hay ho, nhưng không mang lại giải pháp nào cho vấn đề của ông.
Vấn đề là Nhà Trắng đang đòi hỏi câu trả lời mà chỉ có thể được cung cấp bằng sự chắc chắn bởi một nguồn tin, một người nằm vùng, một điệp viên, một kẻ phản bội, dù sao đi nữa cũng đã leo cao được bên trong hệ thống chính quyền của Iraq. Cái mà chưa thể có được.
– Anh đã hỏi Nhà Thế kỷ chưa?
– Rồi. Cũng như chúng ta thôi.
– Tôi sẽ nói chuyện với Tel Aviv trong hai ngày nữa, Chip Barber nói. Tôi sẽ gặp Yaacov Dror. Tôi có thể hỏi ông ta không?
Vị DCI gật đầu. Tướng Yaacov “Kobi” Dror là chỉ huy của Mossad, là cơ quan ít chịu hợp tác nhất của các cơ quan “thân thiện”. DCI vẫn còn nhớ đến trường hợp Jonathan Pollard, người đã do Mossad gài sâu vào Mỹ chống lại nước Mỹ. Một vài người bạn, ông ghét phải hỏi xin điều gì đó ở Mossad.
– Hỏi ông ta đi, Chip. Chúng ta không quanh quẩn đây nữa. Nếu ông ta có nguồn tin nào trong Baghdad, chúng ta sẽ xin. Chúng ta cần loại sản phẩm này. Trong lúc đó, tốt hơn hết là tôi quay trở lại Nhà Trắng và đối mặt lại với Scowcroft vậy.
Với lời nhắn nhủ không mấy hữu ích đó. cuộc họp kết thúc.
Bốn người đàn ông đang đợi ở trụ sở SIS London trong buổi sáng hôm ấy ngày 5 tháng Tám hẳn là đêm trước đã rất bận rộn. Giám dốc các lực lượng đặc biệt, thiếu tướng J.P.Lovat. đã nới chuyện diện thoại rất nhiều, tự cho phép mình gà gật hai tiếng đồng hồ trong ghế của mình từ hai đến bốn giờ sáng. Cũng giống như rất nhiều lính chiến khác, từ lâu ông đã rèn luyện khả năng chợp mắt vài giờ ở bất kỳ đâu và vào bất kỳ lúc nào khi tình thế cho phép. Không thể biết bao lâu nữa mới lại được xạc pin. Trước bình minh, ông đã tắm và cạo râu và sẵn sàng cho một ngày mới đầy sự kiện. Chính cú điện thoại của ông liên lạc với cấp cao British Airways vào nửa đêm (giờ London) khiến chiếc máỵ bay nằm lại chờ ở Abu Dhabi. Giám đốc British Airways, càu nhàu ở nhà, không hỏi tại sao lại phải cho dừng một chiếc máy bay cách đây đến ba nghìn dặm cho đến khi một người khách lạ có thể lên được. Ông biết Lovat bởi vì họ từng đã là thành viên Câu lạc bộ Những lực lượng Đặc biệt ở Herbert Crescent, biết rõ điều ông ta làm, và đáp ứng đòi hỏi của ông mà không phải hỏi han gì cả.
Vào giờ ăn sáng viên trung sĩ trực kiểm tra lại ở Heathrow rằng chiếc máy bay từ Abu Dhabi đến trễ chín mươi phút và có thể hạ cánh vào lúc mười giờ. Viên thiếu tá có thể đến doanh trại vào khoảng mười một giờ.
Một người truyền tin đi xe máy đã đến lấy một hồ sơ nghề nghiệp cá nhân ở doanh trại Browning, đại bản doanh của trung đoàn lính dù ở Aldershot. Viên thượng sĩ trực đã rút nó từ tập hồ sơ ngay sau nửa đêm. Đó là hồ sơ quản lý Mike Martin ở Paras từ ngày anh tự giới thiệu mình với tư cách một học sinh mười tám tuổi, đến năm mười chín tuổi đã là một người lính chuyên nghiệp, trừ hai khoảng thời gian dài đã chuyển sang trung đoàn SAS. Người sĩ quan chỉ huy của đội SAS thứ 22. đại tá Bruce Craig, một người Xcốtlen khác, trong đêm đã đến từ Hereford, mang theo mình bản hồ sơ chứa đựng hai giai đoạn này, ông đến đúng lúc bình minh.
– Chào buổi sáng, J.P! Sao rồi?
Họ biết nhau khá kỹ. Lovat, thường được biết đến với cái tên J.P hay Jaypee, đã từng là người chỉ huy đội hành quyết đã chiếm lại Đại sứ quán Iran ở London từ những tên khủng hố mười năm trước đây, còn Craig từng là một chỉ huy đội dưới quyền ông vào thời đó. Họ có một thời gian dài cùng hoạt động với nhau.
– Bên Thế kỷ muốn đưa một người vào Kuwait, ông nói. Có vẻ như thế là đủ. Nói dài không phải là sở thích của ông.
– Một người trong số chúng tôi ư? Martin? Đại tá Craig đặt tập hồ sơ ông cầm theo xuống.
– Có vẻ như thế đấy. Tôi đã gọi anh ta từ Abu Dhabi về.
– Tốt, mẹ nó chứ. Ông sẽ giải quyết chuyện này à?
Mike Martin là một trong số các sĩ quan của Craig, và họ cũng khá thân. Ông không muốn người Nhà Thế kỷ lôi kéo người của mình. DSF nhún vai.
– Có lẽ phải vậy thôi. Nếu anh ta thích hợp. Nếu họ thấy thích điều đó, cấp cao lắm đấy.
Craig chun mũi và nhấc một ly cà phê đen từ viên trung sĩ trực mà anh ta chào là Sid – họ đã từng cùng chiến đấu ở Dhofar. Khi chuyển sang chính trị, đại tá nắm ngay được điểm cốt yếu. Nhà Thế kỷ có khả năng thắng trong mọi chuyện họ muốn. Trung đoàn phải hợp tác thôi, ngay cả khi bên Thế kỷ sẽ có quyền kiểm soát toàn bộ dưới cái vẻ ngoài của một phi vụ hợp tác.
Hai người từ Thế kỷ đến ngay sau đại tá, và họ đều được giới thiệu. Người cao cấp hơn là Steve Laing. ông mang theo mình Simon Paxman, chỉ huy Bàn Iraq. Họ ngồi trong một phòng chờ, được mời cà phê, và được đưa cho hai tài liệu CV để đọc. Cả hai người đều đắm chìm vào lý lịch của Mike Martin từ tuổi mười tám trở đi. Tối hôm trước, Paxman đã bỏ ra bốn giờ đồng hồ với người em trai để tìm hiểu về nguồn gốc gia đình và thời gian lớn lên ở Baghdad và trường công Haileybury.
Học kỳ cuối ở Haileybury, hè năm 1971. Martin đã viết một thư cá nhân cho Paras và được phỏng vấn vào tháng Chín tại cơ sở ở Aldershot. Anh đã được trường coi là một học sinh bình thường nhưng là một vận động viên điền kinh siêu hạng. Rồi vào Paras suôn sẻ. Cậu bé đã được nhận và bắt đầu luyện tập cùng tháng đó, hai mươi hai tuần lễ mệt nhọc để chuẩn bị cho cuộc đua tháng Tư năm 1972.
Đầu tiên họ có bốn tuần tập đối kháng trong phạm vi hẹp, những vũ khí cầm tay, những đồ dùng đánh bộ cơ bản, và tập thể lực; rồi thêm hai môn nữa là sơ cứu, tín hiệu và học cách chống NBC – các loại vũ khí nguyên tử, vi trùng và hoá học. Tuần thứ bảy dành cho tập luyện thể lực hơn nữa, luôn tăng thêm độ nặng nhọc, nhưng không thấm gì so với tuần thứ tám và thứ chín – tập chạy xuyên qua rặng núi Brecon ở xứ Wales, nơi những người mạnh khoẻ đầy sức lực đã chết vì quá sức và thiếu không khí. Tuần thứ mười là cuộc đua ở Hythe, Kent, thi bắn súng trong rặng núi, nơi Martin, vừa mới sang tuổi mười chín, bị trượt vì điểm kém. Tuần thứ mười một và mười hai là những tuần kiểm tra được thực hiện ở đồng quê gần Aldershot – chỉ chạy lên và xuống những quả đồi cát mang theo ba thân cây trong bùn, mưa, và mưa rào lạnh giá của giữa đông.
Những tuần kiểm tra? Paxman lẩm bẩm, giở sang trang. Thế cái cuối cùng là quỷ quái gì vậy?
Sau những tuần kiểm tra. những chàng trai trẻ được trang bị mũ beret đỏ và đã nhảy dù trước khi bước vào ba tuần ở Brecon tập luyện tự vệ, hướng đạo và bài tập trong lửa cháy. Thời điểm đó – vào cuối tháng Giêng – Brecon rất trơn và lạnh giá các học viên ngủ ít, trời ẩm ướt và không có lửa.
Tuần thứ mười sáu đến mười chín là cho cuộc thi nhảy dù cơ bản ở Abingdon RAF, nơi họ phải nhảy từ trên cao xuống, và không chỉ từ máy bay.
Sau hai tuần nữa dồn sức cho tập luyện trên mặt đất gọi là hàng rào cuối cùng và một số kỹ năng cải trang, tuần thứ hai mươi hai là duyệt binh, với những bậc phụ huynh đầy kiêu hãnh cuối cùng cũng được phép gặp những chàng trai trẻ của mình đã rời họ sáu tháng trước.
Binh nhì Mike Martin từ lâu đã được cho là là POM – sĩ quan tiềm năng – và tháng Năm năm 1972 anh đến Viện Hàn lâm Quân sự Hoàng gia Sandhurst, tham gia cuộc thi một năm tiêu chuẩn quân sự. Mùa xuân năm 1973, trung úy mới được thăng hạng Martin đi thẳng đến Hythe để giữ chức huấn luyện dự bị cho Bắc Ailen, và anh chỉ huy đội trong vòng mười hai tuần đáng nản trong một trạm quan sát tên là Flax Mill bao phủ phòng tuyến Ardoyne, Belfast của nước Cộng hoà cực đoan. Anh đã được chỉ định về Tiểu đội ba, được biết dưới cái tên Para thứ ba, và sau Belfast thì trở về đơn vị ở Aldershot để chỉ huy đội tuyển quân, đưa người mới vào đi qua những cuộc khó nhọc chính mình đã phải trải qua. Mùa hè năm 1977 anh quay về Para thứ ba, bấy giờ đóng ở Osnabrueck, một bộ phận của Quân đội Anh vùng sông Ranh.
Đó cũng là một khoảng thời gian khốn khổ. Các Para được áp dụng “phương thức cánh cụt”. nghĩa là cứ chín năm lại mất ba năm, hay ba năm một lần, phải nhảy dù và được sử dụng như là một lính bộ binh bình thường. Mọi đội Para đều ghét phương thức Cánh cụt. Tinh thần xuống, các cuộc đánh nhau nổ ra giữa các Para và bộ binh, và Martin phải trừng phạt những người mà anh rất lấy làm yêu quý. Anh bị mắc ở đó mất gần một năm, rồi tháng Mười một năm 1977 anh tình nguyện chuyển sang SAS.
Một tỉ lệ lớn người trong SAS chuyển từ các Para sang, có thể vì công tác huấn luyện gần giống nhau, mặc dù SAS tự cho người của mình giỏi hơn, rằng họ đã có được những người rất tuyệt và sau đó bắt đầu làm việc với họ. Giấy tờ của Martin được đưa đến Văn phòng Hồ sơ của trung đoàn tại Hereford, nơi tiếng Arập lưu loát của anh được ghi nhận, và vào mùa hè 1978 Martin trở thành lựa chọn số một cho một khoá huấn luyện sáu tuần. Ngày đầu tiên một giảng viên tươi cười nói với tất cả bọn
họ:
– Trong khoá học này, chúng tôi sẽ không thử thách và không huấn luyện các bạn. Chúng tôi thử thách và giết các anh.
Họ đã làm đúng như vậy. Chỉ mười phần trăm qua được kỳ thi cuối cùng để vào được SAS. Nó giúp tiết kiệm được thời gian cho sau này. Martin qua được. Rồi đến huấn luyện thường xuyên, huấn luyện trong rừng rậm ở Belize, và một tuần về Anh tập kháng cự lại tra khảo. Kháng cự có nghĩa là cố giữ yên lặng trong khi phải chịu những thứ kinh khủng xảy đến với mình.
Họ đúng là điên rồ, Paxman nói, thả tập tài liệu xuống và tự đi tìm một tách cà phê mới. Họ điên kinh khủng lên được.
Laing chun mũi, ông đã chuyển sang đọc tài liệu thứ hai; đó là kinh nghiệm của người đàn ông ở Arập mà ông cần cho điệp vụ đang ở trong tâm trí ông.
Lần đầu Martin ở lại SAS ba năm, với quân hàm đại uý và vai trò trưởng nhóm. Anh được chọn vào phi đội A của những lính dù – được xếp vào các đội A,B,C và G – là lựa chọn đầu tiên cho một người đã nhảy dù trong các Para với những độ cao kinh người, Những con quỷ đỏ.
Nếu các Para không có lý do nào để sử dụng tiếng Arập của anh, thì trung đoàn lại có. Trong ba năm 1979-1981 anh đã phục vụ các lực lượng của Sultan của Oman ở tây Dhofar, dạy bảo vệ VIP ở hai tiểu vương vùng Vịnh. dạy Đội vệ binh Quốc gia Xêut ở Riyadh, và giảng cho các vệ sĩ của Sheikh Isa của Bahrain. Những nhận xét sau các vụ đó trong hồ sơ SAS đều ghi tại đó anh đã sử dụng rất tốt vốn văn hoá Arập, rằng trong trung đoàn không ai nói thứ ngôn ngữ đó tốt như anh, và rằng anh ta có thói quen đi dài trong sa mạc khi anh muốn nghiền ngẫm một vấn đề nàn đó, chịu ngâm mình trong cái nóng và ruồi.
Hồ sơ cho thấy anh đã quay lại các Para sau ba năm làm cho SAS trong mùa đông năm 81 và vui sướng thấy rằng các Para đã có chỗ trong chiến dịch Lở đá tháng Giêng và tháng Hai năm 1982 ở khắp Oman. Thế là thời gian đó anh trở về Jebel Akdar, trước khi đi nghỉ vào tháng Ba. Tháng Tư anh được gọi về một cách khẩn trương – Arghentina đã tấn công Falkland. Các Para hai và ba đến Nam Cực. Họ chèo trên chiếc thuyền Canberra, nhanh chóng được sử dụng trong quân đội, và đi ra biển đến San Carlos Water. Đội Para thứ ba đóng ngay tại đông Falkland, trong mưa gió đến cảng Stanley. Tabbing có nghĩa là đi cố trong điều kiện khủng khiếp trong khi vác theo 120 pound.
Đội Para ba đóng bản doanh ở một trang trại hoang vắng tên là Estancia House và chuẩn bị cho trận tiến công tối hậu vào cảng Stanley, điều đó có nghĩa lần đầu tiên tấn công vào đỉnh Longdon được phòng vệ hết sức nghiêm ngặt.
Trận đó bắt đầu bằng một cuộc tấn công im lặng vào các vị trí của Arghentina và trở nên rất ầm ĩ khi hạ sĩ Milne giẫm phải một quả mìn phát nổ. Súng máy của Arghentina khai hoả, những chớp lửa soi sáng hòn núi như ban ngày, và đội Para số ba có thể hoặc chạy lui để bảo toàn lực lượng hoặc tiến lên vào lửa để chiếm Longdon. Họ đã chiếm được Longdon, với hai mươi ba người hy sinh và hơn bốn mươi người bị thương. Một trong số những người bị thương đó là Mike Martin, bị một viên đạn vào chân và trốn xuống một dòng suối.
Sau cả ngày trên sườn núi. anh được đưa ra một vị trí an toàn hơn ở vịnh Ajax, được băng bó, và được máy bay trực thăng đưa đến thuyền bệnh viện Uganda. Thuyền Uganda đỗ ở Montevideo, và Martin là một trong số những người được chở về nhà trên một chuyến bay dân sự đến Brize Norton. Các đội Para đã cho anh ba tuần nghỉ ở Headley Court, Leatherhead, để hồi phục vết thương.
Chính ở nơi đây anh gặp cô y tá Lucinda, người trở thành vợ anh sau một hồi tán tỉnh nhanh chóng. Cô có vẻ khoái sự hào nhoáng khi có được một người chồng ở Para, nhưng cô ta đã nhầm. Họ dựng nhà ở một bờ biển gần Chobham, thích hợp cho nghề của cô ở Leatherhead và cho anh ở Aldershot. Nhưng sau ba năm, được gặp anh trong khoảng thời gian bốn tháng rưỡi: Lucinda thẳng thắn cho anh một lựa chọn: anh có thể có Para và sa mạc đẫm máu của anh, hoặc anh có thể có em. Anh suy nghĩ và chọn sa mạc.
Cô khá đúng đắn khi bỏ đi. Vào mùa thu 1982, anh học ở Staff College, đường vào cho cấp bậc cao hơn và một địa vị tốt hơn, có thể là ở Bộ. Tháng Hai năm 1983 anh trải qua cuộc thi tuyển.
– Anh ta đã suy nghĩ kỹ trước khi làm vậy, Paxman nói. Nhận xét CO của anh ta ở đây nói anh ta có thể không làm nếu anh ta muốn.
– Tôi biết, Laing nói. Tôi đã đọc nó. Một người… không bình thường.
Hè 1983 Martin được bổ nhiệm sĩ quan phụ trách các nhân viên Anh phục vụ cho các lực lượng trên bộ ở Muscat của Sultan, Oman. Anh đi biệt phái suốt hai năm, giữ huy hiệu của Para nhưng chỉ huy trung đoàn mặt trận phía bắc, Muscat. Anh được thăng thiếu tá ở Oman vàn mùa hè năm 86.
Các sĩ quan từng phục vụ một lần cho SAS có thể trở về lần thứ hai, nhưng chỉ khi được mời. Anh rất ít về Anh. Mùa đông năm 87, khi đang diễn ra vụ ly hôn không thể đảo ngược của mình, thì lời mời đến từ Hereford. Anh quay trở lại làm chỉ huy phi đội vào tháng Giêng năm 88, phục vụ ở Flank phía bắc (Na Uy), rồi Sultan Brunei và sáu tháng với đội an ninh trong nước ở Stirling Lines ở Hereford. Tháng Sáu 1990 anh được gửi cùng nhóm các giảng viên của mình đến Abu Dhabi.
Trung sĩ Sid gõ cửa và ló đầu vào.
– Thiếu tướng hỏi các anh có muốn gặp anh ta không. Thiếu tá Martin đang đến đấy.
Khi Martin bước vào, Laing ghi nhớ khuôn mặt, tóc và cặp mắt sạm đen vì nắng và liếc nhìn Paxman. Anh ta nhìn quanh. Bây giờ, liệu anh ta có thể làm được việc này không, và liệu anh ta có nói được tiếng Arập giỏi như người ta truyền tụng không?
J.P. dến bắt tay Martin, húng hắng ho.
– Rất mừng thấy anh trở lại, Martin.
– Cám ơn ngài. Anh bắt tay đại tá Craig.
– Để tôi giới thiệu hai người này. DSF nói. Ông Laing và ông Paxman, đều từ Nhà Thế kỷ. Họ có một – e hèm – đề xuất có lẽ họ muốn nói với anh. Các ngài, hãy bắn đi. Hay cần nói riêng với thiếu tá Martin?
– Ồ không đâu, Laing vội nói. Giám đốc chúng tôi hy vọng nếu hôm nay có được kết quả gì, thì đó nhất định phải là một phi vụ hợp tác.
Một đòn đẹp mắt, J.P. nghĩ, nghĩ đến ngài Colin. Những. kẻ này làm gì mà chẳng được.
Cả năm người ngồi xuống. Laing nói, giải thích về vấn đề chính trị: về việc mù mờ không biết liệu Saddam Hussein có rời khỏi Kuwait nhanh, chậm, hay không rời khỏi đó trừ khi bị đuổi khỏi dó. Nhưng phân tích chính trị cho rằng Iraq có thể trước hết sẽ tước hết những gì giá trị của Kuwait, rồi sẽ nhằng nhẵng đòi hỏi nhượng bộ của Liên Hợp Quốc đơn giản lâ không muốn lùi bước. Chắc phải đợi hàng tháng.
Nước Anh cần biết điều gì sẽ diễn ra bên trong Kuwait – không phải tin đồn nhảm, cũng không phải những câu chuyện đầy rẫy trên báo chí, mà là những thông tin độc về những công dân Anh còn mắc lại đó, về các lực lượng chiếm đóng, và lực lượng nào đang thực sự được sử dụng, liệu kháng chiến Kuwait có thể hữu dụng trong việc hạ các đội quân tiên phong của Saddam Hussein hay không.
Martin gật đầu, nghe và hỏi vài câu hỏi lễ độ nhưng chủ yếu là ngồi im lặng. Hai sĩ quan cao cấp nhìn ra cửa sổ. Laing kết luận ngay sau mười hai giờ.
– Thế đấy, thiếu tá ạ. Tôi không mong chờ một câu trả lời ngay lập tức, ngay bây giờ, nhưng thời gian là cốt tử rồi đấy.
– Ông có phiền gì không nếu chúng tôi nói riêng vài câu với đồng nghiệp của mình? J.P. hỏi.
– Tất nhiên là không rồi. Xem kìa. Simon và tôi sẽ về cơ quan ngay. Các ông đã có số phòng chúng tôi rồi đấy. Có lẽ các ông sẽ cho tôi biết vào chiều nay chứ.
Trung sĩ Sid dẫn đường cho hai người mặc thường phục đi ra và theo họ xuống tận dưới đường, nơi anh ta thấy họ bắt một chiếc taxi. Rồi anh đi trở lên.
J.P. đi đến một tủ lạnh nhỏ lấy ra ba lon bia lạnh. Khi những cánh cửa đóng lại. cả ba người cụng ly.
– Xem nào, Mike. cậu biết đó là gì rồi đấy. Đó là cái họ muốn. Nếu cậu thấv nó ngớ ngẩn, chúng tôi sẽ giải quyết cho.
– Tất nhiên rồi, Craig nói. Trong trung đoàn cậu không có dấu đen nào để mà nói không cả. Đó là ý của họ, không phải của chúng tôi.
– Nhưng nếu cậu muốn đi với họ. J.P. nói, thì cứ đi, rồi ở lại với họ cho đến khi trở về. Chúng tôi cũng sẽ có liên quan, dĩ nhiên rồi. Họ không thể làm việc đó thiếu chúng tôi đâu. Nhưng cậu ở dưới quyền họ. Họ sẽ chịu trách nhiệm. Khi đã xong, cậu về với chúng tôi như là đi nghỉ vậy.
Martin biết rõ chuvện gì xảy ra. Anh đã nghe những người khác làm từng làm việc cho Nhà Thế kỷ. Bạn sẽ không tồn tại với Trung đoàn nữa cho đến khi bạn quay trở lại. Rồi tất cả họ sẽ nói: “Rất mừng gặp lại anh” và không bao giờ nêu ra hay hỏi bạn đã từng ở đâu.
– Tôi sẽ làm, anh nói.
Đại tá Craig đứng lên, ông phải quay về Hereford. Ông bắt tay anh.
– Chúc may mắn. Mike.
– Dù sao, thiếu tướng nói, anh cũng đi ăn trưa đi. Chỉ cần xuống phố thôi. Bên Thế kỷ lo rồi đó.
Ông đưa cho Martin một cặp giấy và chào tạm biệt anh.
Mike Martin đi xuống tầng. Bữa trưa của anh được chuẩn bị trong một nhà hàng nhỏ cách đây bốn trăm yard, và người tiếp anh là ông Wafic Al-Khouri.
Ngoài MI-5 và MI-6 cánh tay chủ chốt nữa của Tình báo Anh là Trụ sở Liên lạc Chính phủ, hay GCHQ: một tập hợp các toà nhà trong một khu được bảo vệ ở ngoài thành phố
Cheltenham ở Gloucestershire. GCHQ là bản sao của Cơ quan An ninh Quốc gia Mỹ, với nó cũng có hợp tác rất chặt chẽ – những người nghe trộm với ăng-ten chĩa trên gần như mọi đài phát thanh và cuộc trò chuyện điện thoại trên thế giới nếu họ muốn. Qua hợp tác của mình với GCHQ, NSA của Anh có một số điện thoại đặc biệt bên trong nước Anh, ngoài những địa điểm nghe khác của mình trên toàn thế giới, và GCHQ cũng có những trạm ở nước ngoài. nhất là một cái rất lớn ở Akrotiri đảo Syp thuộc chủ quyền Anh.
Trạm Akrotiri, gần hiện trường, quản lý hình ảnh Trung Đông, nhưng chuyển mọi thành phẩm của mình về Cheltenham để phân tích. Trong số các nhà phân tích có một số các chuyên gia mà, mặc dù sinh ra là người Arập. lên được vị trí rất cao. Một trong số đó là ông Al-Khouri, người trước đây lâu đã được định cư ở Anh. được nhập quốc tịch. và lấy một người vợ Anh.
Nhà ngoại giao người Jordan tài năng truớc kia giờ là một nlhà phân tích cấp cao ở bộ phận Arập của GCHQ nơi, ngay cả dù cho có nhiều người Anh học tiếng Arập. Ông thường có thể đọc được một ý nghĩa ẩn sâu của một đoạn nói chuyện ghi âm được của một lãnh đạo trong thế giới Arập. Đó là người mà. Theo yêu cầu của bên Thế kỷ, đang chờ Mike Martin ở nhà hàng.
Họ có một bữa trưa vui vẻ kéo dài tới hai giờ đồng hồ và nói chẳng gì khác ngoài tiếng Arập. Khi họ chia taỵ, Martin đi và đi ngược về toà nhà SAS. Sẽ phải mất hàng giờ để thu thập thông tin trước khi anh sẵn sàng để đi Riyadh với một hộ chiếu anh biết Thế kỷ đã có sẵn, điền vào visa với một cái tên giả.
Trước khi anh rời tiệm ăn ông Al-Khouri gọi một số điện thoại từ máy điện thoại trên tường bởi một phòng.
– Không vấn đề gì đâu. Steve ạ. Anh ta hoàn hảo đấy. Tôi không nghĩ từng biết đến ai đó bảnh được như anh ta. Đó không phải là một người học nói tiếng Arập. Anh cũng biết đấy, tốt hơn thế nhiều, theo đúng ý của anh nhé. Tiếng Arập đường phố, mọi từ lóng, linh tinh… Không,. giọng rất chuẩn… Phải. anh ta sẽ ổn thôi… dù rơi vào bất kỳ phố nào ở Trung Đông. Không, không. không hề, bạn ạ. Rất vui được phụ anh.
Ba mươi phút sau, Mike Martin đã quay về chiếc xe hơi thuê và trớ về M4 ở Cheltenham. Trước khi anh vào đại bản doanh, anh gọi một cú điện thoại. đến một số ngay phố Gower. Người anh gọi cầm lấy máy, từ máy của mình ở văn phòng SOAS, nơi ông làm việc với giấy tờ trong một buổi chiều không có giờ giảng nào.
– Chào em. Anh đây.
Người lính không cần tự giới thiệu mình. Kể từ khi họ cùng vào trường dự bị ở Baghdad, anh đã thường xuyên gọi em mình là “bro”. Có một đoạn ngắt ở đầu kia đường dây.
– Mike hả? Anh ở chỗ quái nào đấy?
– Ở London, trong một bốt điện thoại.
– Em nghĩ anh đang ở đâu đó vùng Vịnh kia.
– Đã về sáng nay. Có thể tối lại đi ngay.
– Xem nào, Mike, đừng đi. Đó là lỗi của em…. Nhẽ ra em phải kín miệng.
Người anh phá lên cười qua đường dây điện thoại. Anh đang tự hỏi tại sao bọn rận lại đột nhiên để ý đến anh. Chúng đã đưa em đi ăn trưa à?
– Phải, bọn em đã nói chuyện về một đề tài khác. Em chỉ buột mồm thôi, chó thật. Xem nào, anh không việc gì phải đi đâu. Cứ nói với họ là em đã nhầm.
– Quá muộn rồi. Dù sao anh cũng đã nhận.
– Chúa ôi… Trong văn phòng mình, bao quanh bởi những tấm hình về Lưỡng Hà thời Trung Cổ, người em gần như bật khóc.
– Mike, hãy tự chăm sóc nhé. Em sẽ cầu nguyện cho anh.
Mike nghĩ một chốc. Phải, Terry luôn có tình cảm tôn giáo. Cũng có thể lắm chứ.
– Em cũng thế nhé, nhóc. Hẹn gặp lại khi nào anh về.
Anh bỏ máy. Còn lại một mình trong văn phòng, nhà học giả tóc nâu gục đầu vào tay.
Khi chuyến bay lúc 8 giờ 45 tối của British Airways đi Arập Xêut cất cánh khỏi Heathrow đêm đó, đúng giờ, Mike Martin có ở trên với cái hộ chiếu đã được đóng dấu thị thực nhập cảnh với một cái tên khác. Anh có thể gặp được chỉ huy trạm của Thế kỷ ở Đại sứ quán ở Riyadh trước khi bình minh.