Người Bảo Hộ ( Someone to Watch Over Me )

Chương 21 Parrt 1


Bạn đang đọc Người Bảo Hộ ( Someone to Watch Over Me ): Chương 21 Parrt 1

Chương 21
Khu vực trọng yếu của tầng thứ ba là phòng tuần tra, những cây viết bị bỏ tràn lan trên những cái bàn kim loại và tủ đựng hồ sơ được sử dụng suốt ngày đêm bởi ba ca trực khác nhau của các thanh tra, bao gồm Shrader và Sam. Một nơi luôn bận rộn, và chiều thứ Bảy này là không ngoại lệ. Vài thanh tra đang viết bản báo cáo và gọi điện thoại, hai thanh tra chuyên về cướp bóc đang phỏng vấn một nhóm khách du lịch bực tức, những người đã chứng kiến vụ trấn lột, và một người phụ nữ với một đứa bé khóc lóc trên đùi của cô ta đang điền tờ đơn than phiền chồng cô ta. 
Văn phòng cũ của Trung úy Unger là cuối tầng nhà, đối mặt với nơi tạm giam tù nhân trước khi ra tòa. 
McCord không có ở trong văn phòng khi Sam và Shrader đến, nhưng đèn đang bật sáng và một sự biến đổi đã diễn ra trong đó công bố rõ ràng rằng văn phòng chắc chắn là ở dưới sự quản lý mới. Như bất kỳ không gian bỏ không nào trong toà nhà quá đông người, văn phòng cũ của Unger nhanh chóng thích hợp cho nhiều việc sử dụng trái phép, bao gồm một căngtin phụ, khu vực họp hành, tủ chứa đồ, và nơi gửi đồ cho những món đồ gỗ bị gãy. Tất cả đã đột ngột được thay đổi. 
Không còn những hình ảnh của thị trưởng, thống đốc, và Cảnh sát trưởng mà Sam đã từng nhìn thấy được treo trên bức tường ở phía sau bàn, không còn những bản đồng, những trích dẫn, giấy chứng nhận, và một đống bằng khen đã chiếm phần còn lại của bức tường. Bản tin cũ ở phía bên tay trái của văn phòng đã biến mất cùng với những thông báo, những mẩu giấy trong báo cắt ra, và những quảng cáo ghim trên nó. Tấm bảng đen bụi bặm ở phía bên tay phải của căn phòng là món đồ duy nhất còn sót lại trên bất cứ bức tường nào, nhưng bây giờ nó đã được lau sạch sẽ. Một cái khay gỗ đã được kèm theo ngay dưới đáy của nó chứa đầy những đồ lau bảng bụi bậm và các mẩu nhỏ của phấn đã bị sử dụng, thay vào đó, có một cái hộp phấn mới và một đồ lau bảng mới được bố trí ngay giữa cái khay sạch sẽ. 
Món đồ trang trí duy nhất trong phòng là một cái bàn kim loại đối mặt với ngưỡng cửa, một cái tủ thấp đằng sau nó, và hai cái ghế dành cho khách ở phía trước nó, cộng thêm một cái bàn hẹp với hai cái ghế chống lại bức tường bên trái. “Trông giống như McCord thích giữ mọi thứ ngăn nắp hơn Unger.” Shrader thì thầm khi họ ngồi vào cặp ghế ở phía trước bàn của McCord. 
Sam nghĩ đó là lời nói hơi bớt đi. Món đồ kim loại đã không chỉ được lau sạch và thay đổi, nó đã được thực sự nằm ngay giữa phòng và sắp thẳng góc với các bức tường. Cái bàn giấy đằng sau bàn của McCord trống không, trừ hai màn hình máy tính, một cái là máy tính xách tay rõ ràng thuộc về anh ta, cái kia thuộc loại màn hình to lớn cồng kềnh thuộc về đơn vị. Máy tính xách tay đã được bố trí trực tiếp phía sau ghế của McCord, màn hình xanh đậm được thắp sáng bởi hai chữ trắng nhấp nháy: “Nhập mật khẩu.” Màn hình máy tính lớn hơn đã được chuyển sang phía trái và bị tắt. Bốn chồng hồ sơ dán nhãn gọn gàng đã được sắp xếp trên bàn làm việc của anh, một chồng ở mỗi góc, một nhãn màu ở mỗi chồng. Ngay trung tâm bàn, trực tiếp ở phía trước cái ghế xoay của anh, là một tập vở và một cây bút chì màu vàng mới toanh. Dưới tập vở màu vàng là hai hồ sơ, bị che đậy bởi tình cờ hay cố ý, nhãn hiệu trên chúng không nhìn được rõ ràng. 
Sam sẽ không hoàn toàn thích thú với tất cả những công việc quản gia này nếu McCord đang cố gắng thiết lập một môi trường cá nhân cho anh ta, có thể làm cho anh ta vui vẻ hơn trong lúc điều tra có thể kéo dài vài tuần hoặc thậm chí vài tháng. Nhưng không có vẻ là trường hợp đó. Không có một tấm ảnh nào của một người vợ, bạn gái, hoặc một đứa trẻ, không có cốc cà phê cá nhân nào, cũng không có cái chặn giấy, hay bất kỳ vật lưu niệm nổi trội ở bất cứ nơi đâu. Ngay cả bảng tên mà mỗi người cảnh sát mang theo với anh ta và đặt lên bất cứ cái bàn nào của anh ta lúc này. 

Mặc dù những câu chuyện mà cô vừa mới nghe về lòng can đảm và những thành tích chói lọi của McCord, Sam quyết định là người hùng của Shrader hoặc là một người khó tính, khó chìu hoặc loạn thần kinh. Cô đang nghiêng người để bảo Shrader việc đó khi cô nhìn thấy tên trên một trong những tập tin hồ sơ ló ra từ dưới bảng ghi và nhận biết McCord đã trưng dụng hồ sơ nhân sự của họ. “Shrader, Malcolm là tên của anh hả?” 
“Bộ tôi nhìn như Malcolm hả?” anh trả đũa một cách bất bình, nhưng Sam biết sự phủ nhận bối rối khi cô nhìn thấy điều đó.
“Đó là một cái tên rất hay. Tại sao lại phủ nhận nó? Anh là Malcolm Shrader.” 
“Trong trường hợp đó,” Mitchell McCord cắt ngang khi anh bước nhanh vào văn phòng, “cô phải là Samantha Littleton.” 
Vì sốc, chứ không phải vì nghi thức ngoại giao, làm Sam đứng bật dậy bên cạnh Shrader để trao đổi cái bắt tay. “Và nếu tôi đã nói đúng cho đến giờ,” McCord thêm vào bằng giọng chua chát, “vậy thì tên tôi phải là McCord.” Một cách nhanh chóng, anh gật đầu cho họ ngồi xuống, rồi tự mình ngồi xuống, và với lấy điện thoại của anh. “Tôi phải làm một cuộc gọi nhanh, và sau đó chúng ta sẽ bắt đầu giải quyết ngay những chuyện quan trọng.” 
Vui mừng là có được vài khoảnh khắc để hoàn hồn lại, Sam nhìn gò má bị sẹo của McCord và những tính năng thô kệch, và loại bỏ ngay ý nghĩ khó tính, nhưng cô không thể nghĩ ra anh thuộc loại người nào. Không có gì về anh có vẻ chính xác với ấn tượng chung mà anh đã tạo ra. Anh cao lớn và anh di chuyển nhanh nhẹn so với một người đàn ông khoẻ mạnh, nhưng anh ốm hơn anh lẽ ra phải nên. Anh ở tuổi bốn mươi lăm, nhưng tóc của anh đã bạc và đã được cắt theo phong cách gợi cho cô nhớ về George Clooney. Anh ăn mặc đẹp đẽ, đặc biệt là đối với một thanh tra, cái quần nâu của anh đã được ủi thẳng tắp, cái nịt da của anh màu nâu, và cái áo thun có cổ màu be của anh thật không chê vào đâu được – nhưng cái áo vest vải tuýt nâu anh đang mặc lớn hơn so với anh, đặc biệt là ở vai. 
Những chuyện đó không quan trọng, dĩ nhiên, Sam biết cô không thể nói nhiều về một người đàn ông từ cách anh ta ăn mặc, nhưng khuôn mặt của anh là một vấn đề hoàn toàn khác, và một vài kiểu cách, rất khó hiểu. Da anh rám nắng, dấu hiệu là không chỉ có tiền, mà còn có khí chất, để sử dụng mấy tuần ở vùng nhiệt đới, nằm trên bờ biển dưới ánh mặt trời. Rõ ràng là anh có cả hai thứ đó, nhưng tuyệt đối không có gì hưởng thụ về khuôn mặt khắc nghiệt với vết sẹo dài hai inch dọc xuống má phải của anh, hay một vết sẹo lớn hơn chạy ngang qua chân mày ở trên nó. Ngoài những vết sẹo của anh, anh còn có những đường rãnh sâu ở hai bên miệng của anh, những vết nhăn trên trán của anh, và cái nhăn nhíu giữa cặp lông mày của anh. 

Khuôn mặt của Mitchell McCord không trẻ trung hay đẹp trai. Thực ra, nó rất cách xa vẻ đẹp trai. Nhưng nó có rất nhiều tính cách và khắc sâu với những kinh nghiệm gian khổ đến nỗi nó – không thể nào nghi ngờ – là một khuôn mặt lôi cuốn nhất, thu hút nhất mà cô từng thấy trên một người đàn ông. 
Khi suy nghĩ kế tiếp của cô là sự hối tiếc là cô đã không gội đầu và mặc cái gì đó đẹp hơn cái áo thun chui đầu và quần jean, Sam cau mày trong sự kinh tởm bất ngờ và tỉnh táo lại ngay. 
McCord gác máy điện thoại một lát sau và nhắm những lời nhận xét của anh vào Shrader, không phải Sam, điều mà rất hợp lý so với cấp bậc và kinh nghiệm của Shrader. “Được, báo cáo cho tôi biết. Nói cho tôi biết mỗi phút, mỗi khám phá của mọi chuyện đã xảy ra cho đến nay.” Anh nhìn Sam. “Nếu anh ấy bỏ qua bất cứ thứ gì, lên tiếng ngay lập tức, đừng đợi, và đừng giữ lại bất cứ chi tiết nào, bất kể là nó nhỏ như thế nào đi nữa.” 
Không nói thêm một lời nào, anh nhặt lên tập vở vàng và cây bút chì từ bàn làm việc của anh, xoay cái ghế của anh ngang lại, gác mắt cá của anh lên một đầu gối, và đặt quyển vở trên lòng anh. Anh bắt đầu ghi chú ngay khi Shrader bắt đầu nói. 
Sam làm vài phần lưu ý trong đầu, nhưng chúng liên quan đến khuôn mặt của anh, ngôn ngữ cử chỉ của anh, và việc đôi giày màu nâu của anh đã được đánh bóng và bóng loáng. Sau đó, cô chú ý hoàn toàn vào đề tài đang được bàn đến và, trong quá trình, cô đã cố quên là McCord hấp dẫn một cách kỳ lạ như thế nào. Cô làm điều đó rất tốt khi anh nhìn sang một bên cô và bắn ra các câu hỏi đầu tiên của anh vào cô, cô trả lời anh một cách bình tĩnh và chính xác. 
“Trong bệnh viện,” anh hỏi cô, “cô đã tin Leigh Manning khi bà ta nói là bà ta không biết Valente, rằng bà ta gặp anh ta lần đầu tiên tại bữa tiệc đêm trước ư?” 
“Vâng.” 

“Vào lúc đó, cô cũng đã tin sự quan tâm của bà ta dành cho chồng bà ta là chân thành?” 
“Vâng.” Sam lại nói, và gật đầu để nhấn mạnh. 
“Ngẫm lại, bây giờ khi cô biết là bà ta đang nói dối, cô có thể nghĩ về bất cứ điều gì nhỏ mà bà ta đã nói hoặc sẽ phản lại bà ta – nếu cô đã theo dõi về điều đó?” 
“Không…” 
Anh nhìn thấy sự ngần ngại của cô và nhắm vào nó. “‘Không’, cái gì?” 
“Không,” Sam nói, và miễn cưỡng thêm vào, “và tôi không chắc là bà ta đã và đang nói dối về sự lo lắng về chồng bà ta. Đêm đầu tiên chúng tôi gặp bà ta ở bệnh viện, bà ta đã bị say thuốc và bà ta bối rối và mất phương hướng, nhưng bà ta muốn gặp chồng bà ta và bà ta có vẻ thực sự tin là ông ta có thể ở một nơi nào đó trong bệnh viện. Sáng hôm sau, khi bà ta không còn mất phương hướng, nhưng bà ta có vẻ phát điên lên, và bà ta cũng dường như đã cố kềm chế sự hoảng sợ của bà ta. Bà ta dường như đã không cố gắng làm một cuộc buổi biểu diễn điên cuồng cho chúng tôi, bà ta dường như đã làm chính xác điều ngược lại.” 
“Thật sao?” anh nói, nhưng anh đang ra vẻ bề trên đối với cô, và cô biết điều đó. 
Sau khi hỏi thêm nhiều câu hỏi nữa với Shrader, và không có một câu hỏi nào cho cô nữa, cuối cùng thì anh cũng kết thúc và đặt cuốn vở xuống. Anh mở khoá ngăn kéo ở bàn của anh và lấy ra một phong bì bằng chứng màu nâu đậm mà Harwell đã ký nhận ở miền núi và chuyển đến Đại úy Holland theo sự chỉ dẫn của Shrader. McCord lấy ra một bịch ny lông trong suốt chứa tờ giấy viết tay của Valente. Mỉm cười, anh lật nó bằng ngón tay của anh, và sau đó anh đọc to những điều viết trong đó: “‘Thật khó hơn là tôi có thể tưởng tượng trong việc giả vờ là chúng ta không biết nhau vào tối thứ Bảy’.” 

Vẫn mỉm cười, anh nhìn Sam. “Cô đã cho là kẻ theo lén bà ta đã gửi giỏ lê, và đó là lý do tại sao cô lại săn lùng tin nhắn này, đúng không?” 
“Đúng.” 
“Tại sao những trái lê lại làm phiền cô?” 
“Bởi vì Bà Manning đã đề cập là bà ta luôn ăn chúng cho bữa điểm tâm và chồng bà ta trêu chọc bà ta về nó. Giỏ trái lê là một món quà tỉ mỉ và đắt tiền, và tôi cho là bất cứ người nào đã gửi chúng phải có kiến thức về thói quen cá nhân của bà ta.” 
“Cô có bao giờ nghĩ là chồng bà ta có thể là tự mình gửi chúng? Anh ta biến mất một cách bí mật, và đột ngột những trái lê xuất hiện không có tấm thiệp. Nó có thể đã từng là một sự trao đổi riêng giữa hai người. Cô có nghĩ vậy không?” 
“Lúc đó thì không. Nếu tôi không tìm ra được lời nhắn từ Valente, tôi đã bắt đầu phân vân về việc nếu, và khi nào thì Logan Manning không sống sót xuất hiện.” 
“Anh ta sẽ không sống sót xuất hiện. Valente sẽ chắc chắn về điều đó. Không may, là lời nhắn này đến với Leigh Manning không phải là một bằng chứng hiển nhiên của một âm mưu giết người. Anh ta sẽ phủ nhận là anh ta đã viết nó, chúng ta sẽ bắt đầu với các chuyên gia về chữ viết tay để chứng nhận là anh ta đã viết, sau đó luật sư của anh ta sẽ có các chuyên gia về chữ viết tay khác để bác bỏ các chuyên gia của chúng ta. Phân tích chữ viết tay không được đựơc nhìn nhận bởi hội đồng xét xử như một khoa học hợp pháp, và chuyên gia của chữ viết tay thường không có sức thuyết phục nhân chứng. Đối với tờ văn phòng phẩm này, luật sư của Valente sẽ biện luận rằng bất kỳ người với cái máy in hai trăm đô la có thể làm được nó – bao gồm vài kẻ thù của Valente muốn gán tội cho anh ta.” 


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.