Bạn đang đọc Nếu Gặp Người Ấy Cho Tôi Gửi Lời Chào: Chương 1
chap 1
Cậu là một thiếu niên vô cùng lập dị. Hệt như chú chim đô đô[1] cuối cùng đang bước trên con đường tuyệt chủng, cậu là người duy nhất còn thừa hưởng cái gọi là “phẩm chất” vốn đã biến mất khỏi cõi người. Thánh thiện, nên dễ bị tổn thương, cậu nhìn thế giới với đôi mắt trong veo chẳng khác gì chú chó Laika đi vòng quanh trái đất bằng tàu vũ trụ.
[1] Loài chim không biết bay đặc hữu vùng đảo Mauritius ở Ấn Độ Dương, họ hàng với bồ câu. Chim đô đô bị tuyệt chủng khoảng nửa sau thế kỷ 17.
Tôi gặp cậu vào mùa xuân năm tôi mười ba tuổi. (Đương nhiên là gặp cậu cùng với cô ấy, chuyện này tôi định từ từ kể sau. Vì vậy bây giờ tôi đã có thể nhận thức lại mọi chuyện một cách rõ ràng, vả chăng ở vào cái tuổi hai mươi chín, tôi cũng đã nắm bắt tâm hồn phụ nữ khá hơn so với lứa tuổi lên mười.)
Do công việc của Bố, tôi phải chuyển trường học liên tục. Cả nhà tôi giống các quân trong trò cờ tỉ phú, luôn sống trong cảnh đang ở chỗ này đã tính tới chỗ khác tùy thuộc vào số nút xúc xắc mà sếp của bố gieo xuống. cứ thế chúng tôi băng qua các thành phố, có khi đi hết một vòng rồi lại quay trở về điểm xuất phát.
Vì lẽ đó tôi chẳng thể nào có được bạn thân, tôi định bụng sẽ nhanh chân vượt qua thời niên thiếu mà không cần biết đến ý nghĩa của tình bạn chân chính.
Thị trấn mới được tạo nên từ những cánh đồng mênh mông vô tận, điểm xuyến rừng sồi hoặc thông đỏ. Nhà dân nằm rải rác, trông thưa thớt như những cọng râu của cậu thiếu niên mới lớn.
Thị trấn có mấy con sông nhỏ chảy dọc theo chân đê. Từ dòng chảy trong veo bắt nguồn từ mạch nước ngầm ấy mọc lên um tùm các loại thủy tảo như cỏ thìa, huệ nước hay cây sao. Nhiều cá nhỏ và côn trùng thủy sinh lấy chỗ đó làm nơi trú ngụ đang sống rất hạnh phúc.
Không hiểu tự bao giờ, tôi bị cuốn hút bởi thế giới dưới nước ấy. Đến ở thị trấn nào cũng vậy, cứ hết giờ học là tôi lại đi qua các hồ nước. Có những thị trấn vắng hơi ẩm, đất đai khô không khốc; nhưng cũng có những nơi kinh khủng, bùn bẩn phủ dày đáy sông thay cho thủy tảo, lon nhôm rỗng và bao ni lông của các siêu thị nổi lềnh bềnh trên mặt nước thay cho lũ cá. Thế nhưng ở đây sông hồ tràn ngập sự sống, khiến tôi đem lòng mến thích.
Và hơn hết thảy, đây còn là nơi tôi tìm được bạn thân lần đầu tiên trong đời. Mặc dù chỉ lưu lại chừng một năm, thị trấn này vẫn trở thành nơi tôi không bao giờ quên được.
Hồi đó chuyển đến vừa đúng thời điểm, tôi được đón kỳ học mới với tư cách học sinh mới chứ không phải học sinh chuyển trường giữa chừng.
Đám học sinh vừa lên lớp tám còn hơi bỡ ngỡ, hễ nhìn thấy gương mặt nào thân quen thì nắm lấy tay nhau, tụ tập thành các nhóm nhỏ, vui mừng vì được học cùng lớp. Nhưng chỉ sau một tuần, tất cả đã yên vị ở chỗ vừa vặn với mình. Mấy đứa lúc đầu chỉ dựa vào mối quen biết ở trường cũ cũng mau chóng tìm được bạn bè phù hợp ình, tạo nên chế độ giai cấp trong xã hội thu nhỏ này.
Những nam sinh học giỏi nhất lớp mà không lấy đó làm điều đáng phổng mũi, sẽ được giới bất hảo trong lớp nể phục kiểu “Thằng đó được đấy”. Đương nhiên ngoài học hành ra, chúng còn trang bị ình sức hấp dẫn đầy “con người” là giỏi bóng rổ hay chơi rift[2] điệu nghệ bằng ghita. Đã thế lại còn táo bạo, ngang nhiên hẹn hò với hội con gái. Đám con gái ấy thì dễ thương với đôi má mềm mại, không những vậy thành tích học tập cũng xuất sắc.
[2] Rift là một thuật ngữ nói về các đoạn nhạc ngắn (đoản khúc) được chơi đi chơi lại (bằng nhiều loại nhạc cụ khác nhau).
Với tất cả mọi người, nhóm này luôn duy trì thái độ không phân biệt đối xử, nhưng bọn tôi biết đấy tuyệt nhiên không phải mối quan hệ bình đẳng. Vì họ là “tầng lớp thượng lưu”.
Giới hạ lưu gồm một vài nhóm.
Đó là những kẻ chỉ biết có học, ví thử có biết ngày mai tận thế đi chăng nữa thì họ cũng chẳng bỏ từ ý định học thuộc lòng từ vựng tiếng Anh hay các phương trình. Họ có phần nhầm lẫn giữa mục đích và phương thức, mà đến khi nhận ra thì đã mất đi khá nhiều thứ. Chẳng hạn như nụ hôn vụng về ở tuổi mười bốn, hay một cú xoay người ghi điểm duy nhất trong đời, đại loại thế.
Ngược lại, có những kẻ ghét học nhưng lại rất giỏi vận động cơ thể (thành viên của câu lạc bộ thể thao mà học giỏi sẽ được nâng cấp thành “tầng lớp thượng lưu”). Dù bằng một cú xoay người hay úp rổ thì họ cũng sẽ ghi bàn đẹp hoành tráng, và chẳng biết từ bao giờ đã sở hữu kinh nghiệm hôn môi với nàng quản lý có nụ cười đẹp rạng ngời. Thế nhưng nhóm này cũng sẽ mất đi thứ gì đó mà trong rất nhiều trường hợp cả đời họ cũng không nhận ra. Vẫn có cảm giác ngờ ngợ đấy nhưng không tài nào nắm bắt được.
Dù vậy thì hai nhóm này vẫn nằm ở tầng lớp trên so với tập hợp “Những nhóm khác”.
“Những nhóm khác”, đúng như tên gọi của nó, là những nhóm khác, bình đẳng trên bối cảnh võ đài. Học hành tàm tạm, thể thao vừa vừa, không có tài năng gì đáng kể. Họ thuộc giai cấp có tầng lớp xuất hiện cao nhất. Những kẻ trong đội trống kèn, hoặc đảm nhiệm cầm băng ghi âm trong đại hội thể thao đều thuộc nhóm này.
Thấp hơn nữa, à không, ngoài số đó ra là những kẻ hơi lập dị, thuộc thiểu số, luôn hành động theo nhân sinh quan riêng, hầu như không hứng thú với ai khác ngoài bản thân mình. Đôi khi họ lập thành nhóm giao tiếp hai đến ba người, nhưng phần lớn là hoạt động một mình. Và chẳng bao giờ bận tâm đến sự đơn độc.
Cả hai người mà tôi gặp chính xác là thuộc nhóm này.
Tôi thì… Lẽ nào tôi cũng ở trong “nhóm lập dị” ấy?
Thực ra thì, nhờ bị bố ép tập luyện cùng mà tôi có thể chạy 400 mét khá nhanh. Nhưng vì không tham gia câu lạc bộ thể thao nên tôi ít có cơ hội thể hiện khả năng đó.
Học hành thì tôi dở tệ hại. Kết quả kiểm tra cuối kỳ học đầu tiên, cả khối có 365 học sinh thì tôi đứng thứ 360. Tiếng anh tôi được 2 điểm, một kết quả mà dù có cố gắng cũng chưa chắc đã đạt được. Bố nói với mẹ rằng, nó tô hết các ô trống trong phiếu trả lời mà sai được đến ngần này thì hẳn cũng là một kiểu thiên tài.
“Thằng bé này chưa biết chừng sẽ trở thành một nhân vật tầm cỡ.”
Lẽ thường ở đời, trẻ càng sinh muộn thì càng được chiều chuộng. Lúc này bố tôi đã ngoài sáu mươi tuổi. Đôi mắt nhìn con trai mình dù có qua cặp kính lão đi chăng nữa thì vẫn sẽ méo mó tới mức không thể chỉnh lại được.
Tôi yêu sự cô độc, và còn yêu lũ thủy sinh hơn thế. Nếu xét nét từng li từng tí thì tôi có vẻ cũng là thành viên của “nhóm những kẻ lập dị” vĩ đại. Những suy luận mang tính quy nạp đôi khi dẫn đến kết luận ngoài ý muốn của bản thân ta như thế đấy (dù cho kết luận đó là đương nhiên với mọi người xung quanh).
Trong lớp, tôi thường cố gắng thu mình lại, tránh gió máy. Nếu có thể, tôi muốn bạn học coi mình như dụng cụ học tập hay cái bình hoa cũ ít thu hút sự chú ý. Chẳng có kẻ hiếu kỳ nào lại muốn bắt chuyện với bình hoa bám bụi. Tuy nhiên… giả sử có một cô gái hiền thục tâm hồn dễ mến, để tránh bị nhìn thấy, cứ hết giờ học mới rón rén cắm hoa vào thân bình tôi này, thì cũng hạnh phúc biết bao.
Sau giờ học thì đúng là thiên đường.
Đằng sau trường học có một con kênh và một con sông nhỏ chảy song song. Một mương nước hẹp rẽ nhánh từ con sông ra, cuối mương có thể là khu đầm lầy, cái đầm hoặc cái ao kỳ diệu ngập đầy nước trong vắt đang chờ tôi. Trong mương nước, cỏ thìa, huệ nước và cỏ hoa môi đung đưa lất phất, còn ở đầm hay ao thì lùm lùm những hồng hồ điệp và dương xỉ lá kim, mấy khóm lục bình to tướng trôi lềnh bềnh trên mặt nước.
Hễ tan học. tôi thường không về nhà ngay mà đi cắt ngang sân vận động, băng qua cánh rừng rồi tiến về phía khu hồ nước.
Tôi vốn để ý đến cậu thiếu niên ấy từ lâu rồi.
Đã vài lần sau giờ học, tôi nhìn thấy cậu chạy lòng vòng khắp sân sau trường học vì bị bọn trong câu lạc bộ thể thao rượt đuổi. Chắc chắn là cùng lớp nhưng tôi không biết cậu ta ngồi đâu.
Ngày hôm ấy trở thành buổi gặp gỡ của chúng tôi, đúng theo nghĩa đen của nó.
Đội bóng chày có mặt ở con kênh.
Sang tháng Năm, khi nước bắt đầu ấm dần lên, nơi đây trở thành địa điểm tụ tập lý tưởng cho các câu lạc bộ thể thao. Vào mùa nước cạn thế này, có thể lội xuống kênh bắt cá chép nhỏ hoặc bọ nước, mò được cơ man nào là hến từ lớp cát tích tụ dưới đáy sông. Lấy cớ chạy bền trên đường, hầu hết thành viên câu lạc bộ thể thao đều rời khỏi sân vận động ra đây giãn gân giãn cốt.
Đội bóng chày vừa thô lỗ vừa ngang tàng nên đương nhiên tôi phải đề phòng. Như loài động vật ăn cỏ bé nhỏ, tôi luôn căng mọi dây thần kinh để dè chừng, luôn phải giữ một khoảng cách nhất định, cẩn thận để không lọt vào lãnh địa của bọn chúng. Tôi thường khom người đi bên bờ đối diện để không bị chúng nhìn thấy, rồi rón rén tẩu thoát.
Bên bờ phải của con mương dẫn lên thượng nguồn là một rừng cây với chiều rộng hàng trăm mét kéo dài dằng dặc mấy cây số liền. Ở vành đai xanh này có rất nhiều dân cư sinh sống. Nói theo ngôn ngữ bây giờ thì các dân cư ấy được gọi là “homeless”.
Một trong số họ đã đào một hốc ngang ở cạnh bên con đê và sống trong đó. Trong cái hang sâu ba mét này có một tấm nệm, thùng các-tông, một chậu rửa mặt nhôm và cái nồi cháy khét. Ngày hôm ấy chắc chủ nhà đi ra ngoài nên tôi không thấy bóng dáng đâu cả.
Ở phía trước có một khu rừng tre trải rộng, sâu tít trong rừng có một ngôi nhà xiêu vẹo. Là kiểu nhà mà người ta hay gọi là lều tranh, cái dáng xiêu vẹo gợi nhớ lại “chuồng chim sẻ[3]” vẫn hay xuất hiện trong các câu truyện cổ tích. Người sống trong đó được mọi người gọi bằng cái tên “bộ xương di động”. Đúng như tên gọi, đó là một người đàn ông gầy trơ xương, quanh năm duy nhất chỉ một tạo hình với bộ kimono hoa văn lợt lạt, xỏ đôi dép cỏ. Tuy chẳng phải nữ tu tám trăm tuổi[4] nhưng trông lão như đã sống ở khu rừng tre ngày từ hàng trăm năm qua. Thực tế thì tôi nghe kể rằng lão là con trai của một đại địa chủ sở hữu mấy thổ đất vùng vành đai này.
[3] Một tích trong truyện cổ Shitakini Suzume (Con chim sẻ bị cắt lưỡi).
[4] Nhân vật nữ tu hành trong truyện cổ Bát bách tử khâu ni kể về một cô gái vì ăn thịt người cá mà sống đến 800 tuổi vẫn dưới hình dạng của cô bé lên mười.
Tôi phải cẩn thận. Lão cực ghét trẻ con, hễ thấy đứa nào bén mảng tới rừng tre ắt sẽ cầm gạch ném. Tôi phải băng qua bằng những bước rón rén. Từ đây đi tiếp về phía trước sẽ dẫn đến một con đường nhỏ bao quanh bởi hàng cây sồi, dẻ và thông. Đích đến của tôi là đầm nước mang tên “Đầm Quả Bầu”. Trong cái đầm được viền bởi cỏ lau và cây củ niềng ấy, rong đuôi chó và lục bình nổi lên mặt nước, bên dưới là nơi sinh sống của cá da trơn, cá trạch bùn và rùa nhỏ. Hơn thế, đây còn là kho hàng các loại thủy sinh.
Tôi đi qua đi lại nơi này suốt mấy ngày.
Tôi gặp cậu ta ở cách Đầm Quả Bầu một đoạn ngắn, mắt đang nhìn chăm chăm vào núi rác thải vứt sai quy định. Tôi nhận ra cậu ta học cùng lớp nhưng không sao nhớ nổi họ tên. Tôi dừng chân, quan sát cậu thiếu niên đang dán mắt vào đống rác.
Cậu ta thấp bé. Bảo học lớp ba có lẽ cũng được. Trông dáng vẻ, tôi có cảm giác đây là kiểu người nghiêm nghị khó gần. Sơ mi chui đầu nhăn nhúm phối cùng quần jean (trường cấp hai của tôi không có đồng phục, chỉ mặc quần áo bình thường), tóc tai bù xù. Tuy nhiên, điểm gây ấn tượng mạnh nhất của cậu ta chính là cặp kính. Cái gọng nhựa màu đen, thô kệch, kiểu dáng cổ lỗ sĩ, nhìn thế nào cũng thấy quá khổ so với cậu ta. Nó nhô ra khỏi đường viền của khuôn mặt. Một thứ na ná như dây chun tự chế được cài lên phần vành tai để giữ cho khỏi tuột. Mang dáng dấp của một Elvis Costello (lúc đặt máy ảnh trong album This Year’s Model) thu nhỏ, và trông rất ngầu, theo cách nhìn nhận của tôi.
Ấy vậy mà không hiểu sao cậu ta cứ nhìn chăm chăm vào núi rác? Ánh mắt cậu ta dõi thẳng đến chiếc tivi CRT đã vỡ màn hình (do tôi lỡ ném đá tuần trước), đến chiếc tủ lạnh cũ bẩn vẫn còn đang mở cánh, và cả chiếc xe đạp bị mất lốp, nói chung là một mớ hổ lốn các loại rác cỡ đại. Lẽ nào cậu ta đang kiếm một thứ có thể tái chế sử dụng? Mà chưa biết chừng là đôi kính kia nhặt ở đâu về cũng nên.
Đúng lúc đó, cậu ta chợt nhìn về phía tôi. Đang quan sát với ánh mắt tọc mạch, tôi hốt nhiên lúng túng, không nói được lời nào, chỉ đưa hai tay phe phẩy trước ngực một cách vô nghĩa.
“Câu lạc bộ bóng chày sẽ đến đấy.” Cậu ta bảo.
Theo phản xạ, tôi hốt hoảng quay lại. Nhưng vẫn chưa nhìn thấy bóng dáng bọn nó.
“Lúc nào chúng cũng chạy bền qua đây.” Lần này thì rõ ràng cậu ta nói với tôi. “Nếu không muốn gặp phiền toái thì tốt nhất là nên trốn đi.”
Dứt lời cậu ta gật đầu một cái rồi biến mất vào núi rác. Tôi cũng vội vã theo sau. Trời đã xế bóng, nên nếu ngồi xổm xuống thì sẽ ẩn kín được trong đống rác đó. Chúng tôi nín thở đợi câu lạc bộ bóng chày đi tới.
Chẳng mấy chốc tiếng lào xào của bọn chúng đã vọng đến. Giọng khàn đục xì xầm khẩu hiệu khi luyện tập, nghe như tiếng mấy chiếc xe lười bảo dưỡng đang nối đuôi nhau chạy. Tôi không nhận biết được ý nghĩa từng từ một. Mà bọn chúng cũng đâu có nghe nhau nói gì. Lát sau, cả đội đã băng qua bãi rác, cùng tiếng giày giẫm lép bép trên thảm lá rụng.
“Đi rồi.” Cậu ta vừa nói, vừa đưa ngòn trỏ đẩy lại cặp kính bị tuột.
“Ừ.”
Dù vậy nhưng chúng tôi cũng không có ý định đứng lên khỏi chỗ nấp. Vì các thành viên nặng ký sẽ đến muộn hơn một lát.
Phía sau của núi rác cỡ đại hẳn vẫn là rác. Mọi rác thải của nền văn minh đều tích tụ ở đó để bao phủ mặt nghiêng hướng xuống sông. Ở bên phải tôi chất hàng tá đầu búp bê nhỏ. Là loại đầu làm từ thạch cao trắng, không tóc, trông giống xương sọ của trẻ em bị dầm mưa dãi nắng. Ở giữa hai chúng tôi là mấy quả bóng bowling đen cỡ 15 pound. Nhìn đâu cũng không thấy ba cái lỗ để nhét ngón tay vào. Cả bóng bowling lẫn đầu búp bê đều là những tạo vật đáng thương, bị vứt bỏ khi còn chưa nên hình dáng mà đáng ra chúng phải trở thành.
“Cái này đã ở đây được hai tháng rồi.” Như nhận ra ánh mắt của tôi, cậu ta nói. “Nó sắp trở thành loại rác vĩ đại.”
“Loại rác vĩ đại?”
Cậu ta gật đầu, rồi lại đưa ngón tay ấn cái kính bị tuột. Trông bộ dạng lúc này lại giống Clark Kent thu nhỏ. “Rác cũng có nhiều loại lắm chứ. Lúc bị vứt thì chúng vẫn là đồ vật. Rồi dần dần sẽ thành rác, có những món sẽ thành rác bẩn thỉu, hoàn toàn vô dụng, nhưng có những món lại nghiễm nhiên thành rác vô cùng vĩ đại.”
Cái giọng, nghe cứ như một nhà thiên văn học đang kể chuyện các vì sao.
“Cái này,” cậu ta trỏ quả bóng bowling không lỗ. “Cực kỳ hay ho. Rồi nó sẽ thành loại rác tốt hiếm thấy.”
Rốt cuộc tôi vẫn không biết được tiêu chuẩn ấy từ đâu ra. Tôi đồ là cũng tương tự cảm giác khi nghe ai đó nói rằng rượu vang màu đỏ là được còn hồng nhạt thì không.
Một lát sau tới lượt nhóm nặng ký. Dấu hiệu không phải từ tiếng chân mà từ tiếng rung chuyển của mặt đất.
Những bao thịt nặng 80 kilôgam.
Theo sau một đứa khối tám biệt danh Thịt Xay là hai học sinh mới vào, trông như Thịt Xay thu nhỏ. Đứa nào đứa nấy mặt đỏ gay, mồ hôi nhễ nhại.
Chúng tôi quan sát bọn chúng từ phía sau đống rác. Ba đứa này không đi theo lộ trình giống nhóm trước mà biến mất tại một ngách kéo dài ở phía bên phải, ngược lại hướng sông.
“Là đường tắt.” Cậu ta bảo. “Lúc nào Thịt Xay cũng đi ngả đó. Và rồi sẽ lén lút xuất hiện phía sau đoàn. Thế mà hắn ở đội hình chính cơ đấy, không thể tin được”.
Đúng là không thể tin nổi.
“Vị trí nào? ”
“Số 8 bên cánh phải.”
“Không phải cầu thủ bắt bóng à?”.
“Bắt bóng là một đứa nặng hơn Thịt Xay năm kilôgam. Nhưng hắn bị chấn thương đầu gối nên không tham gia tập chạy.”
Tôi nghi ngờ hỏi, “Đội bóng chày trường mình yếu lắm hả?”
“Luôn bị loại từ trận đầu tiên. Đến cả đội bóng chày thiếu niên địa phương còn chế nhạo.”
Nghe vậy tôi thở phào nhẹ nhõm. Hệ thống trên thế giới này vẫn đang vận hành tốt.
“Chà, tớ phải đi đây.” Nói đoạn cậu ta đứng dậy.
“Đi à, mà đi đâu?” Một đứa không có hứng thú với người khác như tôi đã hỏi một câu hiếm hoi. Đến giờ tôi vẫn còn cảm thấy lạ lùng. Tại sao lúc đó tôi lại quan tâm đến việc cậu ta sẽ đi đâu? Trong khi không biết rằng sẽ còn một cuộc gặp gỡ khác đang đợi ở phía trước. Dù sao chăng nữa tôi cũng đã vô thức thắt chặt một sợi chỉ mà tôi không thấy được.
“Có một bãi rác to hơn nhiều. Tớ đi đến đấy”. Sau cặp kính, mắt cậu ta chớp liên hồi như đang suy nghĩ rất lung. Đoạn khẽ gật đầu, đẩy cặp kính đang tuột xuống và nói với tôi, “À phải rồi. Cùng đi đi. Tớ sẽ chỉ cho cậu báu vật của tớ”.
Đó hẳn phải là thứ tuyệt vời hơn cả mấy quả bóng bowling 15 pound không lỗ. Chắc chắn phải thuộc tầm cỡ một chiếc tivi có chiếu chương trình sao Hỏa, hay một con búp bê không cần pin mà vẫn cử động được.
“Thật hả?”
Nghe tôi hỏi, cậu ta nhoẻn miệng cười. Hàm răng lô nhô khủng khiếp. Hai chiếc răng mọc lẫy to đùng thò ra từ hai bên mép. “Thật mà. Nào, đi thôi!” Nói rồi cậu ta cất bước. Ngoảnh lại tôi đang đi theo sau, cậu bảo, “Tên tớ là Yuji, Igarashi Yuji.”
“Còn tớ là Satoshi, Toyama Satoshi.”
Cậu ta cười hì hì.
Tôi cũng cười hề hề.
Có lẽ cả hai bên đều xấu hổ. Vì chúng tôi vẫn chưa quen với kiểu gặp gỡ này.
Yuji dẫn tôi đến một nơi mà tôi chưa đặt chân tới lần nào. Nó nằm ở bìa rừng, cách Đầm Quả Bầu khoảng mười lăm phút đi bộ. Đối diện nó là một khu dân cư mới rộng rãi. Đất đai thừa thãi thế này, ấy vậy mà nhà cửa của bọn họ thì được xây khít khịt nhau chẳng khác gì một tập đoàn sinh vật cực kỳ ngăn nắp. Tập đoàn này thể hiện năng lực sản sinh lớn mạnh, rồi chẳng mấy chốc sẽ tiêu diệt khu rừng xanh. Tuy nhiên, vào thời điểm này thì chỉ có một vài quần thể non yếu không đáng tin cậy điểm xuyến ở đó.
Ngay tại ranh giới giữa khu dân cư và khu vành đai xanh có một bãi rác khổng lồ.
Đó là một bãi rác bị đặt sai quy định. Rộng gấp đôi sân squash[5]. Rác chất thành đống tới độ cao 1 mét 50, được bao bọc bởi đám lau lênh khênh.
[5] Môn thể thao chơi trong phòng kín, thông thường 2 – 4 người chơi, đập bóng vào tường liên tục và không để rơi xuống đất.
“Thật kinh khủng!” Tôi nhận xét.
“Cũng không hẳn,” Yuji trả lời. “Còn có chỗ kinh khủng hơn nhiều.” Rồi cậu tiếp tục, “Có cả chỗ nguy hiểm nữa. Nhưng chỗ này thì an toàn.”
Hai đứa tôi bước vào trong đống rác, tôi cảm nhận được sự ngăn nắp trong đó. Tạp thì có tạp nhưng toàn bộ mọi thứ đều yên vị ở nơi phù hợp.
“Có vẻ không phải là một chỗ tồi.”
Nghe tôi nói vậy, Yuji tỏ ra vui sướng, “Đây là chỗ đặc biệt của tớ. Tớ phải thu dọn nhiều lắm để nó thoáng đãng hơn đấy.”
Có một chỗ bằng phẳng tựa như đường đi, cũng có cả không gian được ngăn cách như một căn phòng nhỏ. Dĩ nhiên là sàn và tường đều được làm từ rác. Và ở trung tâm bãi rác đó là một phòng khách. Có sofa, bàn, và tủ, được đặt ở nơi mà đứng từ ngoài nhìn vào tuyệt nhiên không thấy được.
“Chào mừng cậu đến với phòng của tớ.”
Xét từ bất kỳ hình thức nào thì đây cũng là lần đầu tiên tôi được bạn cùng trang lứa mời vào phòng. Thế nên tôi vô cùng hớn hở. Dù cho đây là căn phòng rác đi chăng nữa.
“Cậu ngồi xuống đi, không bẩn đâu”.
Sofa trông khá cao cấp, bọc da màu vàng chanh. Tôi vừa ngồi xuống thì chiếc ghế đã nuốt lấy tôi và lún thật sâu. Yuji lấy từ tủ ra hai cái đĩa rồi đặt lên bàn.
Bữa tối sắp bắt đầu ư? Trong một thoáng tôi hơi đề phòng. Ăn gì ở đây đi chăng nữa, xét về mặt vệ sinh cũng là một vấn đề đáng kể. Thế nhưng, hình như tôi hơi lo xa. Yuji lại lôi từ trong tủ ra một chai nước khoáng và một cái hộp vẽ hình mặt chó.
“Thức ăn cho chó đấy.” Nói đoạn cậu lắc lắc cái hộp cho tôi xem. Tiếng lạo xạo của đồ khô. “Ít calo, phù hợp với chó già.”
Cậu rót nước vào một cái đĩa và đổ thức ăn vào cái đĩa còn lại, đoạn dùng một tay làm động tác huýt sáo điệu nghệ. m thanh vang to khiến tôi giật nảy mình. Nghe dõng dạc tới mức khiến tôi không nghĩ nó được phát ra từ bàn tay bé như thế.
Yuji ngồi xuống sofa, đối diện với tôi, “Nó đến ngay bây giờ đấy.”
“Chó á?”
“Ừ, chó, báu vật của tớ đấy.”
Chắc mẩm là sẽ được xem một bộ sưu tập rác kỳ diệu, tôi hơi cụt hứng trước điều hiển nhiên này, “Ra thế, chó là báu vật của cậu.” Tôi giả vờ hứng thú, nhưng thực ra chỉ “diễn” để không làm Yuji phật lòng, “Chó thì ở đâu cũng có nhỉ, thường là lông xám với cái mũi đen ẩm ướt.”
“Nó đến rồi kìa,” Yuji thông báo.
Con chó thình lình xuất hiện. Khi định thần lại được, tôi đã thấy nó đang vẫy đuôi mùng rỡ sát ngay người mình. Trông nó giống hệt một đống rác. Toàn thân được bao phủ bởi lớp lông dài, chỗ nào chỗ nấy bám đầy loại rác trông giống mùn cưa. Tai phải bị mắc sợi dây ni lông màu đỏ, cứ lất phất theo gió. Tấm khăn ướt dính chặt vào bụng. Đôi mắt chìm sâu trong lớp lông rối nùi.
“Trông nó…”
“Tắm rửa sạch sẽ đến đâu thì hai, ba ngày sau lại thành như thế này. Chắc tại nó sống ở bãi rác đấy.”
“Vậy hả?” Tôi dè dặt đưa tay chạm vào cái khối trong chẳng khác gì đống rác đó.
“Huýt?”
Giật bắn người, tôi rụt tay lại rồi nhìn sang Yuji. Cậu cười, thoáng buồn.
“Huýt?” Rõ ràng là âm thanh phát ra từ con chó nhỏ này.
“Nó tên là Trash.” Yuji cho biết.
“Trash? Không phải là Patrashche[6] chứ?”
[6] Tên của chú chó trong bộ phim hoạt hình Chú chó vùng Flanders.
“Không, vì đây không phải là vùng Flanders, mà chỉ là một bãi rác thôi”.
Thế nên mới thành Trash (trực dịch ra là “rác”). Quả nhiên là cái tên thích hợp ột chú chó trông giống đống rác và lấy bãi rác làm nơi trú ngụ.
“Cậu đặt tên cho nó hả?”
Nghe tôi hỏi, Yuji khẽ lắc đầu. Cậu ngửa mặt lên từ đĩa thức ăn cho chó, nhìn tôi như muốn hỏi “Trash nghĩa là gì?”
“Không phải tớ. Người đầu tiên gọi tên Trash là Karin.”
“Karin?”
“Karin?”
“Đúng thế, Karin. Một người bạn thân nữa anh quen lúc mười ba tuổi.”
“Là con gái ạ?”
“Con gái. Cơ mà chẳng có điểm nào giống con gái cả. Cực kỳ lập dị. Chưa biết chừng còn lập dị hơn cả Yuji cơ đấy.”
Đề cập đến Karin theo cách này, lòng tôi không khỏi mang máng cảm giác áy náy. Thế nhưng nói ra miệng tên của mối tình đầu trước mặt người con gái mình đang hẹn hò đặng tiến đến hôn nhân thì chẳng còn cách nào hơn. “Em chán rồi phải không?”
Misaki lắc đầu. Mái tóc dài mượt mà đung đưa một cách quý phái, “Tại em năn nỉ nên anh mới kể chuyện mà. Em thấy vui lắm.” Rồi nàng ngước ánh mắt êm đềm như đong đầy nắng mùa xuân lên nhìn tôi. “Kể cho em nghe đoạn tiếp đi!”
Karin là một cô bé kỳ lạ.
Lần đầu tiên tôi gặp cô ấy là ba hôm sau ngày Yuji cho tôi và Trash tương ngộ. Hôm ấy, Yuji đến đón tôi trong lúc tôi đang bắt tôm càng xanh ở Đầm Quả Bầu.
Tôi nhìn thấy cậu ta trước. Mắt Yuji rất kém. Dù có đeo cặp kính Clark Costello[7] đó đi chăng nữa, thì ngay đến việc cậu có nhìn thấy đầu ngón chân của mình hay không cũng là điều đáng ngờ.
[7] Ghép từ Clark Kent và Elvis Costello, hai nhân vật được so sánh với Yuji ở phần trước.
Sau này tôi có hỏi Yuji về cặp kính. Nó là thế nào?
“Cái này hả?” Yuji trỏ vào cặp kính của mình.
“Phải”
“Đây là kính bố tớ tặng. Lúc tớ kể với bố là mắt bị kém, thì được bảo rằng thế thì dùng kính của bố đi vậy.”
Tôi nghĩ kính là vật dụng có tính cá nhân hơn bất cứ đồ vật nào khác, không dễ gì chia sẻ được. Là thứ tồn tại chỉ để dành ột người. Thế nên tôi thấy hơi rối rắm trước lời Yuji.
“Có cả chuyện đó nữa cơ à? Kiểu đồ vật được truyền từ đời này qua đời kia như cái đồng hồ quả quýt của ông nội đấy hả?”
“Đúng thế,” Yuji trả lời. “Cặp kính thuộc loại đó. Nó cũng là hàng đắt tiền đấy chứ. Có phải thứ đại trà mua đơn giản mấy cái cũng được đâu.”
Câu trả lời của Yuji hết sức rõ ràng, Nhưng ngược lại càng làm cho tôi thêm rối rắm, “Cơ mà, đeo kính phải đúng độ chứ?”
“Tớ nghĩ đó không phải vấn đề quá quan trọng. Nếu đeo kính vào rồi mình nhìn thấy mọi vật rõ hơn lúc chưa đeo thì như thế là ổn.”
Thật không?
Tôi thì thấy dù có đeo cặp kính gia truyền ấy, thị lực của Yuji vẫn không vượt qua nổi con Trash già nua. Thú thực, sự việc này cũng có liên quan đến một sở thích vô cùng quái dị của Yuji, nhưng để dịp khác tôi sẽ kể.
Chính vì lý do thị lực mà cậu ta không nhìn ra tôi đang ngồi ven bờ. Miệng cậu ta há hốc thành hình chữ O, trông như đang nói nhưng tôi không nghe ra được là nói gì. Đợt này tôi đang mắc chứng viêm tai giữa khá nặng nên gặp trục trặc về thính giác.
“Ở đây nè!” Nghe tiếng tôi, cuối cùng Yuji cũng nhận ra và hét tướng lên. “Tớ gọi cậu nãy giờ, Cậu trốn đi đâu đấy hả?”
Hóa ra chuyện là như thế.
Toàn thân con Trash lại dính một lớp rác mới. Đó là hoa hồng giả. Những cánh hoa màu hồng nhạt đang bám vào tai của nó, mà không biết tai ở chỗ nào nữa? Vừa nhìn xuống con Trash trang trí đầy hoa đang say sưa gặm đồ ăn, chúng tôi vừa nghiêng đầu tỏ vẻ khó hiểu.
“Lạ nhỉ! Làm thế nào mà lại bám thế này được cơ chứ?”
“Ừ, lạ thật.”
Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau, đang trầm tư suy nghĩ thì một giọng nói vang lên phía sau, “Là tớ làm đấy.”
Ngoảnh lại, tôi thấy một cô bé dáng người mảnh khảnh đang ngồi trên mặt tủ. Cô có mái tóc màu mật ong cắt ngắn, mặc một cái áo khoác quân đội ngoại cỡ tưởng chừng nuốt chửng toàn thân. Đặt trong yếu tố thời tiết thì đó là bộ trang phục khá kỳ dị.
“Karin à, cậu đến rồi hả? ” Yuji nói. Và tôi nhận ra cô bé này là học sinh lớp bên cạnh, đồng thời cũng là người khai sinh ra cái tên Trash.
“Tớ cài bằng ghim đấy. Trông dễ thương chứ?” Cô nói rồi nhếch mép cười. Khóe miệng lấp ló dụng cụ nẹp răng màu chì.
Có lẽ cô nàng cố tình cười để khoe ra cái năng nẹp. Tôi nghĩ bụng. Tức là giống kiểu các cô gái ưỡn ngực ra để khoe vòng cổ. Hay vén tóc lên cao để lộ cái khuyên lấp lánh trên vành tai.
Karin nhảy vọt khỏi mặt tủ và đi về phía chúng tôi. Nhìn gần thì các nét trên gương mặt cô cực đẹp. Đặc biệt là làn da trắng một cách ấn tượng. Đôi gò má ánh lên sáng mịn như tờ giấy Kent cao cấp.
Bốn mắt chạm nhau. Tôi có cảm giác cô ấy vừa khẽ chạm vào thứ gì đó ở bên trong tôi, một thứ vô cùng dễ chịu nằm ngay trên cụm dây thần kinh vùng bụng, bất giác tôi rùng mình.
Karin hướng ánh mắt sang chỗ khác rồi quỳ xuống, tay luồn xuống cằm con Trash. Con chó tỏ vẻ khoan khoái, phó mặc cho Karin thích làm gì thì làm. Sau đó nó từ từ ngửa mặt lên, kêu khẽ với cô, “Huýt?”
Vẫn là âm thanh đó. Nghe như thể con Trash đang hỏi tất cả những người nó gặp gỡ một điều gì đó.
“Huýt?”.
“Tiếng kêu này…” Karin đứng dậy, lấy tay phủi sạch gấu áo khoác. “Tớ nghĩ là ngày xưa nó đã bị phẫu thuật gì đó ở phần cổ họng lúc còn được người ta nuôi.”
“À, chắc hàng xóm than phiền nó sủa ầm ĩ quá nên người chủ đã tước đoạt tiếng kêu của nó ấy mà.”
Và rồi còn sót lại duy nhất chỉ là tiếng kêu như một câu hỏi này. Nghe giống tiếng gió khi thổi xuyên qua ống thủy tinh mỏng hẹp.
“Như thể nó đang hỏi gì ấy nhỉ?”
“Ừ, có lẽ thế.”
Con Trash đang hỏi gì thế không biết? Ngày qua ngày, mỗi lần gặp mọi người nó lại tiếp tục hỏi với vẻ đầy chịu đựng, “Huýt?”
Tôi lấy làm lạ. Không hiểu sao cô nàng ăn mặc kiểu kỳ quái, đã thế lại còn ăn nói như con trai nữa chứ. Nếu cứ để bình thường chắc chắn sẽ trở thành một cô gái đầy quyến rũ.
Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy Karin. Theo như câu chuyện Yuji kể lần trước, Karin không mấy khi đến trường, mà sử dụng thời gian một cách “có ý nghĩa” ở nơi chỉ có mình cô biết. Yuji nhận xét, “Karin là một kẻ lập dị.”
Trong đầu tôi hiện ra hình ảnh chú chim kiwi chỉ vào chú chim cánh cụt và bảo, “Tên này là loài chim không biết bay. Lập dị nhỉ!” Không tự ý thức về bản thân là như thế đó.
Karin lau tay phải vào ngực áo, rồi chìa tay cho tôi, “Rất vui được gặp cậu. Bạn của Yuji thì cũng là bạn của tớ.”
Tôi rụt rè đưa tay ra, nắm lấy tay Karin. Tay cô ấy nhỏ và lạnh. Dù có ăn mặc như một cậu con trai thì Karin vẫn là một cô bé mười ba tuổi. Một cảm xúc rất mơ hồ đã khiến tôi ý thức được điều đó.
“Rất vui được gặp cậu.” Tôi nói.
“Rất vui được gặp cậu…”
Và chúng tôi trở thành bạn bè.