Đọc truyện Nạp Thiếp Ký I – Chương 448: Phá án kiếm tiền
Bộ khoái răng thỏ đầu làm bằng sắt, ngớ nga ngớ ngẩn hỏi thêm một câu: “Cho dù là ngụy tạo, cũng không thể nói là do trướng phòng tiên sinh trộm chứ a.”
Bộ khoái mặt khỉ đúng là khóc cười đều không được: “Nếu như ngỏ vào là ngụy tạo, người ngoài không thể lẻn vào, trong khi đó bên trong thì bị làm loạn lên hết, tiền trong tủ không còn, không phải hắn vừa ăn cắp vừa la làng thì còn ai?” Tay y lại cất lên, định vỗ thêm một chưởng lên đầu “Răng thỏ”.
Răng thỏ lần này phản ứng khá nhanh, vội đưa hai tay lên bảo vệ đầu: “Lão đại, hạ thủ lưu tình! Đệ không hỏi nữa!”
Chưởng quỹ mập quan tâm đến tiền mất hơn, chạy tới đá cho thủ quỹ mập một cước, hỏi: “Ngươi… ngươi là tên súc sinh! Thì ra là ngươi trộm tiền của lão tử! Lão tử quả thật có mắt như mù rồi! Nói mau! Ngươi đem bạc của lão tử giấu ở đâu?”
Thủ quỹ mập vô lực đáp: “Đại ca tha mạng a! Tôi nói… tôi nói… xin huynh đừng đưa tôi lên nha môn a!”
Bộ khoái mặt khỉ cười lạnh nói: “Không đưa lên nha môn? Con mẹ ngươi, ngươi trộm nhiều bạc như vậy, còn muốn chạy tội được sao? Còn không biết thật thà khai ra giấu bạc ở đâu, như vậy thì tội sẽ nhẹ hơn một chút, nếu không lão tử sẽ cho ngươi biết tay!”
Thủ quỹ mập run giọng nói: “Các người… các người định đưa ta lên nha môn… đánh chết ta ta cũng không nói bạc giấu ở đâu!”
Chưởng quỹ mập tức giận, một tát tay nhu quạt bồ phóng qua, đánh mạnh lên cái mặt phị của thủ quỹ mập, một bên mặt tức thời sưng húp lên như mặt heo mập.
Thủ quỹ mập không nói không rằng, ngồi phệch xuống đất giở trò.
Bộ khoái mặt khỉ cười nói: “Ngươi đừng có nghĩ như vậy mà có thể thoát. Đưa hắn về nha môn, để đại lão gia dùng đại hình tra tấn, xem hắn có dám không nói hay không?”
Thủ quỹ mập phun ra một bãi nước bọt đầy máu: “Đánh thì đánh, dù gì bạc cũng không lấy về được, như vậy coi như mất trắng rồi!”
Chưởng quỹ mập quan tâm đến bạc của mình hơn, cầu khẩn với bộ khoái mặt khỉ: “Quan gia, hay là đừng đưa lên quan, chỉ cần lấy lại bạc là được rồi!”
“Khỉ ốm” nói: “Ngươi muốn chúng ta phóng túng cho tội phạm, sao có thể vậy được!”
Chưởng quỹ mập cười cầu tài: “Nếu như có thể lấy lại được bạc, ta… ta sẽ phân ra 1 lượng hiếu thuận cho hai vị đại gia, thế nào?”
Khỉ ốm nghe thấy có thần tài chuẩn bị gõ cửa, cười hề hề gật đầu.
Dương Đạp Sơn cười nói: “Không cần hắn nói, ta biết hắn giấu bạc ở chỗ nào!”
“Thật không?” Chưởng quỹ mập vui mừng hỏi.
“Ừ! Nhưng mà, nếu ta tìm ra được bạc, một lượng thưởng đó ta sẽ lấy phân nửa.”
Khỉ ốm ngẩn người, tức giận: “Như vậy không được! Vậy ta thà cho hắn khai ra cho xong.”
Dương Đạp Sơn cười: “Quan gia, ngài có nghĩ kỹ chưa? Hắn nói ra, hai ngài tuy có thêm 5 tiền, nhưng hai ngài dù sao phải chú ý đến danh dự chứ, như vậy là không thể bắt hắn đến nha môn rồi. Nếu như vậy thì công lao gì cũng không có. Bắt giặc trộm hơn mười lượng bạc là công lao không nhỏ a. Tri phủ lão gia thưởng chỉ sợ không phải 5 tiền thôi đâu? Huống chi lại có vinh dự bắt được đạo tặc nữa!”
Đầu óc Khỉ ốm xoay chuyển rất nhanh, sau khi so sánh thoáng qua, đích xác là như vậy, liền cười ha ha nói: “Vậy được, ngươi có thể tìm ra số bạc đó, một lượng bạc của chưởng quỹ thưởng chúng ta sẽ chia cho ngươi một nửa!”
Dương Đạp Sơn quay nhìn chưởng quỹ mập, xem ý tứ của ông ta thế nào.
Chưởng quỹ mập thực sự vô cùng thống hận vì đường đệ thủ quỹ ăn trộm của nhà làm mình tổn thất thảm trọng này, hi vọng có thể tống giao y cho nha môn. Vừa rồi ông ta sỡ dĩ chấp nhận không đưa lên nha môn, là vì để tìm lại được số bạc đã mất, hiện giờ Dương Đạp Sơn xưng là có thể giúp lấy lại được bạc, thì còn gì bằng nữa. Chuyện tặng 1 lượng bạc cho hai bộ khoái cũng là tặng, mà để họ chia thì cũng là bạc của ông ta mà thôi, không có gì khác nhau cả, chỉ cần là bạc của ông ta lấy về được là ổn rồi, cho nên ông ta gật đầu đồng ý ngay.
Dương Đạp Sơn chỉ vào đống gạch vụn ở góc tường xa xa, nói: “Nếu như ta đoán không sai, thì bạc được giấu ở dưới đống gạch đó!”
Trướng phòng tiên sinh nghe lời này, sắc mặt tái nhợt, nhìn Dương Đạp Sơn chằm chằm như thấy quỷ.
Chưởng quỹ mập reo lên một tiếng chạy ngay lại, tay chân cào cấu bươi đống gạch vụn ra, tiếp theo đó reo lên mừng rỡ, cầm lên một cái túi, mở ra xem, quả nhiên trong đó đựng bạc và tiền đồng.
Chưởng quỹ mập đếm đếm, hô lên cả kinh: “Không đúng! Bạc sao ít thế này, giỏi lắm chỉ có năm sáu lượng!” Cầm túi bạc trở về, ông ta đá mạnh vào thủ quỹ mập: “Mau nói, số bạc còn lại đâu rồi?”
“Tôi… tôi đánh bạc thua rồi….” Thủ quỹ mập run lẫy bẫy đáp.
Thì ra vị thủ quỹ mập này mê đánh bạc, thua bạc rồi không thể cân đối sổ sách, biết là chưởng quỹ mập nhận tiền không nhận người, sợ chưởng quỹ mập đem tống lên quan, nên định bày ra trò bị mất trộm, không những che giấu đi chuyện mình tham lạm bạc của trướng phòng, mà còn thuận tiện kiếm thêm một mớ.
Dương Đạp Sơn nói: “Được rồi, bạc đã tìm được trở lại, đạo tặc đã bắt được rồi, trả tiền thưởng cho chúng ta đi, chúng ta cần phải đi rồi.”
Chưởng quỹ mập nhăn nhó mặt nói: “Tiểu huynh đệ, bạc chỉ tìm lại được phân nửa, tiền thưởng… tiền thưởng có thể trả phân nửa được không?”
“Lời thừa! Một văn cũng không thể thiếu!” Dương Đạp Sơn cười lạnh nói, “Một nửa bạc đó là do đường đệ của ông đánh bạc thua, ông kiếm hắn mà đòi, liên quan gì đến chúng ta. Ta giúp ông rồi, không đòi một nửa số bạc của ông là làm phước làm đức lớn lắm rồi. Số tiền thưởng này ông đã hứa trước mặt hai vị quan gia này đấy!”
Bạc vốn chỉ tìm về được phân nửa, còn phải đem tống tặng đi không ít, sự đau xót khó chịu còn hơn là xát muối vào lòng, chưởng quỹ mập ôm chặt túi bạc, môi run run.
Dương Đạp Sơn cười lạnh nói: “Vừa rồi ngươi oan uổng chúng ta, hai cho chúng ta suýt chút nữa vào vào đại lao, chuyện này ta chưa tính sổ với ngươi, hiện giờ ngươi còn cà rà cập rập như vậy, ngươi tự đưa ra tiền thưởng hay chờ chúng ta tự động thủ?”
Chưởng quỹ mập rùn mình, y biết bản lãnh của Dương Đạp Sơn, không dám không đưa, chỉ còn biết mở túi bạc, lấy hai quan mấy trăm văn tiền đó đưa hết cho Dương Đạp Sơn, tay run cầm cập.
Dương Đạp Sơn tiếp lấy, xoay tay đưa cho nha hoàn Hạnh nhi ở phía sau. Hạnh nhi thấy có nhiều tiền một lúc như vậy, hưng phấn đến nỗi hai mắt long lanh, mặt mày rạng ngời, cẩn thận thu lấy.
Bộ khoái mặt khỉ cũng âm trầm nét mặt, hỏi: “Tiền phí cực khổ của huynh đệ chúng ta đâu?”
Hai bộ khoái này không thể chọc vào, nên chưởng quỹ mập tiếp tục tay run run đếm lấy mấy miếng bạc vụn, đại khoái một lượng đưa cho khỉ ốm.
Bộ khoái khỉ ốm tiếp lấy đếm đếm, cũng chú ý giữ chữ tín, phân một nửa đưa cho Dương Đạp Sơn, cười ha ha bảo: “Dương huynh đệ, kỹ năng phá án của ngươi thật lợi hại a. Bội phục bội phục! Ngươi không vào lục phiến môn (*) của chúng ta thật là uổng quá a.”
Bộ khoái răng thỏ cũng đầy vẻ sùng bái nói: “Đúng a, huynh đệ, sao ngươi biết bạc được giấu dưới đống gạch vậy?”
Vấn đề này mọi người đều hiếu kỳ, nên cùng đưa mắt nhìn Dương Đạp Sơn.
Dương Đạp Sơn cười nói: “Bất kỳ phạm tội gì đều để lại dấu vết, chỉ xem coi ngươi có phát hiện được hay không thôi.” Nói xong câu này, Dương Đạp Sơn nhíu mày cố nghĩ coi rốt cuộc câu này là ai nói, nhưng chẳng thế nào nghĩ ra, đành lắc đầu nói tiếp: “Vừa rồi ta khám sát chung quanh hiện trường đã phát hiện là đống gạch đó có vấn đề rồi.”
“Vấn đề gì a?” Bộ khoái răng thỏ hiếu kỳ hỏi.
“Đống gạch vụn đó đã mọc đầy rêu, cho thấy nó nằm ở đó một thời gian không ngắn ngủi gì, nhưng mà, mấy khối gạch ở dưới có một bộ phận rêu bị ép xuống dưới, chứ không phải mọc từ bên hông. Điều này cho thấy mấy khối gạch đó vừa mới bị di động qua, sau đó cẩn thận án chiếu theo vị trí cũ để lại. Chỉ có điều, người đó vẫn không cẩn thận, khiến cho vài cọng cỏ rêu bị ép xuống dưới. Trong khi đó trướng phòng tiên sinh muốn giấu bạc, thường giấu ở những chỗ mà y có thể không chế. Đống gạch này ở phía sau trướng phòng mà y ở, rất dễ cho y giấu bạc, do đó ta đoán, bạc xem ra được giấu ở dưới đống gạch đó.”
Bộ khoái răng thỏ đã sùng bái đến mức phải làm lễ lạy luôn rồi, cất tiếng lấy lòng: “Huynh đệ, ngươi thật là lợi hại! Nếu có thể tiến vào lục phiến môn chúng ta, không biết có bao nhiêu án có thể được phá dễ dàng như vầy a! Chỉ đơn giản có tiền thưởng không cũng đủ ngươi tiêu xài không hết!”
Dương Đạp Sơn động tâm: “Tiến vào lục phiến môn của các người cần có điều kiện gì?”
Bộ khoái răng thỏ định nói, thì bộ khoái khỉ ôm vỗ vai y, ho khan một tiếng, bộ khoái răng thỏ liền dừng lời.
Bộ khoái khỉ ốm cười ha ha nói: “Lục phiến môn không phải là ai muốn vào cũng tùy tiện vào được, đương nhiên không phải là không có biện pháp, và biện pháp thì dù gì cũng là do người nghĩ ra mà thôi….”
Dương Đạp Sơn đương nhiên biết ý tứ của hắn là muốn mình móc tiền đút lót ra, lòng nghĩ bộ khoái này thuộc về loại tiện dân (người bậc dưới của xã hội xưa), không đến lúc bất đắc dĩ thì không theo con đường này, liền cười nhạt đáp: “Tại hạ còn có chuyện, vậy xin cáo từ vậy!” Nói xong chuyển thân đi ra ngoài, Hạnh nhi vội vã theo sau.
Khỉ ốm nói với theo: “Dương huynh đệ, nếu như ngày nào muốn vào lục phiến môn, thì đến tri phủ nha môn tìm ta, ta sẽ nghĩ biện pháp cho huynh đệ!”
Dương Đạp Sơn quay người lại ôm quyền xá xá, rồi mạng Hạnh nhi nhanh bước rời khỏi quán cơm Vị Hương.
Hai người trước hết đến tiệm thuốc “Tế thế đường” để cho Hạnh nhi uống chén thuốc cuối cùng, sau đó hai người trở về phòng trọ. Hạnh nhi mặt đầy hưng phấn móc túi tiền ra xếp gọn trên giường, sau đó nhớ tới phải lấy nước cho Dương đạp Sơn tắm rửa, bấy giờ mới phát hiện trong phòng ngoài trừ một cái giường và hai cái ghế, cái gì cũng không có, ngay cả ly uống nước cũng không.
Dương Đạp Sơn cười ha ha gọi cô bé lại ngồi xuống giường, hỏi: “Chúng ta hiện giờ có bao nhiêu tiền?”
Hạnh nhị đáp: “Hai quan ba điếu bảy mươi hai văn, còn có năm tiền bằng bạc vụn! Như vậy tổng cộng có 2872 văn.”
Dương Đạp Sơn gật gật đầu, sờ sờ túi tiền của mình, nói: “Ở chỗ ta còn bảy chục văn, vậy chúng ta tổng cộng có 2942 văn. Hà hà, tiền không ít đó nga.”
“Dạ đúng, thiếu gia.” Hạnh nhi rất hưng phấn.
“Phòng này quá nhỏ, chẳng thể xếp được hai giường, hai chúng ta dù gì cũng không thể ngủ chung giường được a. Chúng ta đổi một gian phòng lớn hơn đi, còn phải nhóm bếp nấu cơm nữa, em thấy thế nào?”
Câu Dương Đạp Sơn nói hai người ngủ chung giường khiến Hạnh nhi đỏ bừng cả mặt, cúi đầu đáp: “Hạnh nhi nghe theo thiếu gia.”
Dương Đạp Sơn và Hạnh nhi ra tìm bà chủ nhà thương lượng đổi phòng. Tuy đã có hơn hai nghìn văn tiền, nhưng dù gì thì hai người cũng chưa có thu nhập ổn định, không dám vung tay xài tiền, cho nên sau khi cò kè bớt một thêm hai, đã bỏ thêm 30 văn thuê một phòng lớn hơn, có thể đặt hai giường, một bàn nhỏ, một bếp lò để nấu nướng. Điều này rất trọng yếu, bỡi vì nếu cứ ra đường vào quán ăn, thì số tiền của họ chẳng mấy chốc sẽ hết sạch.
Chú thích:
(*) Lục Phiến Môn: Có nhiều cách lý giải khác nhau về Lục phiến môn. Ở đây người dịch xin trình bày 3 cách giải thích phổ biến nhất:
– Theo lịch sử
– Theo dân gian
– Theo tiểu thuyết (đặc biệt là tiểu thuyết võ hiệp)
I. Lục phiến môn chỉ nha môn. Nha môn thời cổ đại để biểu hiện sự uy nghiêm, khí phái, thường mở sáu cánh cửa, sau này người ta dùng “sáu cánh cửa” biểu trưng cho quan phủ, nha môn. Lục phiến môn bị dùng thế cho nha môn có nguyên nhân như sau:
Nha môn lấy môn làm tên gọi, là vì trong quần thể kiến trúc này, các cửa khác nhau đều có ý nghĩa trọng yếu khác nhau. Có người cho đó là xuất phát từ “lục phòng” đại diện cho các bộ khác nhau. Tuy nhiên, xuất phát điểm đúng hơn của nó là do kết cấu quy định đặc trưng: (1) Đại môn, (2) Nghi môn, (3) Cước môn, (4) Giác môn, (5) Trạch môn, (6) Vọng khổng.
1 – Đại môn: Tường ngoài của nha môn chỉ có mộ cửa vào duy nhất, thường theo trục tuyến chính nam làm Đại môn (cửa lớn). Đại môn này gọi là “Đầu môn”, không phải là cửa đơn giản, mà là một khối kiến trúc có phòng ốc. Loại cửa lớn có phòng này là một trong những đặc điểm kiến trúc cổ đại của Trung Quốc. Cách xây dựng của nó hạn chế nghiêm cách theo pháp luận, vô luận lớn nhỏ hay ở châu huyện gì cũng phải có tam khai gian (chính diện của khối kiến trúc này một gian, hai bên cột trụ to có hai gian). Mỗi gian an bài hai cánh cửa sơn đen, tổng cộng có sáu cánh cửa. Do đó châu huyện nha môn đều bị tục xưng là “Lục phiến môn”.
2 – Vượt qua tường ngoài thì vào cửa kế là “Nghi môn”, là đại đường xử lý chính vụ (Vốn là Di môn, là cửa ngách trong cung đình của hoàng đế, thời Minh quan phủ để biểu hiện phủ của mình kém hơn cung đình, đã sử dụng danh xưng cửa ngách này để đặt tên cho cửa chính vào khu vực xử lý chính vụ; Sau đó đổi thành cửa Nghi, vì người tiến vào cửa này phải có nghi biểu đường đường. Cửa Nghi cũng mở ba gian, sau cánh cửa thường đóng, chỉ có quan trên hoặc trưởng bối đến mới mở ra, quan huyện nghênh đón ở cửa này).
3&4 – Do cửa Nghi thường đóng, muốn vào đại đường phải đi theo hai cửa hông, gọi là “Cước môn” và “Giác môn”. Nha môn châu huyện lấy theo trục tuyến bắc nam, phía bắc làm nơi cư ngụ, và cư ngụ miễn phí vừa là quyền lợi vừa là trách nhiệm của họ. Nơi cư ngụ của họ là một khu nhà vườn bề thế gọi là “Nội nha” (hoặc Chánh nha, Tư nha, Trung nha, Hậu trạch, Hậu nha, Tư trach…).
5- Cửa ra nội nha nằm ở đầu cuối nối với nha môn gọi là “Trạch môn”, là cửa được bảo vệ cẩn thận, phong bế, nha dịch và thư lại trong nha môn chỉ có quyền đến đây, trong nội trạch là người do quan tự mang theo để phục dịch….
6 – Trạch môn mở theo kiểu cửa nhà lớn, cũng mở theo lối “tam khai gian”. Trong này sẽ dựng các nhà các cửa dành cho các trưởng tùy thân tín làm việc. Ở phía đông của Trạch môn có mở một cửa vòm (Vọng khổng), cửa này được thiết đặt một bộ phận chuyển động bằng gỗ, khi có khách đến hay công văn, người gác cửa lớn hoặc là nha dịch sẽ đánh kẻng ở ngoài, bỏ danh thiếp hoặc công văn vào hộc này để người phía trong nhìn kỹ rồi chuyển vào trong trình cấp cho các quan viên (cửa thứ 6).
Trong nội bộ nha môn mở mấy cửa đều không sao, nhưng ngoài đại môn thì ở tường ngoài không được phép mở một cửa nào. Đây là luật, gọi là “Lánh khai tiện môn” (mở thêm cửa phụ), bị bộ Lại đưa vào hành vi phạm pháp (đặc biệt là thời Thanh)
II – Trong truyền thuyết dân gian có “Lục phiến môn”, đó là một nhánh phụ không chỉ bao gồm bộ khoái. “Lục phiến môn” này thường tiếp nhận nhưng công việc liên quan đến đấu tranh bang phái trong giang hồ và bắt bớ những trọng phạm mà quan phủ truy nã, đồng thời họ còn có giao tình với các bang phái giang hồ, có quyền lực khá lớn trong giang hồ do xuất phát từ quan hệ rất lớn và sự hỗ trợ của giai cấp thống trị.
Trong những năm Trinh quán thời Đường (Niên hiệu của vua Đường Thái tông Lý Thế Dân), triều đình cấu thành lục bộ. Và để triệt để giải quyết những thế lực tàn dư của các cuộc khởi nghĩa nông dân và lục lâm cường hào thời Tùy mạt, Hình bộ đã tạo lập “Lục phiến môn” để huấn luyện những thiếu niên xuất sắc một cách bí mật, đặt tên là “Ưng khuyển”.
Đến thời Vạn Lịch Minh triều, để xử lý những án kiện có liên quan đến quốc gia đại sự, triều đình đã thạnh lập một tổ chức bí mật tập trung các cao thủ giang hồ, mật thám, bộ khoái và sát thủ. Để đảm bảo tính bí mật của tổ chức này, và nhân vì tổng bộ đại điện của nó là một tòa kiến trúc theo hướng chính nam, cộng thêm mở ra hai hướng đông nam và tây nam mỗi hướng hai cánh cửa, tổng cộng sáu phiến, cho nên gọi là “Lục Phiến môn”, thành viên của tổ chức này khi hành động để đảm bảo cơ mật đã gọi tổng bộ là “Lục phiến môn”.
Nhân vì tổ chức này hành động quỷ dị, thủ đoạn hung ác, chuyện gây ra những đại án, cho nên trong dân giang truyền tụng “Lục phiến môn” uy nghiêm khủng bố vô cùng. Thời gian lâu dần, tiếng tăm của Lục phiến môn trên giang hồ không ai không biết. Tổ chức “Lục phiến môn” này trong quá trình xét xử Ngụy Trung Hiền (魏忠賢 (1568-16 tháng 10, 1627) là một trong những đại hoạn quan nổi tiếng nhất và nhiều quyền lực nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người cầm đầu “đảng hoạn quan” dưới thời Minh Hy Tông trong việc lũng đoạn triều chính, thâu tóm mọi quyền lực trong tay, đồng thời tiêu diệt tất cả những người không cùng phe cánh với mình một cách không khoan nhượng. Vương triều Minh dưới thời Hy Tông suy tàn một cách trầm trọng một phần lớn là do Ngụy Trung Hiền.) có công lao rất lớn, nhưng sau khi triều Minh diệt vong cũng tiêu biến theo.
Theo nguyên tắc, Lục phiến môn là đại diện cho triều đình, chịu ước thúc của chế độ triều đình, nhưng họ lại trực tiếp giao thiệp với giang hồ nhân sĩ hắc bạch đạo, do đó phải hiểu rõ quy củ giang hồ. Cho nên, người của Lục Phiến Môn tiến thì vào nha môn, lui thì trở thành người giang hồ. Bọn họ gặp rất nhiều chuyện kỳ quái, do đó phải xử lý linh hoạt.
III- Trong truyện võ hiệp, Lục Phiến môn thường được chỉ tới giới bộ khoái, bộ đầu. Ôn Thụy An trong Tứ Đại Danh Bộ đã hứ cấu một tổ chức thuộc về quan phủ – Lục Phiến môn, chuyên điều tra phá án. Trong tiểu thuyết thời Minh Thành, lục phiến môn là dùng để chỉ nha môn, có lẽ Ôn gia đã hư cấu từ đây.
Liên quan đến “môn”, ở Bắc kinh có sự phân biệt giàu nghào hẳn hỏi khi đi mua nhà hoặc thuê phòng khách sạn: 4 cửa (tứ phiến môn) để chỉ nhà cao cấp biệt thự dành cho nhà giàu, hoặc phòng khách sạn hạng sang, vì nhà giàu thường ở nhà tứ hợp viện (giá 2 tỷ NDT 1 phòng 400m2). 2 cửa (Lưỡng phiến môn): tôi ở khu nhà trung bình (50 m2 giác 500 vạn NDT), lấy phòng bình dân. Một cánh cửa (Nhất phiến môn): ở nhà chung cư (4 khu Đông thành, Tây thành, Sùng Văn, Tuyên Vũ ở Bắc Kinh, 200 vạn NDT mua được nhà chung cư 100m2).