Đọc truyện Mật Mã Da Vinci – Chương 59
Hơn ba nghìn người được chôn cất hoặc lập miếu thờ trong Tu viện Westminster. Phần bên trong bằng đá rộng mênh mông đầy những di hài của các hoàng đế, chính khách, các nhà khoa học, nhà thơ và nhạc sĩ. Những ngôi mộ của họ, lèn vào từng hốc từng khoang còn lại, đủ các tầm cỡ từ những lăng tẩm vương giả nhất – Lăng của Nữ hoàng Elizabeth với chiếc quan tài đá có trướng rủ ngự trong miếu thờ riêng hình cung có mái vòm – đến những phiến đá lát khiêm nhường nhất mà những chữ khắc trên đó đã bị dấu chân làm mờ hẳn đi qua nhiều thế kỉ, để khách tham quan phải ráng tưởng tượng ra di hài của ai nằm dưới những viên đá lát trong nhà mồ này.
Thiết kế theo kiểu các nhà thờ lớn của vùng Amiens, Chartres, và Canterbury, Tu viện Westminster không được coi là nhà thờ lớn, cũng chẳng phải nhà thờ xứ. Nó được xếp vào loại Hoàng gia đặc biệt, chỉ trực thuộc Nữ hoàng. Từ khi lễ phong vương của William Người Chinh Phục được tổ chức tại đây vào dịp Giáng sinh năm 1066, thánh đường rực rỡ này đã chứng kiến một loạt bất tận các nghi lễ hoàng gia và các sự kiện quốc gia – từ việc phong thánh cho Edward Cha Rửa Tội, đến hôn lễ của Hoàng tử Andrew và nàng Sarah Ferguson, tới những đám tang của vua Henry V, Nữ hoàng Elizabeth I và Diana, Công chúa xứ Wales.
Mặc dù vậy, lúc này Robert Langdon cảm thấy không quan tâm gì tới lịch sử cổ xưa nào của tu viện – ngoại trừ một sự kiện – đám tang của hiệp sĩ người Anh Ngài Isaac Newton.
Ở London yên nghỉ một hiệp sĩ được A. Pope mai táng.
Hối hả đi qua cổng lớn cánh phía bắc của tu viện, Langdon và Sophie được những người gác lịch sự dẫn qua thiết bị mới nhất của tu viện – một máy dò kim loại rất lớn người đi qua được loại máy hiện có mặt trong hầu hết các toà nhà lịch sử ở London. Cả hai người đi qua máy mà không gây ra một tiếng báo động nào và tiếp tục đi tới lối vào tu viện.
Bước qua ngưỡng cửa Tu viện Westminster, Langdon cảm thấy thế giới bên ngoài tan biến trong một im lặng đột ngột. Không còn tiếng ầm ầm của xe cộ. Không còn tiếng rào rào của mưa. Chỉ một im lặng inh tai, tựa hồ dộl qua dội lạl, như thể toà nhà đang thì thầm với chính mình.
Giống như các khách tham quan khác, Langdon và Sophie lập tức ngước mắt nhìn lên trời: ở đó cái vực thẩm tu viện dường như bùng nổ trên đầu. Những cột đá xám vút lên như những cây căm xe, lẫn vào bóng tối, uyển chuyển vồng qua những khoảng không rộng lớn đến chóng mặt, rồi lại đâm thắng xuống nền đá. Phía trước chúng, cánh phía Bắc như một con hẻm rộng trải ra tựa một hẽm núi sâu thầm với những vách đá thẳng đứng hai bên là những tấm kính màu. Trong những ngày trời nắng, nền nhà tu viện giống như một tấm khăn kết nối những mảng ánh sáng đủ các màu sắc cầu vồng. Hôm nay, mưa và bóng tối trùm lên khoảng trũng lớn này một quầng sáng ma quái… ma quái hơn cả cái hầm mộ mà nó thật sự là thế.
“Gần như trống rỗng”, Sophie thì thầm.
Langdon cảm thấy thất vọng. Ông đã hy vọng là sẽ có đông người hơn nhiều. Một nơi công cộng hơn. Trải nghiệm trước đó trong Nhà Thờ Temple hoang vắng không phải là điều mà Langdon muốn lặp lại. Ông đã dự tiên một cảm giác an toàn ở điểm du lịch nổi tiếng này, nhưng những hồi ức của Langdon về đám đông nhộn nhịp trong một tu viện sáng trưng đã được hình thành trong mùa du lịch cao điểm. Hôm nay là một buổi sáng tháng tư có mưa. Thay vì những đám đông và ánh lung linh của kính màu, Langdon chỉ thấy hàng mẫu sàn đá hoang vu cùng những hốc tối trống rỗng.
“Chúng ta đã qua những cái máy dò kim loại”, Sophie nhắc, rõ ràng cảm nhận thấy nỗi lo âu của Langdon. “Nếu có ai đó ở trong này thì cũng không thể có vũ khí”.
Langdon gật đầu nhưng vẫn cảm thấy phải thận trọng. Ông đã muốn có cảnh sát London đi cùng, nhưng Sophie sợ có người can dự vào nên tránh mọi tiếp xúc với nhà chức trách. Chúng ta cần lấy lại hộp mật mã, Sophie đã nhấn mạnh, đó là chìa khoá cho tất cả mọi thứ.
Tâ nhiên cô ấy đúng.
Chìa khoá để cứu sống Leigh Cha khoá để tìm ra Chén Thánh.
Chìa khoá để khám phá ra ai đứng đằng sau vụ này.
Khốn thay, cơ may duy nhất của họ để lấy lại viên đá đỉnh vòm dường như chỉ là ở đây và ngay bây giờ… tại ngôi mộ của Isaac Newton.
Bất cứ ai giữ hộp mật mã sẽ phải tới ngôi mộ để giải mã đầu mối cuối cùng, và nếu như họ vẫn chưa đến và đi khỏi thì Sophie và Langdon chủ định sẽ ngăn chặn họ.
Sải bước về phía bức tường bên trái để ra khỏi quãng trống, họ đi vào một lối đi bên cạnh mờ tối sau một hàng cột vuông xây nửa chìm nửa nổi vào tường. Langdon không sao xua nổi hình ảnh Leigh Teabing có lẽ đang bị trói chặt ở khoang sau chiếc limousie của chính mình. Dù kẻ ra lệnh giết những người đứng đầu Tu viện Sion là ai, thì họ cũng sẽ không ngần ngại loại trừ những người khác chắn đường họ. Việc Teabing – một hiệp sĩ người Anh thời hiện đại – bị bắt làm con tin trong việc tìm kiếm người đồng hương của ông, Ngài Isaac Newton, có vẻ như một điều mỉa mai tàn nhẫn.
“Đi lối nào đây?”. Sophie nhìn quanh và hỏi.
Ngôi mộ. Langdon không biết: “Chúng ta nên tìm một người canh mộ để hỏi xem”.
Langdon biết là không nên đi lang thang vô mục đích ở nơi này. Tu viện Westminster là một khu bàn cờ nhằng nhịt những lăng mộ, những phòng vành ngoài và những hốc đặt mộ đủ lớn để bước vào được. Giống như Hành Lang Lớn của Louvre, nó chỉ có một lối vào – cái cửa họ vừa đi qua – vào dễ, khó ra. Một cái bẫy xập theo nghĩa đen đối với du khách, một trong những đồng nghiệp của Langdon, có lần lạc lối, đã gọi nó như vậy. Giữ nguyên kiến trúc truyền thống, tu viện được quy hoạch theo hình một cây thánh giá khổng lồ. Tuy nhiên, khác với hầu hết Các nhà thờ, nó có cửa vào ở bên sườn chứ không theo quy chuẩn mở lối vào ở phần sau nhà thờ qua lối đi rào kín ở cuối gian giữa giáo đường. Ngoài ra, tu viện còn có một loạt hàng hiên trải dài. Chỉ lỡ bước qua nhầm cổng tò vò là khách tham quan sẽ lạc vào một mê cung những đường hẻm bên ngoàỉ với tường cao vây quanh.
“Các hướng dẫn viên thường mặc áo dài đỏ”, Langdon nói và tiến lại gần trung tâm nhà thờ. Nhìn xéo qua ban thờ mạ vàng cao ngất, đến đầu đằng kia cánh phía nam, Langdon thấy mấy người đang bò lổm ngổm. Cái kiểu hành hương trong tư thế phủ phục này thường xảy ra trong Góc Thi nhân, mặc dù nó kém linh thiêng hơn nhiều so với vẻ bề ngoài. Du khách chà xát mộ.
“Tôi không nhìn thấy người hướng dẫn nào”, Sophie nói, có lẽ chúng ta phải tự tìm lấy ngôi mộ”.
Không nói lời nào, Landor dẫn cô thêm vài bước tới trung tâm tu viện và chỉ về phía bên phải.
Sophie hít một hơi dài sửng sốt khi nhìn suốt chiều dài của gian giữa giáo đường toàn bộ sự hoành tráng của toà nhà bây giờ đã lộ rõ. “A”, cô thốt lên, “ta hãy đi tìm một hướng dẫn viên thôi”.
***
Cùng lúc, cách đó khoảng một trăm mét xuôi gian giữa, khuất sau màn chắn của đội thánh ca, ngôi mộ uy nghi của Ngài Isaac Newton có một du khách lẻ loi. Thầy Giáo đã xem xét kĩ đài tưởng niệm này được mười phút.
Mộ Newton bao gồm một quan tài đồ sộ bằng đá cẩm thạch đen mặt trên có hình chạm khắc của Ngài Isaac Newton trong trang phục cổ điển, hãnh diện dựa vào chồng sách do chính mình viết ra – Tính thần thánh, Bên niên ký, Quang học, và Triết luận về những nguyên lý tự nhiên của toán học. Dưới chân Isaac Newton có hai thiên thần có cánh đang cầm một cuốn thư.
Đằng sau thân hình nằm nghiêng của Isaac Newton nhô lên một kim tự tháp nghiêm cẩn. Tuy kim tự tháp đã có vẻ kì dị, nhưng chính cái hình khối to đùng từ kim tự tháp đâm lên nửa chừng mới là điều gợi trí tò mò của Thầy Giáo.
Một hình cầu.
Thầy Giáo đã ngẫm nghĩ về câu đố hấp dẫn của Saunière.
Người kiên tìm trái cầu lẽ ta phải ở trêl nộ chàng. Hình cầu lớn nhô ra từ bề mặt của kim tự tháp được khắc theo kiểu chạm nổi và mô tả tất cả các thiên thể – những chòm sao, những cung Hoàng Đạo, sao chổi, những vì sao và hành tinh. Bên trên là hình ảnh Nữ thần Thiên văn dưới một trời sao.
Vô số là những hình cầu.
Trước đó, Thầy Giáo đã tin chắc rằng một khi tìm thấy ngôi mộ, sẽ dễ dàng nhận ra hình cầu nào thiếu vắng. Bây giờ thì ông ta không chắc chắn lắm. Ông ta nhìn chằm chằm vào tấm bản đồ vũ trụ phức tạp. Có thiếu hành tinh nào không nhỉ? Phải chăng một chòm sao nào đó đã bị khuyết mất một tinh cầu? Ông ta chịu không biết. Cho dù thế, Thầy Giáo vẫn không khỏi ngờ rằng đáp án sẽ gọn ghẽ và đơn giản một cách tài tình – “một hiệp sĩ được một giáo hoàng mai táng”. Mình đang tìm kiếm hình cầu nào đây? Chắc chắn một tri thức tiên tiến về vật lý thiên văn chưa phải là điều tiên quyết để tìm ra Chén Thánh.
Nó nói về da thịt Hồng và tử cung mang hạt giống.
Sự tập trung của Thầy Giáo bị ngắt quãng bởi một số du khách đang lại gần. Ông ta đút hộp mật mã vào túi quần và nhìn với con mắt cảnh giác khi các du khách đến một cái bàn gần đó, đặt tiền quyên góp vào trong chiếc cốc và lấy thêm đồ chà mộ do tu viện bày ra biếu không. Được trang bị những chiếc bút chì than mới và những tờ giấy dày khổ lớn, họ đi về phía trước của tu viện, có lẽ tới Góc Thi nhân nổi tiếng để tỏ lòng kính trọng đối với Chaucer, Tenryson và Dickens bằng việc cọ thật lực lên mộ của các nhà thứ đó.
Còn lại một mình, Thầy Giáo lại gần ngôi mộ hơn, rà lại nó từ chân đến đầu. Ông ta bắt đầu từ hình đôi chân có móng vuốt bên dưới chiếc quan tài đá, tiến lên phía trên qua hình khắc nổi Newton, qua những cuốn sách của ông viết về khoa học, qua hai tiểu thiên thần với cuốn thư về toán học, lên đến bề mặt của kim tự tháp, đến hình cầu khổng lồ với những chòm sao và cuối cùng lên đến chiếc tán đầy sao của hốc mộ.
Hình cầu nào đó lẽ ra phải ở đây… mà lại thiếu vắng?
Ông ta chạm vào hộp mật mã trong túi quần cứ như thể bằng cách đó, ông ta có thể đoán ra câu trả lời từ hình trụ cẩm thạch gia công của Saunière. Chỉ còn năm chữ cái ngăn cách mình với Chén Thánh.
Bước tới gần góc bình phong của đội hát thánh ca, ông ta hít một hơi thở sâu và đưa mắt nhìn suốt gian chính diện dài về phía ban thờ chính đằng xa. Tia nhìn của ông ta lướt từ ban thờ mạ vàng xuống cái áo dài đỏ rực của một hướng dẫn viên được hai người nom rất quen đang vẫy lại.
Langdon và Neveu.
Bình tĩnh, Thầy Giáo lùi lại hai bước sau tấm bình phong của đội đồng ca. Nhanh đấy. Ông ta đã đoán trước được Langdon và Sophie cuối cùng sẽ giải mã được ý nghĩa bài thơ và tới ngôi mộ của Newton, nhưng điều này xảy ra sớm hơn ông ta tưởng. Hít một hơi thật sâu! Thầy Giáo cân nhắc những lựa chọn của mình. Ông ta đã quen đối phó với những bất ngờ.
Mình đang giữ hộp mật mã.
Ông ta thọc tay vào túi quần, chạm vào vật thứ hai đem đến cho ông ta sự tự tin: Khẩu súng lục Medusa. Như đã đoán trước, chiếc máy dò kim loại của tu viện reng lên khi Thầy Giáo đi qua với khẩu súng được giấu kín. Và cũng như đã đoán trước, mấy tay bảo vệ đã lập tức thôi không hỏi gì thêm khi Thầy Giáo quắc mắt phẫn nộ và chìa chứng chỉ đặc biệt của ông ta ra. Chức tước cao bao giờ cũng phải được tôn trọng đúng mực.
Mặc dù thoạt đầu, Thầy Giáo đã hy vọng sẽ giải quyết hộp mật mã một mình và tránh được những phiền phức bên lề, nhưng bây giờ ông ta cảm thấy sự xuất hiện của Langdon và Neveu lại là một diễn biến đáng đón chào. Xét vì ông ta bất lực không giải nổi ẩn ý trong câu thơ về “hỉnh cầu”. Ông ta có thể lợi dụng kiến thức chuyên môn của họ. Xét cho cùng, nếu Langdon đã giải mã được bài thơ để tìm ra ngôi mộ thì hắn cũng có thể biết điều gì đó về hình cầu. Và nếu Langdon biết mật khẩu thì vấn đề sẽ chỉ còn là gây áp lực thích đáng.
Tất nhiên là không phải ở dây mà ở một nơi riêng tư nào đó.
Thầy Giáo nhớ lại một bảng thông báo nhỏ mà ông ta đã nhìn thấy trên lối đi vào tu viện. Ngay lập tức, ông ta đã biết địa điểm hoàn hảo để nhử họ đến.
Bây giờ câu hỏi duy nhất là… lấy cái gì làm mồi đây!
Langdon và Sophie chậm rãi theo lối đi bên cạnh phía Bắc, cố giữ không ra khỏi bóng tối sau hàng cột lớn bằng cẩm thạch ngăn cách lối đi này với gian chính diện trống trải. Mặc dù đã đi được hơn nửa gian giữa nhưng họ vẫn chưa nhìn thấy thật rõ phần mộ của Newton. Chiếc quan tài đá được đặt thụt vào trong một hốc tường và khuất tầm nhìn từ góc nghiêng này.
“Chí ít cũng không có ai ở đó”, Sophie thì thầm.
Langdon gật đầu, nhẹ nhõm. Không có ai trong toàn bộ gian chính điện gần phần mộ của Newton. “Tôi sẽ tới đó”, ông thì thầm, “cô nên tiếp tục nấp kín đề phòng trường hợp có ai đó đang theo dõi”.
Sophie đã bước ra khỏi bóng tối và đi ngang qua mặt sàn trống.
Langdon thở dài, vội vàng đi theo cô.
Đi xéo qua gian chính điện lớn, Langdon và Sophie vẫn im lặng trong khi phần mộ tinh xảo lộ ra mỗi lúc một thêm trêu ngươi… một chiếc quan tài cẩm thạch đen… một bức tượng nằm của Newton… hai thiên thần có cánh… một kim tự tháp to đùng… và… một hình cầu lớn.
“Anh đã biết về điều này chưa?”. Sophie nói, giọng ngỡ ngàng.
Langdon cũng ngạc nhiên lắc đầu.
“Những thứ này trông giống như những chòm sao được chạm trồ trên đó”, Sophie nói.
Khi họ lại gần hốc mộ, Langdon có cảm giác như đang chìm dần. Bao phủ ngôi mộ của Newton toàn là những hình cầu – những vì sao, những ngôi sao chổi, những hành tinh.
Ngươi kiếm tìm trái cầu lẽ ra phải ở trên mộ chàng? Khác nào bắt tìm một lá cỏ bị mất trên cả một sân gôn.
“Những thiên thể thiên văn học”, Sophie nói, vẻ băn khoăn, “sao mà lắm thế”.
Langdon cau mày. Mối liên hệ duy nhất giữa các hành tinh và Chén Thánh mà Langdon có thể tưởng tượng được là hình năm cánh của Sao Kim, và trên đường tới Nhà thờ Temple, ông đã thử mật khẩu “Sao Kim” rồi.
Sophie tới thắng chiếc quan tài đá nhưng Langdon lùi lại mấy bước trong khi vẫn để mắt quan sát tu viện xung quanh.
“Tính thần thánh”, Sophie nói, nghiêng đầu đọc đầu đề những quyển sách mà Newton dựa vào, “Biên niên ký, Quang học, và Triết luận về những nguyên lý tự nhiên của toán học?”. Cô quay lại phía Langdon: “Anh có nhận ra gợi ý nào không?”.
Langdon bước lại gần hơn và xem xét: “Những nguyên lý toán học, như tôi nhớ thì có cái gì đó liên quan đến lực hấp dẫn của các hành tinh… những hành tinh này được thừa nhận là những hình cầu nhưng dường như có một chút gượng ép”.
“Còn những cung Hoàng đạo này thì sao?”, Sophie nói, chỉ vào những chòm sao trên hình cầu. “Lúc nãy anh nói đến cung Song Ngư và cung Bảo Bình, phải không?”.
Ngày tận thế! Langdon nghĩ: “Kết thúc cung Song Ngư và bắt đầu cung Bảo Bình được coi là cái mốc lịch sử đánh dấu thời điểm mà Tu viện Sion định công bố những tài liệu Sangreal ra với thế giới”. Nhưng thiên niên kỷ mới đã đến và đi mà chẳng có gì xảy ra cả, khiến các sử gia hoang mang không biết khi nào thì sự thật sẽ đến.
“Xem ra có thể là kế hoạch tiết lộ sự thật của Tu viện Sion liên quan đến dòng cuối cùng của bài thơ”, Sophie nói.
Nó nói về da thịt Hồng và tử cung mang hạt giống.
Langdon cảm thấy rùng mình. Trước đó, ông đã không xem xét dòng thơ này theo cách như vậy.
“Anh đã nói với tôi trước đây”, Sophie nói, “rằng thời điểm Tu Viện Sion dự định sẽ tiết lộ sự thật về “Hoa Hồng” và “tử cung mang hạt giống” có mối liên hệ trực tiếp với vị trí của các hành tinh – những trái cầu”.
Langdon gật đầu, cảm thấy những ý sơ khởi lờ mờ đang dần trở nên rõ nét. Mặc dầu thế, trực giác vẫn mách ông rằng thiên văn học không phải là chìa khoá. Những đáp án trước đó của vị Đại Sư đều có ý nghĩa tượng trưng đầy sức thuyết phục – Mona Lisa, Madonna bên núi đá, SOFIA. Sức thuyết phục này dứt khoát không có trong khái niệm về những hành tinh hình cầu và các Cung Hoàng Đạo. Cho tới giờ, Jacques Saunière luôn chứng tỏ mình là một người viết mật mã rất tỉ mỉ, và Langdon buộc phải tin rằng mật khẩu cuối cùng của ông – năm chữ cái sẽ mở ra bí mật tối hậu của Tu viện Sion – sẽ không chỉ phù hợp về mặt biểu tượng mà còn phải rõ ràng như pha lê nữa. Nếu lời giải này có gì giống với những lời giải khác thì nó ắt sẽ rành rành đến độ nhức nhối ngay khi nó mới hé lộ.
“Nhìn này!” Sophie thở hổn hển, ngắt ngang những suy nghĩ của Langdon khi cô túm lấy cánh tay ông. Bằng vào nỗi sợ mà Langdon cảm thấy qua bàn tay cô túm chặt, ông ngỡ là ai đó đang tiến lại gần nhưng khi ông quay lại phía Sophie, cô đang kinh hãi nhìn trân trân vào mặt quan tài cẩm thạch đen. “Ai đó đã ở đây…”, cô thì thầm và chỉ vào một vết trên chiếc quan tài đá gần chân phải của Newton.
Langdon không hiểu được sự lo lắng của Sophie. Một du khách đã vô ý để lại một cây bút chì than chà mộ trên nắp quan tài đá gần chân của Newton. Có gì đâu. Langdon với tay định nhặt nó lên, nhưng khi ông cúi mình về phía chiếc quan tàì đá thì ánh sáng chuyển dịch trên phiến đá cẩm thạch đen bóng và Langdon như đông cứng lại. Ông chợt nhận ra tại sao Sophie lại sợ hãi.
Ánh lên lờ mờ rất khó thấy trên nắp quan tài đá, ở chỗ chân Newton, là một lời nhắn viết nguệch ngoạc bằng bút chì than.
Ta đang có Teabing, Đi qua Nhà Nguyện.
Theo lối ra phía Nam, tới khu vườn công cộng.
Langdon đọc hai lần, tim đập thình thình.
Sophie quay lại và đưa mắt rà khắp gian chính điện.
Mặc dù cảm thấy toàn thân run lên khi nhìn thấy những dòng chữ đó, Langdon tự nhủ đây chính là tin tốt lành. Leigh vẫn còn sống. Còn có một hàm ý khác nữa ờ đây: “Chúng cũng không biết mật khẩu”, ông thì thầm.
Sophie gật đầu. Nếu không tội gì chúng phải bộc lộ sự hiện diện của mình?
“Có thể chúng muốn đổi Leigh lấy mật khẩu”.
“Hoặc đó là một cái bẫy”.
Langdon lắc đầu. “Tôi không nghĩ vậy. Khu vườn nằm bên ngoài những bức tường tu viện. Một nơi rất đông đúc”.
Langdon đã từng thăm Khu Vườn nổi tiếng của trường Đại học thuộc tu viện – một vườn cây ăn quả và thảo dược nhỏ – còn lại từ những ngày các thầy tu trồng các phương thuốc dược liệu tự nhiên ở đây. Với những cây ăn quả sống lâu nhất ở nước Anh, Khu Vườn của trường Đại học là một địa điểm nổi tiếng cho du khách tới thăm mà không phải vào trong tu viện. “Tôi nghĩ chúng đề nghị ta ra bên ngoài là cách bày tỏ sự tin cậy. Như vậy để chúng ta cảm thấy an toàn”.
Sophie có vẻ ngờ vực: “Ông muốn nói rằng ở bên ngoài, nơi không có máy dò kim loại?”.
Langdon cau mày. Cô ấy có lý.
Quay lại nhìn đăm đăm vào ngôi mộ đầy những hình cầu, Langdon ước gì mình biết được chút gì về mật khẩu… một cái gì đó làm vốn để đàm phán. Mình đã làm Leigh dính líu vào chuyện này, và mình sẽ làm bất cứ điều gì nếu có cơ hội giúp đỡ ông ấy.
“Lời nhắn nói rằng phải đi qua Nhà Nguyện đến lối ra phía Nam”, Sophie nói. “Liệu chúng ta có thể nhìn thấy khu vườn từ lối ra này không? Bằng cách đó, chúng ta có thể đánh giá tình hình trước khi bước ra và phơi mình trước nguy hiểm”.
Đây là một ý hay. Langdon nhớ mang máng rằng Nhà Nguyện là một đại sảnh hình bát giác rộng lớn – nơi hội họp của Nghị viện Anh trước khi có Toà nhà Nghị viện hiện đại. Đã nhiều năm rồi kể từ ngày ông tới đó, nhưng ông nhớ nó ở đâu đó bên ngoài khu nhà tu kín. Lùi lại khỏi ngôi mộ vài bước, Langdon nhìn quanh bức bình phong của đội hát thánh ca ở bên phải, ngang qua gian giữa tới phía đối diện – tới chỗ họ đã đi xuống.
Có một lối đi gần đó, với một bảng chỉ dẫn lớn.
“ĐƯỜNG NÀY DẪN TỚI:
CÁC HÀNG HIÊN
NHÀ Ở CỦA TU VIỆN TRƯỞNG
ĐẠI SẢNH CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC
NHÀ BẢO TÀNG
PHÒNG CHÉN BÁNH THÁNH
NHÀ NGUYỆN THÁNH FAITH
NHÀ NGUYỆN”
Langdon và Sophie chạy qua bên dưới bảng chỉ dẫn, quá nhanh nên không trông thấy lời thông báo nhỏ xin lỗi rằng khoảng đất nhỏ này đang bị đóng cửa để sửa chữa.
Họ lập tức ra tới một cái sân có tường cao với mái mở qua đó cơn mưa buổi sáng trút xuống. Phía trên họ, gió hú lên từng hồi qua khoảng mở ở mái như ai đó đang thổi qua miệng một cái chai. Đi vào con đường đi bộ hẹp thấp men theo chu vi cáỉ sân, Langdon cảm thấy nỗi bất an quen thuộc luôn luôn xâm chiếm ông trong những không gian bị bao kín. Những lối đi này được gọi là cloister (hàng hiên) và Langdon bồn chồn nhận thấy những cloister đặc biệt này tỏ ra tương xứng với gốc La tinh của chúng: claustrophobic – chứng sợ nơi khép kín.
Tập trung tâm trí tiến thẳng về phía cuối đường hầm, Langdon theo những biển chỉ dẫn để tới Nhà Nguyện. Lúc này chỉ mưa lất phất và lối đi bộ thì lạnh và ẩm với những cơn gió tạt mưa qua bức tường dài có cột là nguồn ánh sáng duy nhất cho “hàng hiên”. Một cặp khác chạy ngược lại qua họ, vội vã trốn khỏi thời tiết mỗi lúc một xấu hơn. Các hàng hiên lúc này trông vắng ngắt, phải thửa nhận đây là khu ít hấp dẫn nhất của tu viện trong mưa gió.
Xuôi theo hàng hiên phía đông khoảng bốn mươi mét, bên trái họ hiện ra một cổng tò vò, mở lối vào một hành lang khác.
Mặc dù đây là lối vào mà họ đang tìm, nhưng chỗ này lại bị phong tỏa bởi một dây hoa lá chăng ngang và một bảng chỉ dẫn trông khá chính quy:
“ĐÓNG CỬA ĐỂ NÂNG CẤP
PHÒNG CHÉN BÁNH THÁNH
NHÀ NGUYỆN THÁNH FAITH
NHÀ NGUYỆN”
Dãy hành lang dài vắng ngắt bên kia dây chắn ngổn ngang những giàn giáo và những mảnh vải vứt vương vãi. Ngay bên kia dây chắn, Langdon có thể nhìn thấy lối vào phòng Chén Bánh Thánh và Nhà Thờ Thánh Faith ở bên phải và bên trái.
Tuy nhiên, lối vào Nhà Nguyện lại khá xa, ở tận cuối hành lang dài. Thậm chí từ đây, Langdon vẫn có thể nhìn thấy cái cửa gỗ nặng nề được mở rộng và nội thất hình bát giác thênh thang tắm trong thứ ánh sáng tự nhiên xam xám tràn vào từ những cửa sổ lớn nhìn ra Vườn Đại học. Đi qua Nhà Nguyện. Theo lối ra phía Nam, tới khu vườn công cộng.
“Chúng ta vừa rời khỏi hàng hiên phía Đông”, Langdon nói, “Vậy lối ra phía Nam tớỉ khu vườn hẳn phải qua đó và ở bên phải”.
Sophie đã bước qua đống đồ và đi tiếp về phía trước.
Khi họ rảo bước đi xuôi theo hành lang tối om, tiếng mưa gió tử hàng hiên trống nhỏ dần sau họ. Nhà Nguyện là một thứ công trình vệ tinh – một nhà phụ không cố định ở cuối hành lang dài để đảm bảo sự bí mật của những cuộc họp Nghị viện ở đó “Trông đồ sộ nhỉ”, Sophie thì thầm khi họ đến gần.
Langdon đã quên căn phòng này rộng như thế nào. Thậm chí từ bên ngoài lối vào, ông có thể nhìn vượt qua khoảng rộng của nền nhà tới những cửa sổ hùng vĩ ở cạnh xa hình bát giác, cao tới năm tầng đến tận trắn hình vòm. Chắc chắn, từ đây họ có thể nhìn rất rõ ra khu vườn.
Bước qua ngưỡng cửa, cả Langdon và Sophie phải nheo mắt lại. Sau những hàng hiên tăm tối, Nhà Nguyện tựa như một nhà dưỡng bệnh bằng ánh sáng mặt trời. Họ tiến sâu vào trong ba – bốn mét, tìm bức tường phía nam cho đến khi họ nhận ra rằng cái cửa mà họ đã được hứa hẹn không có ở đó.
Họ đang đứng ở một ngõ cụt khổng lồ.
Tiếng kẽo kẹt của một cánh cửa nặng phía sau khiến họ quay lại vừa lúc nó đóng đánh thịch và cái chốt sập xuống.
Người đàn ông đứng một mình sau cánh cửa trông trầm tĩnh khi ông ta chĩa một khẩu súng lục nhỏ vào họ. Ông ta có vẻ oai nghiêm và tựa trên một đôi nạng nhôm.
Trong giây phút, Langdon nghĩ hẳn là mình đang mơ.
Đó là Leigh Teabing.
———————————————