Đọc truyện Mật Mã Da Vinci – Chương 58
Langdon không rời mắt khỏi màn hình máy vi tính kể từ khi cuộc tìm kiếm bắt đầu.
Năm phút. Cả hai truy cập. Cả hai đều không phù hợp.
Ông bắt đầu lo lắng.
Pamela Gettum ở phòng bên cạnh, đang chuẩn bị đồ uống nóng. Langdon và Sophie hỏi xin cà phê đi kèm với thứ trà mà Gettum mời, và từ tiếng bíp của lò vi sóng trong phòng bên, Langdon ngờ rằng yêu cầu của họ sẽ được đáp ứng bằng cà phê tan Nescafé.
Cuối cùng, máy tính reo lên hân hoan.
“Nghe như ông đã có được một truy cập nữa”, Gettum gọi với sang từ phòng kế bên. “Tiêu đề là gì?”.
Langdon nhìn màn hình.
Ngụ ngôn về Chén Thánh trong văn học thời trung cổ:
Một khái luận về ngài Gawain của Hiệp Sĩ Xanh.
“Ngụ ngôn về Hiệp Sĩ Xanh”, ông đáp.
Không phù hợp”, Gettum nói, “chẳng có mấy người khổng lồ huyền thoại mặc đồ xanh được chôn ở London đâu”.
Langdon và Sophie kiên nhẫn ngồi trước màn hình và đợi qua hai kết quả khác còn đáng ngờ hơn. Tuy nhiên, khi máy vi tính lại reng lên, món quà thật bất ngờ.
DIE OPERA VON RICHARD WAGNER
“Opera của Wagner?”, Sophie hỏi.
Gettum ngó lại từ khung cửa, tay cầm một gọi cà phê tan. “Có vẻ là một sự kết hợp lạ kỳ. Wagner là một hiệp sĩ phải không?”.
“Không”, Langdon đáp, cảm thấy một tình tiết dột ngột. “Nhưng ông là thành viên Hội Tam Điểm nổi tiếng. Cùng với Mozart, Beethoven, Shakespeare, Gershwin, Houdini va Disney. Có nhiều tập sách viết về mối quan hệ giữa những thành viên Hội Tam điểm và các Hiệp sĩ Templar, Tu viện Sion, và Chén Thánh. “Tôi muốn xem cái đó. Làm thế nào để xem được toàn văn?”.
“Ông không cần cả bài đâu”, Gettum nói với ra. “Ấn vào tiêu đề siêu văn bản(1). Máy vi tính sẽ hiện ra các truy cập từ khóa của ông cùng với những mono prelog và triple postlog (2) làm văn cảnh”.
Langdon không hiểu cô nói gì, nhưng vẫn nhấn chuột.
Một cửa sổ mới đột hiện.
… Hiệp sĩ huyền thoại tên là Parsifal, người… cuộc đi tìm Chén Thánh ẩn du, điều còn chưa ngã ngũ…
… dàn nhạc giao hưởng London năm 1855…
Rbecca tuyển tập ca kịch của Pope – DIVA…
… mộ của Wagner ở Breyth, Đức …
“Không phải Pope (3) này”, Langdon nói, thất vọng. Mặc dù vậy ông vẫn ngạc nhiên vì thấy hệ thống rất dễ sử dụng. Những từ khóa có văn cảnh đủ để nhắc ông rằng vở opera Parsifal của Wagner là để tôn vinh Mary Magdelene và dòng máu của Jesus Christ qua câu chuyện một chàng hiệp sĩ trẻ đi tìm chân lý.
“Hãy kiên nhẫn”, Gtum động viên. “Đây là một trò chơi số. Cứ để cho máy chạy”.
Trong vài phút tiếp theo, máy vi tính cho thêm mấy tư liệu tham khảo về Chén Thánh, trong đó có một bài về trolbadour – những người hát rong nổi tiếng của Pháp. Langdon biết việc hai từ minstrel (người hát rong) và minister (linh mục, mục sư) có chung một gốc từ nguyên không phải là một sự trùng hợp.
Những người hát rong là những đầy tớ lưu động, hay “mục sư” Nhà thờ, của Mary Magdalene, họ dùng âm nhạc để truyền bá câu chuyện về tính nữ thiêng liêng trong quần chúng. Đến tận ngày nay, những người hát rong vẫn ca ngợi phẩm hạnh của “Công Nương của chúng ta”, một giai nhân bí ẩn mà họ nguyện mãi mãi phụng thờ.
Hăm hở, Langdon kiểm tra… nhưng không thấy gì.
Máy tính lại reng.
Hiệp sĩ, lưu manh, Giáo hoàng và hình sao năm cánh.
Lịch sử của Chén Thánh qua bộ bài Tây.
“Chẳng có gì là lạ”, Langdon nói với Sophie. “Một số từ khóa của chúng ta trùng tên với những quân bài lẻ”. Ông với lấy con chuột để kích vào một đường siêu kết nối liên văn bản. “Tôi không chắc liệu ông cô có đề cập tới nó khi cô chơi bài Tarot với cụ không, Sophie, nhưng trò chơi này là một thứ sách giáo lý vấn đáp bằng thẻ chữ to kể câu chuyện về “Cô dâu thất lạc” và bị chinh phục bởi Giáo hội ác độc”.
Sophie nhìn ông, vẻ không tin: “Tôi không biết”.
“Đó là vấn đề. Bằng cách dạy thông qua một trò chơi ẩn dụ, những tín đồ của Chén Thánh nguỵ trang thông điệp của mình khỏi con mắt cú vọ của Giáo hội”. Langdon thường tự hỏi bằng cách nào mà nhiều người chơi bài hiện đại lại suy ra được rằng những bộ bốn hoa của họ – pích, cơ, tép, rô – là những biểu tượng có liên quan đến Chén Thánh, bắt nguồn trực tiếp từ bộ bốn trong bài Tarot – gươm, ly, vương trượng và hình sao năm cánh.
Pích là Gươm – lưỡi dao. Nam.
Cơ là Ly – Chén Thánh. Nữ.
Tép là Vương Trượng – Dòng Hoàng tộc. Cậy quyền uy.
Rô là hình sao năm cánh – Nữ thần Tính nữ thiêng liêng.
Bốn phút sau, khi Langdon bắt đầu cảm thấy sợ rằng họ sẽ không tìm thấy cái mà họ đến để tìm, thì máy tính lại đưa ra kết quả khác Trọng lực của thiên tài:
Tiểu sử của một hiệp sĩ hiện đại.
“Trọng lực của thiên tài?”. Langdon nói vọng sang với Gettum.
“Tiểu sử của một hiệp sĩ hiện đại?”.
Gettum thò đầu vào: “Hiện đại đến mức nào? Xin đừng nói với tôi đó là Ngài Rudy Giuliani của ông. Cá nhân tôi thấy ông ta hơi có chút kỳ quặc”.
Langdon cũng có những thắc mắc riêng về việc Ngài Mick Jagger mới được phong tước hiệp sĩ, nhưng bây giờ dường như không phải lúc để tranh cãi về chính sách về danh hiệu hiệp sĩ của nước Anh thời hiện đại. “Hãy nhìn xem”, Langdon gọi các từ khóa siêu văn bản.
… hiệp sĩ tôn kính, ngài Isaac Newton… London năm 1727, và mộ Ngài Westminster Abbey… Alexander Pope, bạn và đồng nghiệp…
“Tôi đoán hiện đại là một khái niệm tương đối thôi”, Sophie nói với Gettum. “Đây là một cuốn sách cổ. Nói về Ngài Isaac Newton”.
Gettum lắc đầu ở khung cửa: “Không phù hợp. Newton đã được mai táng ở Tu viện Westminster/ trụ sở của Đạo Tin Lành nước Anh. Không có cách nào để một Giáo hoàng Thiên Chúa giáo hiện diện được. Dùng kem và đường chứ?”.
Sophie gật đầu.
Gettum đợi: “Còn ông, Robert?”.
Tim của Langdon dập thình thình. Ông rời mắt khỏi màn hình và đứng lên. “Ngài Isaac Newton chính là chàng hiệp sĩ của chúng ta”.
Sophie vẫn ngồi: “Ông đang nói về cái gì?”.
“Newton đã được chôn cất ở London”! Langdon nói. “Công sức lao động của ông tạo ra những ngành khoa học mới chuốc lấy cơn thịnh nộ của Giáo hội. Và ông đã từng là một Đại Sư của Tu viện Sion. Chúng ta có thể muốn điều gì hơn thế nữa?”.
“Điều gì nữa ư?”. Sophie chỉ vào bài thơ. “Còn đoạn được Giáo hoàng mai táng thì sao? Cô nghe đấy chứ, Gettum? Newton không hề được mai táng bởi một Giáo hoàng Thiên Chúa giáo”.
Langdon với lấy con chuột: “Có ai nói là một Giáo hoàng Thiên Chúa giáo đâu?”, ông kích vào chữ “Pope”qua đường siêu kết nối, và thông tin đầy đủ hiện ra.
Đám tang của Ngài Isaac Newton với sự tham gia của các vị vua và quý tộc dưới sự chủ trì bởi Alxandrer Pope và đồng nghiệp, người đã cất lời ca tụng xúc động trước khi rắc đất lên mộ.
Langdon nhìn sang Sophie: “Lượt truy cập thứ hai đã cho chúng ta chữ Pope chính xác”. Ông dừng lại. A. Pope(4).
Ở London yên nghỉ một hiệp sĩ được A. Pope mai táng.
Sophie đứng lặng sững sờ.
Jacques Saunière, bậc thày về chữ nghĩa nước đôi đã lại chứng tỏ một lần nữa rằng ông là một người thông minh dễ sợ.
Chú thích:
(1) Hypertext: những đơn vị thông tin riêng rẽ được nối kết với nhau để truy cập dưới dạng không kế tiếp.
(2) Đoạn này nhiều thuật ngữ chuyên môn về tin học, một số từ như prelog hay postlog chúng tôi để nguyên vì không có điều kiện tra cứu chính xác, không dám đoán mò. Vả chăng, như ta thấy ở câu sau, chính học giả Langdon cũng không hiểu Gettum nói gì nữa là.
(3) Langdon và Sophie tìm Pope nghĩa là Giáo hoàng mà họ nghĩ là liên quan đến câu thơ “Ở London yên nghỉ một hiệp sĩ được Giáo hoàng mai táng” chứ không tìm Alexander Pope nhà thơ.
(4) Pope là họ của Alexander và cũng có nghĩa là Giáo hoàng, chính sự đồng âm khác nghĩa này đã gây bối rối lầm lẫn trong việc diễn giải câu thơ đầu tiên từ đầu đến giờ.
Silas choàng tỉnh giấc.
Hắn không rõ cái gì đã đánh thức hắn hoặc hắn đã ngủ bao lâu rồi. Phải chăng mình đang mơ. Ngồi dậy trên chiếc chiếu rơm, hắn lắng nghe tiếng thở nhẹ nhàng của sảnh chính ngôi nhà Opus Dei, sự im lặng chỉ bị quấy động bởi tiếng lầm rầm khe khẽ của ai đó đang cầu nguyện trong một phòng bên dưới. Đó là những âm thanh thân thuộc và có thể an ủi hắn.
Tuy nhiên, hắn cảm thấy một sự cảnh giác đột ngột và bất ngờ.
Đứng dậy, chỉ mặc nguyên đồ lót, Silas bước tới cửa sổ. Ban nãy mình có bị bám theo không nhỉ? Cái sân phía dưới vắng teo, hệt như hắn đã thấy nó khi vào đây. Hắn lắng nghe. Tịch lặng. Vậy tạt sao mình lại lo lắng? Đã từ lâu, Silas đã học cách tin vào trực giác của mình. Trực giác đã giữ mạng sống cho hắn khi còn là một đứa trẻ trên đường phố Marseilles trước khi bị bỏ tù… Trước khi hắn được sinh ra một lần nữa nhờ bàn tay của Giám mục Arigarosa. Ngó ra cửa sổ, giờ hắn nhìn thấy lờ mờ dáng nét của một chiếc xe hơi qua hàng rào. Trên nóc xe là một cái còi cảnh sát. Một tấm ván gỗ kêu cót két ở hành lang. Chốt cửa chuyển động.
Silas phản ứng theo bản năng, di chuyển qua căn phòng và dừng lại ngay sau cánh cửa khi nó bị xô mạnh và mở ra. Viên sĩ quan cảnh sát đầu tiên xông vào, lia khẩu súng từ trái sang phải vào chỗ có vẻ như một căn phòng trống không. Trước khi anh ta nhận ra Silas đang đứng đâu, Silas đã dùng vai xô cánh cửa rập mạnh vào viên cảnh sát thứ hai đang lao vào. Khi viên sĩ quan thứ nhất quay lại để bắn, Silas nhào người túm lấy chân anh ta. Súng nổ, viên đạn vèo qua trên đầu Silas, đúng lúc hắn vớ được ống chân viên sĩ quan, kéo mạnh và quật anh ta đập đầu xuống sàn nhà. Sĩ quan cảnh sát thứ hai loạng choạng đứng dậy trong khung cửa và Silas huých đầu gối vào háng anh ta, rồi bước qua cái thân hình đang quằn quại đó để lao ra sảnh lớn.
Gần như trần truồng, Silas lao cái thân hình trắng trợt xuống cầu thang. Hắn biết mình đã bị phản, nhưng bởi ai? Khi hắn tới phòng chờ, nhiều sĩ quan cảnh sát khác đã ập vào qua cửa trước. Silas quay sang hướng khác và lao sâu hơn vào đại sảnh. Lối vào dành cho phụ nữ. Mọi ngôi nhà của Opus Dei đều có một cửa như thế này. Ngoằn ngoèo theo những hành lang hẹp, Silas chạy xuyên một nhà bếp, vượt qua những người làm công hoảng hốt né tránh tên bạch tạng trần như nhộng trong khi hắn va phải bát đĩa và những đồ bạc, lao vào một hành lang tối gần phòng đun nước. Giờ thì hắn đã nhìn thấy cái cửa hắn tìm, một ngọn đèn chỉ lối ra lờ mờ sáng ở cuối đường.
Chạy hết tốc độ qua cửa ra ngoài trời mưa, Silas nhảy khỏi thềm nghỉ thấp, không nhìn thấy người cảnh sát từ đằng kia chạy tới, khi nhận ra thì đã quá muộn. Hai người va vào nhau, bả vai trần to rộng của Silas xô vào xương ức của người kia với sức mạnh nghiền nát. Hắn xô viên cảnh sát ngã ngửa trên vỉa hè, đè mạnh cả người lên anh ta. Khẩu súng của viên sĩ quan lách cách văng ra xa. Silas có thể nghe thấy nhiều người vừa chạy xuôi hành lang vừa kêu to. Lăn mình, hắn chộp lấy khẩu súng bị rơi, đúng lúc đám cảnh sát xuất hiện. Một tiếng súng vang lên tử phía cầu thang, và Silas cảm thấy đau rát phía dưới xương sườn. Tức điên lên, hắn nổ súng vào cả ba cảnh sát, máu của họ bắn tung toé.
Một bóng đen lờ mờ phía sau, không biết tử đâu tới. Đôi bàn tay giận dữ túm lấy đôi vai trần của hắn như thể được truyền sức mạnh của chính quỷ Satan. Người đó hét vào tai hắn.
SILAS, KHÔNG!
Silas quay lại và bóp cò. Mắt của họ gặp nhau. Silas kêu lên kinh hãi khi Giám mục Arigarosa ngã xuống.
——————————————————————————–
——————————————