Mật Mã Da Vinci

Chương 50


Đọc truyện Mật Mã Da Vinci – Chương 50

Trung uý Collet tự rót cho mình một ly Perrier từ tủ lạnh của Teabing và sải bước qua phòng khách trở ra ngoài. Thay vì theo Fache tới London là hiện trường hành động, giờ đây anh phải làm “vú em” trông coi đội PTS đang rải ra khắp Château Villette.

Cho tới giờ, các bằng chứng họ phát hiện được không giúp ích gì cho lắm: một viên đạn găm trên sàn nhà, một tờ giấy với các biểu tượng được vẽ nguệch ngoạc kèm theo những từ lưỡi dao và thắt lưng hành xác và một dây lưng có ngạnh đẫm máu mà PTS nói với Collet rằng nó gắn liền với giáo đoàn Thiên Chúa giáo bảo thủ Opus Dei, nhóm này gần đây đã gây chấn động khi một chương trình tin tức vạch trần việc họ tuyển mộ người rất hung hãn ở Paris.

Collet thở dài. Chúc may mắn để hiểu ra được cái mớ hỗn tạp này.

Đi theo hành lang sang trọng, Collet bước vào phòng khiêu vũ rất rộng, nơi người kiểm tra chính của PTS đang bận rộn thu thập dấu vân tay. Anh ta là một người to béo mặc quần có dây đeo.

“Có gì không?”, Collet bước vào hỏi.

Người kiểm tra lắc đầu: “Không có gì mới. Nhiều bộ dấu tay khớp với những dấu tìm được khắp ở phần còn lại của ngôi nhà”.

“Dấu tay trên chiếc đai hành xác thì sao?”.

“Interpol vẫn đang làm việc. Tôi đã nạp vào máy vi tính tất cả những thứ chúng ta tìm thấy”.

Collet chỉ vào hai cái túi đựng bằng chứng đã niêm phong ở trên bàn: “Còn những thứ này thì sao?”.

Người kia nhún vai: “Sức mạnh của thói quen. Tôi bỏ vào túi tất cả những gì có vẻ đặc biệt”.

Collet bước lại. Đặc biệt

“Thật là một người Anh kỳ lạ”, người kiểm tra nói. “Hãy nhìn cái này mà xem”. Anh ta lục trong các túi đựng vật chứng và chọn ra một thứ, đưa cho Collet.

Bức ảnh thể hiện cổng chính của một thánh đường theo kiến trúc Gothic – một cổng tò vò truyền thống với những chỗ hõm, hẹp dần lại qua nhiều lớp có gờ nối tới một khung cửa nhỏ.

Collet nghiên cứu bức ảnh và hỏi lại: “Đây là thứ đặc biệt. Hãy lật lại”.

Ở mặt sau tấm ảnh, Collet thấy những ghi chú nguệch ngoạc bằng tiếng Anh, mô tả gian giữa trống và dài của một nhà thờ lớn như là một sự bí mật bày tỏ lòng tôn kính đối với tử cung người đàn bà. Điều này thật lạ lùng. Tuy nhiên, lời ghi chú mô tả cửa vào của một thánh đường, mới là cái làm anh giật mình.

“Này! Ông ta nghĩ cửa vào thánh đường biểu hiện cái… của đàn bà”.

Người nhân viên kiểm tra gật đầu: “Đầy đủ cả mép âm hộ lẹm vào và một cái âm vật nhỏ xinh bên trên khung cửa”. Anh thở dài: “Kiểu như khêu gợi ta muốn quay trở về nhà thờ”.

Collet cầm chiếc túi đựng vật chứng thứ hai lên. Qua lớp nhựa, anh có thể nhìn thấy một tấm ảnh lớn có vẻ như là tài liệu cổ. Trên đầu bức ảnh ghi:

Les Dossiers Secrets – Number 4° lm 249 (1)

Cái gì đây?”. Collet hỏi.

“Tôi không biết. Ông ta có những bản sao như vậy ở khắp nhà nên tôi cho nó vào trong túi”.


Collet nghiên cứu tài liệu này.

RIEURE DE SIOIU – LES NAUTONIERS/ GRAND MASTERS (2)

JEAN DE GISORS 1188-1220

MARLE DE SAINT-CLAIR 1220-1266

GUILLAUME DE GISORS 1266-1307

EDOUARD DE BAR 1307-1336

JEAN DE BAR 1336-1351

JEAN DE SAINT-CLAIR 1351-1366

BLANCE D EVREUX 1366-1398

NICOLAS FLAMEL 1398-1418

RENE D ANJOU 1418-1480

IOLANDE DE BAR 1480-1483

SANDRO BOTTICELLI 1483-1510

LEONARDO DA VINCI 1510-1519

CONNETABLE DE BOURBON 1519-1527

FERDINAND DE GONZAQUE 1527-1575

LOUIS DE NEVERS 1575-1595

ROBERT FLUID 1595-1637

J. VALENTIN ANDREA 1637-1654

ROBERT BOYLE 1654-1691


ISAAC NEWTON 1691-1727

CHARLES RADCLYFFE 1727-1746

CHARLES DE LORRAINE 1746-1780

MAXIMILIAN DE LORRAINE 1780-1801

CHARLES NODIER 1801-1844

VICTOR HUGO 1844-1885

CLAUDE DEBUSSY 1885-1914

JEAN COCTEAU 1918-1963

Prieuré de Sion? Collet phân vân.

“Trung úy?”. Một nhân viên thò đầu vào. “Tổng đài có một cú điện khẩn cho đại úy Fache, nhưng họ không liên lạc được với đại uý, ông có nhận điện không?”.

Collet quay trở lại nhà bếp và nhận cuộc gọi.

Đó là André Vernet.

Âm sắc tao nhã của ông chủ nhà băng không đủ để che đậy sự căng thẳng trong giọng nói của ông: “Tôi nghĩ Đại úy Fache nói là sẽ gọi điện cho tôi, nhưng tôi vẫn chưa nhận được tin tức gì từ ông ta”.

“Đại úy đang bận”, Collet trả lời. “Tôi có thể gỉúp gì cho ngài?”.

Người ta cam đoan với tôi rằng tôi sẽ được cập nhật về diễn tiến công việc của các ông đêm nay”.

Trong khoảnh khắc, Collet nghĩ anh đã nghe thấy giọng nói của người đàn ông này ở đâu đó, nhưng không xác định được cụ thể. “Ngài Vernet, tôi đang chịu trách nhiệm điều tra ở Paris.

Tôi là trung úy Collet”.

Có một quãng ngưng dài trên đường dây: “Trung úy, xin lỗi, tôi có một cuộc điện thoại khác đang chờ. Tôi sẽ gọi cho ông sau”. Ông ta gác máy.

Trong vài giây, Collet vẫn giữ ống nghe. Sau đó mọi thứ trở nên rõ ràng trong đầu anh. “Mình biết mình đã nhận ra giọng nói này! Phát hiện này làm anh há hốc miệng vì kinh ngạc.


Người lái chiếc xe bọc thép Với chiếc Rolex giả.

Bây giờ thì Collet mới hiểu tại sao ông chủ nhà băng lại vội vã cúp máy như vậy. Vernet đã nhớ ra cái tên trung úy Collet – người sĩ quan mà ông ta đã nói dối trắng trợn hồi đầu tối nay.

Collet ngẫm nghĩ về mối liên quan của diễn biến kì lạ này.

Vernet có dính líu. Theo bản năng, anh biết mình nên gọi cho Fache. Theo cảm tính, anh biết sự khám phá may mắn này sẽ là thời điểm để anh toả sáng.

Ngay lập tức anh gọi cho Interpol và yêu cầu tất cả những thông tin mà họ có thể tìm thấy về Nhà băng Ký thác Zurich và chủ tịch của nó, André Vernet.

Chú thích:

(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Những hồ sơ bí mật – Số 40 lm 249.

(2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Tu viện Sion – Những người cầm lái, các Đại Sư

“Thắt dây an toàn”, phi công của Teabing thông báo khi chiếc Hawker 731 hạ độ cao đi vào một đám mưa bụi ảm đạm buổi sáng. “Chúng ta sẽ hạ cánh sau năm phút nữa”.

Teabing cảm thấy niềm vui của người trở về cố hương khi ông nhìn thấy những ngọn đồi mù sương của Kent trải rộng dưới chiếc máy bay đang thấp dần. Từ Anh đến Paris chưa đầy một giờ bay, vậy mà như cách nhau cả một thế giới. Sáng nay, màu xanh đẫm mưa sương của mùa xuân quê hương như đặc biệt chào đón ông. Thời gian của ta ở Pháp đã hết. Ta đang trở về nước Anh trong tư thế chiến thắng. Viên đá đỉnh vòm đã được tìm ra. Tất nhiên, vẫn còn câu hỏi là viên đá đỉnh vòm đó cuối cùng sẽ dẫn đến đâu. Một nơi nào đó trên Vương quốc Anh. Chính xác là đâu, Teabing chưa biết nhưng ông đang nếm hương vị chiến thắng rồi.

Trong khi Langdon và Sophie nhìn theo, Teabing đứng dậy, đi sang mé bên kia cabin, rồi kéo một tấm ván tường sang bên để lộ một chiếc két được giấu kín sau tường. Ông quay số và mở két an toàn, lấy ra hai tấm hộ chiếu. “Giấy tờ cho Rémy và cho tôi”. Sau đó, ông rút ra một tập dầy toàn tiền năm mươi bảng. “Và giấy tờ cho hai bạn”.

Sophie có vẻ cảnh giác: “Một khoản hối lộ?”.

“Ngoại giao sáng tạo mà. Các sân bay hành chính thường có chút chiếu cố. Một nhân viên hải quan Anh sẽ đón chúng ta tại nhà chứa máy bay của tôi cũng được lên máy bay kiểm tra.

Thay vì cho phép anh ta lên, tôi sẽ bảo anh ta là tôi đi cùng một nữ danh nhân Pháp, cô ấy không muốn ai biết mình có mặt ở Anh – báo chí hay làm rùm beng, bạn biết đấy – và tôi sẽ tặng nhân viên đó món tiền boa hậu hĩnh này để cảm ơn về sự kín đáo của anh ta”.

Langdon có vẻ ngạc nhiên: “Và người nhân viên hải quan sẽ nhận?”.

“Không phải với bất kỳ ai, bình thường thì họ sẽ không nhận, nhưng tất cả những người này đều biết tôi. Tôi không phải là một người buôn vũ khí, lạy Chúa! Tôi được phong hiệp sĩ cơ mà”. Teabing mỉm cười. “Tư cách thành viên Hoàng gia có đặc quyền của nó”.

Lúc này, Rémy theo lối đi giữa các hàng ghế tiến lại gần, khẩu Heckler & Koch trong tay: “Thưa ngài, nhiệm vụ của tôi là gì?”.

Teabing liếc nhìn người thân bộc: “Tôi cần anh ở lại trên máy bay với vị khách của chúng ta cho đến khi chúng tôi quay lại. Chúng tôi không thể kéo lê hắn đi theo khắp London được”.

Sophie có vẻ cảnh giác: “Leigh. Tôi thực sự lo rằng cảnh sát Pháp sẽ tìm thấy chiếc máy bay của ngài trước khi chúng ta trở lại”.

Teabing cười: “Phải, hãy tưởng tượng sự ngạc nhiên của họ nếu họ lên máy bay và thấy Rémy”.

Sophie có vẻ ngạc nhiên về thái độ xàm xỡ của ông: “Leigh, ngài đã vận chuyển một con tin bị trói qua biên giới quốc tế.

Điều này là nghiêm trọng đấy”.

“Các luật sư của tôi cũng nghiêm túc” ông đưa mắt nhìn về hướng gã thầy tu ở sau máy bay. “Đồ súc vật này đột nhập vào nhà tôi và suýt giết tôi. Đó là sự thật và Rémy sẽ làm chứng”.

“Nhưng ông đã trói anh ta và chở anh ta bằng máy bay tới London?”, Langdon nói.


Teabing giơ bàn tay phải lên và phác một cử chỉ như khi thề ở toà án: “Thưa quý tòa, xin hãy tha thứ cho một hiệp sĩ già lập dị về định kiến ngu ngốc của ông ta đối với hệ thống toà án của Anh. Tôi nhận ra là tôi nên gọi đến các nhà chức trách Pháp, nhưng tôi là một kẻ hợm mình và không tin những người Pháp laise-farei(1) đó. Có thể xử một cách đúng đắn. Người đàn ông này đã suýt giết tôi. Và tôi đã có một quyết định liều lĩnh là bắt người hầu của tôi phải giúp tôi đưa hắn ta về Anh, nhưng tại lúc đó tôi đang chịu áp lực quá lớn. Mea culpa. Mea culpai”(2).

Langdon có vẻ hoài nghi: “Leigh, từ miệng ngài nói ra, điều ấy có thể cho qua”.

“Thưa ngài?” Viên phi công gọi. “Đài không lưu vừa mới gọi. Họ có vấn đề gì đó về việc duy tu bảo dưỡng ở gần nhà chứa máy bay của chúng ta và yêu cầu tôi đưa máy bay thẳng tới chỗ ga hành khách của sân bay thay vì đến thẳng nhà chứa máy bay”.

Teabing thường xuyên đã bay tới Biggin Hill trong hơn một thập kỷ nay và đây là lần đầu tiên có chuyện như thế này. “Họ có nói vấn đề đó là gì không?”.

“Người kiểm soát không lưu rất mơ hồ. Điều gì đó về việc khí ga rò rỉ ở trạm bơm xăng thì phải? Họ yêu cầu tôi đỗ phía trước ga hành khách và giữ mọi nguời ở trên máy bay cho đến khi có lệnh khác. Đề phòng về an toàn đấy ạ. Chúng ta không đuợc ra khỏi máy bay cho đến khi chúng ta được những người có thẩm quyền ở sân bay cho phép”.

Teabing nghi ngờ. Chắc phải là một vụ rò rỉ khí ga kinh thiên động địa. Trạm bơm xăng cách nhà chứa máy bay của ông những nửa dặm cơ mà.

Rémy cũng có vẻ lo lắng: “Thưa ngài, chuyện này nghe rất trái lẽ thường”.

Teabing quay sang Sophie và Langdon: “Các bạn của tôi, tôi có mối nghi ngờ chẳng thú vị gì là chúng ta sắp được cả một uỷ ban đón tiếp”.

Langdon khẽ thở dài: “Tôi đoán Fache vẫn nghĩ tôi là đối tượng của ông ta”.

“Hoặc là như vậy”, Sophie nói, “hoặc là ông ấy dấn sâu quá mức vào vụ này để có thể thú nhận sai lầm của mình”.

Teabing không lắng nghe. Bất kể sự cố chấp của Fache thì vẫn cần phải hành động gấp. Không được rời mắt khỏi mục tiêu cuối cùng. Chén Thánh. Chúng ta đã ở rất gần. Bên dưới họ, càng máy bay đã hạ xuống với một tiếng cạch.

“Leigh”, Langdon nói, giọng nghe đầy hối hận. “Tôi nên tự nộp mình và tìm cách giải quyết việc này theo pháp luật. Để ông đứng ngoài toàn bộ chuyện này”.

“Ôi trời, Robert!” Teabing khoát tay. “Anh thực sự nghĩ là họ sẽ thả những người còn lại trong chúng ta sao? Tôi vừa mới vận chuyển các bạn trái phép. Cô Neveu giúp anh trốn thoát từ Louvre, và chúng ta có một gã bị trói ở đằng sau máy bay. Quả thật, tất cả chúng ta cùng hội cùng thuyền mà”.

“Có thể có một phi cảng khác?”. Sophie nói.

Teabing lắc đầu: “Nếu bây giờ chúng ta đổi hướng thì vào lúc chúng ta được phép hạ cánh xuống bất cứ nơi nào khác, đoàn chào mừng chúng ta sẽ bao gồm cả xe tăng quân sự!”.

Sophie ngồi phịch xuống.

Teabing cảm thấy rằng nếu họ có cơ may trì hoãn việc đối mặt với các nhà chức trách Anh đủ lâu để tìm Chén Thánh thì phải hành động táo bạo hơn. “Chờ tôi một phút”, ông nói và đi khập khiễng về phía buồng lái.

“Ông đang làm gì vậy?”. Langdon hỏi.

“Họp bàn chuyện mua bán”, Teabing nói, tự hỏi không biết phải chi bao nhiêu để thuyết phục phi công của mình thực hiện một chiêu thức hết sức bất thường.

Chú thích:

(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: làm việc kiểu buông xuôi, để mặc.

(2) Tiếng Latin trong nguyên bản: Lỗi tại tôi, một câu thường trờ đi trở lại trong những bài kinh sám hối.

————————————————


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.