Mắt âm dương

Chương 12 phần 4


Bạn đang đọc Mắt âm dương – Chương 12 phần 4

Vấn đề là trong khe núi lớn bên dưới vùng núi tuyết Đường Cổ Lạp tại sao lại xuất hiện chiến thuyền cổ thời nhà Minh? Thật không thể tưởng tượng nổi.
Chiến thuyền cổ khuất dần trong bóng tối, ngọn đèn bão yếu ớt mỗi lúc một nhỏ dần trên dòng sông ngầm tối tăm, chỉ còn một chấm sáng như ánh đom đóm trong đêm.
Vương Uy bảo lão Tôn:
– Bất kể trên con thuyền đó là người hay ma chúng ta cũng phải xem xem, có xem mới rõ ràng được.
Lão Tôn cau mày, hiển nhiên lão vẫn chưa hiểu nổi chuyện này rốt cuộc là sao, nếu chiến thuyền cổ đó là thuyền ma thì lên đó còn đỡ. Nhưng nếu lên thuyền lại gặp bọn lính áo vàng, chẳng hóa ra tự tìm đường chết hay sao?
Dương Hoài Ngọc nói:
– Bác Tôn, cháu cũng cảm thấy cần phải lên đấy xem thử, hang động dưới lòng đất này chỗ nào cũng có huyền cơ, các manh mối để chúng ta đi tìm vương triều Lạp Cách Nhật đến đây đều đứt cả rồi, chiến thuyền cổ thần bí kia rất có thể liên quan đến vương triều Lạp Cách Nhật, chúng ta không thể để mất cơ hội này được.
Lão Tôn suy nghĩ, đoạn rít mạnh một hơi thuốc, nói:
– Vậy thì đuổi theo.
Thấy ánh đom đóm giữa bóng tối mênh mông kia sắp biến mất, Vương Uy và Dương Hoài Ngọc vội chèo thật nhanh, cả hai phối hợp cùng lão Tôn quay mũi thuyền, vun vút đuổi theo chiến thuyền cổ vừa đi.
Vào thời nhà Minh, đây là chiến thuyền rất hiện đại. Dưới thời Minh, cướp biển Đông Doanh liên tục quấy nhiễu miền duyên hải, triều đình dốc sức đánh đuổi chúng, đã bỏ rất nhiều công phu vào việc chế tạo chiến thuyền. Chiếc thuyền lớn này có phần thân rất kiên cố, đao búa khó mà phá nổi, hơn nữa việc điều khiển cũng rất linh hoạt. Trong khoang thuyền có mười tám mái chèo để điều khiển, do ba mươi hai phu thuyền phối hợp chèo lái, trong hải chiến có thể tùy cơ chuyển hướng, tránh bị đối thủ đâm thuyền vào, hơn nữa tốc độ lại nhanh, di chuyển như chớp, có thể nói là linh hồn của những trận hải chiến.
Thấy thuyền mình đang dần dần tiến gần đến chiến thuyền cổ kia, Vương Uy đột nhiên quay sang nói với Dương Hoài Ngọc:
– Lúc chiến thuyền đụng vào thuyền gỗ, tốc độ không nhanh như thế này
Dương Hoài Ngọc cũng rất kinh ngạc, nước lặng, không có gió to, chiến thuyền cổ kia không thể trôi nhanh như thế được, lẽ nào trên thuyền có người thật ư?
Nghe Vương Uy nói vậy, lão Tôn càng thêm nghi ngờ, chính mắt lão đã trông thấy bấy nhiêu lính áo vàng lên thuyền, bao năm dọc ngang trên biển, lão rất tự tin vào con mắt và khối óc của mình, quyết không thể nhầm được.
Chiếc thuyền gỗ dần đuổi kịp chiến thuyền cổ, trên chiến thuyền cổ vẫn chỉ có một ngọn đèn bão tù mù, trong khoang thuyền tối om, giữa dòng sông ngầm mênh mông này, trông hệt như một con thuyền ma không người chèo lái.
Dương Hoài Ngọc thay đồ lặn, ào một cái nhảy xuống nước. Chiến thuyền cổ có mười tám mái chèo, nước sông ngầm lặng sóng, không có gió to, vậy mà nó lại có thể lướt đi nhanh như vậy, khả năng duy nhất là trên thuyền có phu thuyền đang chèo. Nhằm đề phòng lúc chiến đấu với kẻ địch bị phá hủy mái chèo, nên loại chiến thuyền thời Minh này thường giấu kín mái chèo dưới nước.

Dương Hoài Ngọc lặn xuống một lúc lâu vẫn không thấy động tĩnh gì, Vương Uy và lão Tôn vừa ra sức chèo vừa rì rầm nói chuyện. Vương Uy nói với lão Tôn:p>
– Bác Tôn, cô ấy lặn xuống xem mái chèo có hoạt động không thôi mà, sao lâu thế?
Lão Tôn gật đầu, hai hàng lông mày càng nhíu chặt lại, cảm thấy Dương Hoài Ngọc ở dưới nước có thể đã xảy ra chuyện, lão bèn buông mái chèo, định chui vào khoang thay đồ lặn. Vương Uy vội lôi lão lại, nói:
– Bác già rồi, lặn xuống dưới không tiện, để đấy tôi xuống xem, hồi nhỏ tôi cũng tập bơi qua sông rồi.
Nghe Vương Uy nói vậy, lão Tôn gật đầu. Vương Uy thay đồ lặn, rồi âm thầm chuồi xuống nước. Bộ đồ lặn này là bọn lão Tôn đặt mua ở nước Anh, luôn đem theo người, trên mũ lặn còn có đèn, bên trong lắp cả ắc quy, chỉ cần bấm nút là bật sáng, có thể chiếu sáng trong phạm vi mười mét dưới nước.
Nước rất lạnh, Vương Uy vừa lặn xuống đã rùng cả mình. Anh lặn xuống sâu mấy mét, phát hiện dưới sông ngầm không có cá, chỉ mênh mông những nước là nước. Anh lặn xuống dưới đáy chiến thuyền cổ, quả nhiên thấy bên dưới có một hàng mái chèo lớn, đang từ từ khua động theo dòng nước.
Những mái chèo này không hề có dấu hiệu gì là có người điều khiển, nhưng nếu là tốc độ tự nhiên thì không thể nhanh như thế được. Vương Uy cố bơi theo con thuyền, tâm trí anh chợt rúng động, trong số những mái chèo hình như có mấy cái chèo rất nhịp nhàng. Anh dụi mắt, lại gần hơn chút nữa, xác nhận mình không nhìn nhầm, ở đấy có ít nhất hai mái chèo đang hoạt động.
Ró ràng trên thuyền có người, Vương Uy kinh ngạc.
Anh bơi tiếp một đoạn nữa, có thể thấy mái chèo của con thuyền gỗ đang khua động liên tục trên đầu anh, nhưng không thấy Dương Hoài Ngọc đâu cả. Chuyện này quả là không bình thường, rõ ràng Dương Hoài Ngọc cũng lặn xuống ở chỗ này mà. Nhìn tư thế xuống nước của Dương Hoài Ngọc Vương Uy có thể đoán được khả năng bơi lặn của cô còn siêu hơn anh nhiều. Nhưng một người sống sờ sờ như thế tại sao lại vô duyên vô cớ biến mất được.
Vương Uy đang thắc mắc thì bỗng thấy một cục máu từ đáy nước nổi lên, anh vội rọi đèn về hướng đó, chỉ thấy sâu dưới nước chừng mười mét, có hai bóng đen đang quấn lấy nhau.
Vương Uy vội lặn xuống đó, thấy trên mình bóng đen phụt ra mấy luồng máu, anh tránh luồng máu đang phun về phía mình, nhận ra một trong hai bóng đen kia là Dương Hoài Ngọc. Thứ đang quấn lấy Dương Hoài Ngọc thấy có người đến liền quay mình chuồn thẳng, tốc độ rất nhanh, chỉ một loáng đã lặn mất tăm.
Vương Uy vội tóm chặt lấy Dương Hoài Ngọc đang cứng đờ cả người, ngoi lên mặt nước. Lão Tôn ném một sợi dây thừng xuống, kéo hai người lên thuyền. Bàn tay và cánh tay Dương Hoài Ngọc đều bị thương, nhưng vết thương không sâu. Vương Uy lấy thuốc trong hộp cứu thương bôi vào rồi băng lại cho cô, may mà không có gì nghiêm trọng.
Lão Tôn vội la lên:
– Dưới nước có người à?
Dương Hoài Ngọc gật rồi lại lắc đầu, nói:
– Cháu vừa xuống nước thì đèn trên mũ lặn bị đập vỡ, sau đó liền bị một luồng sức mạnh tấn công. Hình như không phải người, người ở dưới nước làm thế nào mạnh như thế được? Thứ đó lôi cháu xuống đáy nước, cháu hoảng quá, vội rút dao ra đánh nhau với nó. Vết thương trên người cháu đều là do lúc đánh nhau bị thứ đó khống chế dao, tự chém vào tay mình.
Lão Tôn vuốt râu, trầm ngâm hồi lâu mới nói:

– Bằng vào thân thủ của cô, đánh nhau với nó bấy nhiêu lâu mà không biết có phải là người không à? Dương Hoài Ngọc nói:
– Cháu đâu có đụng được vào nó, có điều lúc nó tóm lấy tay cháu, có cảm giác tay nó không phải là tay người, mà là một cặp móng vuốt.
– Móng vuốt? – Vương Uy và lão Tôn cùng sững sờ.
Lão Tôn hỏi dồn:
– Các người có thấy mái chèo hoạt động không?
Vương Uy và Dương Hoài Ngọc đồng loạt gật đầu, nghe họ thuật lại những gì đã gặp ở dưới nước, lão Tôn luôn miệng than quái lạ. Việc chèo thuyền cổ cũng có quy tắc của nó, gọi là mười hai chèo, nghĩa là ít nhất phải có mười hai mái chèo cùng chèo, bằng không sẽ không thể phát huy ưu thế của cấu tạo mười tám mái chèo được. Lão Tôn và Dương Hoài Ngọc bôn ba trên biển bấy lâu, đã gặp nhiều tàu thuyền đi biển, hiểu khá rõ về các loại tàu thuyền. Họ dọc ngang suốt một dải hải phận Đông Nam Á, từng phát hiện thấy thuyền đi biển cổ đại của Trung Quốc ở rất nhiều làng chài hoặc vùng biển, hàng hải và phòng thủ bờ biển rất phát triển dưới thời Minh, kỹ thuật đóng thuyền đi biển rất cao siêu, vì vậy lão Tôn và Dương Hoài Ngọc hiểu rất rõ về loại chiến thuyền cổ thời Minh này.
Trên chiến thuyền cổ có đông lính áo vàng như thế, nếu chúng muốn tìm gì đó trên con sông ngầm này, chắc chắn sẽ phát huy toàn bộ ưu thế của mười tám mái chèo, chúng không thiếu người, sao lại chỉ chèo có hai mái?
Ba người cùng bàn bạc, cảm thấy cứ phỏng đoán như thế này cũng chẳng ích gì, Vương Uy xung phong lên chiến thuyền cổ kia xem xét, vết thương trên tay Dương Hoài Ngọc không nghiêm trọng nên cô cũng đòi đi với Vương Uy. Lão Tôn khuyên ngăn mấy câu, thấy cô vẫn khăng khăng, cũng đành đồng ý.
Lão Tôn cập con thuyền gỗ vào đuôi chiếc thuyền cổ, Vương Uy nhanh nhẹn tung móc câu vào mạn thuyền, nắm chặt dây móc câu kéo thật mạnh rồi tung người nhảy sang. Chiến thuyền cổ cao hơn thuyền gỗ đến mấy thước, Vương Uy sử dụng cả tay chân, thoăn thoắt leo lên mạn thuyền rồi trèo lên sàn. Dương Hoài Ngọc thấy Vương Uy lên được chiến thuyền cũng tung móc câu leo lên.
Hai người đứng trên boong thuyền, nhìn bóng khoang thuyền đổ dài hiu hắt dưới ánh đèn bão. Vương Uy và Dương Hoài Ngọc lấy làm lạ, nếu trên thuyền có người thì lúc họ leo lên chắc chắn đã bị phát hiện, tại sao không có động tĩnh gì?
Quái gở vẫn là quái gở! Họ tận mắt trông thấy mái chèo dưới nước bị người điều khiển hẳn hoi, trong khoang thuyền có người là điều không còn nghi ngờ gì nữa. Vương Uy và Dương Hoài Ngọc đều rút súng, lên đạn, chuẩn bị sẵn sàng rồi từ từ đẩy của khoang thuyền, cùng với tiếng cánh cửa kèn kẹt mở ra, cả hai vội nép sang một bên theo phản xạ.
Thật bất ngờ, chào đón họ không phải là đạn, mà là một khoảng lặng vô cùng sau tiếng kẹt cửa, gió trên sông chợt đóng sập cửa khoang thuyền lại khiến Vương Uy và Dương Hoài Ngọc nghe tiếng mà thót cả tim.
Dương Hoài Ngọc lấy từ trong ba lô ra một cái đèn pin rất đẹp, Vương Uy mới thấy lần đầu, nó rất giống với đèn trên mũ lặn, nhưng cự li chiếu sáng rất xa, mà cũng sáng hơn nhiều.p>
Vương Uy tay cầm súng, dè dặt tiến vào khoang thuyền, Dương Hoài Ngọc soi đèn theo sau. Cô soi khắp khoang thuyền một lượt, nhưng không thấy có dấu vết con người. Những thứ bày biện trong khoang toàn đồ cổ, từ bàn ghế kỷ trà trạm trổ hoa văn đến đủ loại binh khí đao thương kiếm kích đã han gỉ đến không nhận ra hình dạng gì nữa. Dường như tất cả đồ gỗ chạm trổ trong này đều có màu đen thẫm, sờ vào thấy âm ẩm, khiến người ta cảm thấy rất khó chịu.p>
Trong khoang thuyền giăng đầy mạng nhện, những con nhện to bằng bàn tay quơ quơ những cái chân lều nghều xù xì, bò đi bò lại trên đó. Dương Hoài Ngọc và Vương Uy đến gần lũ nhện, nhưng chúng vẫn bò lổm ngổm, coi như họ không tồn tại.
Vương Uy nói:

– Đay là khoang chính, xem ra nhiều năm nay không có người vào đây. Nếu những tên áo vàng bước lên thuyền mà bác Tôn thấy là người sống, chắc chắn khoang chính sẽ không như thế này.
Dương Hoài Ngọc gật đầu, chuyện này đúng là rất kỳ lạ, họ lượn qua cả khoang một lượt, nhưng không thấy bất cứ thứ gì có giá trị.
Tiếp đó, họ bước xuống tầng dưới. Tầng dưới lẽ thường là nơi ở và làm việc của tướng lĩnh trên chiến thuyền, tầng này ngăn thành mấy gian lớn, trang trí rất đẹp. Gian ngoài còn bày biện xa hoa hơn tầng trên, tuy về cơ bản đồ dùng cũng chẳng khác biệt gì mấy, hai người bèn đi thẳng vào gian trong cùng.
Dương Hoài Ngọc vừa đẩy cửa, liền trông thấy trong đó có một người đang đứng, Vương Uy nhanh mắt nhanh tay, thầm nghĩ người trên chiến thuyền cổ mấy trăm năm tuổi chắc chắn chẳng phải hạng tử tế gì, bèn nhắm thẳng vào người kia, nổ liền hai phát súng.
Dương Hoài Ngọc cũng tắt đèn pin, giơ súng liên thanh quét một tràng, phát nào cũng trúng mục tiêu, đạn ghim vào thân thể phầm phập.
Vương Uy lách người tiến vào phòng, Dương Hoài Ngọc ở phía sau bật đèn pin soi, luồng sáng chói mắt rọi thẳng vào người kia, chỉ thấy kẻ đó đang quay lưng về phía hai người, mình vận chiếc áo dài có hoa văn kỳ lân mai hoa, đầu đội mũ cánh chuồn lụa đen.
Vương Uy và Dương Hoài Ngọc nhìn nhau, thì ra đó là một xác chết đã mấy trăm năm, hèn gì trúng nhiều đạn như vậy mà không chảy một giọt máu.
Hai người đi vòng lên phái trước, thấy khuôn mặt cái xác đã khô hết nước, chỉ còn lại cái đầu lâu bọc da nhăn nheo, trông thật ghê sợ.
Nhưng lạ lùng là, tại sao người này lại chết đứng? Nếu là người bình thường, dù đột tử do bệnh tim mạch chắc hẳn cũng sẽ ngã lăn ra chết, lẽ nào cái xác từ thời nhà Minh này vẫn đứng trong phòng suốt năm trăm năm qua? Chẳng phải quá ly kỳ sao?
Hơn nữa, chiến thuyền cổ này đi dưới dòng sông ngầm năm trăm năm, biết bao nhiêu lần gặp gió mạnh, đụng vào bờ đê hay đá ngầm, hoặc rơi vào vùng nước xiết, khó tránh khỏi chao đảo, tại sao cái xác này vẫn đứng vững?
Vương Uy và Dương Hoài Ngọc đều không hiểu, cả hai đi quanh quan sát cái xác vô số lần vẫn chẳng tìm được nguyên nhân, lòng vô cùng thắc mắc.
Bỗng Vương Uy nói:
– Cô Ngọc, cô có thấy tư thế đứng của người này giống hệt bức bích họa trong địa lao phủ bối lặc mà bác Tôn kể không?
Dương Hoài Ngọc nhìn phía sau cái xác, nhớ lại bản sao của bức bích họa mà lão Tôn cho cô xem, toàn thân chợt toát mồ hôi lạnh.
Nhìn sau lưng, cái xác này giống hệt vị quốc vương Lạp Cách Nhật trong tranh, dường như cũng đang đứng quay lưng về phía quần thần, nghe các quần thần báo cáo, thật khó hiểu. Không những tư thế, dáng vẻ, thần thái sống động giống hệt quốc vương Lạp Cách Nhật, mà thậm chí cả khí thế oai phong chấn nhiếp quần thần cũng như đúc một khuôn.
Quốc vương Lạp Cách Nhật có liên quan gì đến chiến thuyền cổ thời Minh trôi trên dòng sông ngầm này? Tại sao vị quan triều Minh này lúc chết lại giống quốc vương Lạp Cách Nhật đến vậy?
Cánh tay cầm đèn pin của Dương Hoài Ngọc run run, Vương Uy cũng nhận thấy vẻ không ổn của cô ta. Đáp án đã rõ, vị quan triều Minh chết đứng này nhất định có mối quan hệ thần bí nào đó với vương triều Lạp Cách Nhật trong truyền thuyết.
Vương Uy dời mắt khỏi cái xác, thấy gần đó có một chiếc bàn dài, bên trên đầy đủ bút giấy, nghiên mực. Một xấp giấy đã ố vàng chặn dưới nghiên mực, trên giấy viết đầy những chữ. Anh bất giác “ồ” lên một tiếng, lại gần bên bàn xem xét. Nghe Vương Uy buột miệng ồ lên, Dương Hoài Ngọc cũng sực tỉnh.
Vương Uy cầm tệp giấy đã ố vàng lên, chỉ thấy chữ trên đó viết theo thể chữ khải, ghi lại toàn bộ những điều sâu xa, nét chữ đẹp mà không lả lướt, rắn rỏi mà nắn nót, có thể coi như hàng thượng phẩm trong thư pháp. Thuở nhỏ Vương Uy học thầy giáo riêng ở nhà, ông nội của anh từng mời một ông thầy nổi tiếng nhất kinh thành về dạy cho anh nên về thư pháp, Vương Uy khá có bài bản, cũng xem như có trình độ.

Đọc xong mấy chục trang giấy ấy, Vương Uy sợ toát mồ hôi, lòng cũng trầm hẳn xuống, quả nhiên nơi đây là một thung lũng chết, hơn nữa còn là đất dữ trong phong thủy nghìn năm hiếm gặp.
Đại ý nội dung trên giấy nói vị này là quan lớn nhất phẩm của triều Minh dưới thời Vạn Lịch, họ Trương, tên Tử Thông, tên chữ là Dữ Chi, về dòng dõi của ông ta, có thể truy nguyên về tận hoàng đế khai quốc triều Minh Chu Nguyên Chương, cụ tổ ông ta từng theo Chu Nguyên Chương dánh dẹp, giành được đến nửa giang sơn Đại Minh, về sau mới cởi giáp, từ bỏ binh quyền làm một quan văn. Từ đời cụ tổ trở đi, họ Trương đời đời đều có người làm quan lớn trong triều đình, trung lương chính trực, bản thân ông ta cũng đậu võ trạng nguyên vào năm Vạn Lịch thứ hai mươi mốt, có công dẹp loạn, được phong làm Trấn Đông đại tướng quân, hàm nhất phẩm.
Vạn Lịch năm thứ ba mươi mốt, tức là mười năm sau, Vạn Lịch hoàng đế Chu Dực Quân bỗng lâm bệnh lạ, các vị ngự y trong triều dùng đủ mọi cách vẫn không chữa khỏi. Không còn cách nào khác, trong cung đành phải hạ thánh chỉ, chiêu mộ thần y trong thiên hạ để chữa khỏi bệnh cho hoàng đế. Lúc ấy, một vị lạt ma người Tạng vào cung, vừa thấy bệnh tình của hoàng đế, ông liền bảo sẽ chữa khỏi, rồi kê mấy phương thuốc lạ lùng, nào ngờ lại trị lành được cho Vạn Lịch Thần Tông hoàng đế.
Hoàng đế khỏi bệnh, phong thưởng cho lạt ma không biết bao nhiêu là vàng bạc châu báu, nhưng lạt ma nhất mực từ chối. Hoàng đế lấy làm lạ, nói rằng vị lạt ma là ân nhân cứu mạng của mình, bách tính thường dân còn biết đạo lý mang ơn phải báo đáp, thân là cửu ngũ chí tôn, càng phải làm gương cho thiên hạ.
Vị lạt ma không từ chối nổi, đành yêu cầu nhà vua giúp ông ta làm một việc, còn ngọc ngà châu báu, quan to lộc lớn ông ta không hứng thú. Vị lạt ma lấy từ trong bọc ra một tấm bản đồ dơ dáy, đưa cho hoàng đế xem, rồi rỉ tai nói nhỏ mấy câu, Vạn Lịch hoàng đế lập tức biến sắc mặt, truyền lệnh bãi triều.
Trương Tử Thông không biết vị lạt ma kia nói gì với hoàng đế, nhưng sau buổi chầu đó, Vạn Lịch hoàng đế liền mấy hôm không thượng triều, chỉ ở trong cung mật đàm với vị lạt ma
Bốn ngày sau, Vạn Lịch hoàng đế ra một mật chỉ, phong cho Trương Tử Thông làm khâm sai đại thần, phái một nghìn ngự lâm quân cùng bốn nghìn quan quân Tứ Xuyên tiến vào Tây Tạng, dựng chùa ở phía Tây Nam, ban danh Phong Đô.
Trương Tử Thông đem năm nghìn quân vào Tây Tạng, mất một tháng để xây chùa Phong Đô, sau đó dựa theo tấm bản đồ thần bí mà Vạn Lịch hoàng đế ban cho, tiến sâu vào vùng núi tuyết, thuận lợi tìm được hang động khổng lồ dưới lòng đất này.
Trong triều, Trương Tử Thông được phong làm nhất phẩm đại thần, Trấn Đông đại tướng quân, nhưng thực tế ông ta còn có một thân phận đặc biệt khác, đây là bí mật mà trong triều ngoài nội không ai biết, chỉ trừ Vạn Lịch hoàng đế. Thân phận đặc biệt đó là Ngự Dụng quốc sư của Vạn Lịch hoàng đế, chuyên tìm long mạch, chọn huyệt vị, phân tích địa thế long mạch khắp thiên hạ.
Trương Tử Thông tiến vào vùng núi tuyết, bị địa thế long mạch ở đây trấn trụ, chỉ thấy long mạch phía Nam bắt nguồn từ núi Côn Lôn, thế đi rất hiểm, đến núi tuyết Đường Cổ Lạp thì rơi vào vùng đất dữ kìm hãm long mạch nên bị vùi lấp dưới lòng đất. Mà hang động ngầm dưới đất này theo truyền thuyết lại đứng đầu trong số mười vạn thế đất hung hiểm, là Bối long âm khư, dương khí không vào được, âm khí không ra được. Kỳ dị hơn nữa là, tấm bản đồ vẽ đến đây thì bỏ trống quãng giữa, các phần sau không có liên hệ gì cả.
Muốn hoàn thành mật lệnh của Vạn Lịch hoàng đế phải nghĩ cách phá được Bối long âm khư. Trương Tử Thông tụt xuống hang động ngầm, phát hiện ra dưới này là một biển nước mênh mông, tuyết từ trên núi chảy xuống ngập cả hang, nước sâu quá sức tưởng tượng. Quan trọng hơn, cái hang này vốn là đất chí âm, nước ngập cả đôi mắt rồng của Bối long âm khư, không thấy mắt rồng nghĩa là không có cách nào phá nổi tuyệt địa phong thủy Bối long âm khư.
Trương Tử Thông cho năm nghìn quân đóng ở khe núi lớn rồi một mình xuống thám hiểm hang sâu. Hơn một tháng sau, qua nhiều lần cân nhắc, ông ta quyết định làm một việc kinh thiên động địa là ngăn nước chặn dòng, quây biển nước dưới lòng đất này lại, đắp một con đê lớn,tạo thành một bờ ngăn nước, để một phần âm khí chìm xuống đáy sâu, một phần ở trong không khí, hình thành địa thế âm dương phân cách. Bối long âm khư thuộc âm, một khi nằm giữa hồ nước sẽ biến thành vô hình, chỉ có rót dương khí vào mới có thể làm cho âm khư hiện hình.
Trương Tử Thông chỉ huy năm nghìn người chặn đứng mấy đường thủy đạo chủ yếu chảy vào hang sâu, hao tốn năm năm xây lên một con đê lớn dài mười mấy cây số trong hang. Trong năm năm đó, tại hang này đã xảy ra nhiều sự việc khác thường, năm nghìn quân sĩ cũng hi sinh không ít, tổn thất rất nặng nề.
Đắp xong con đê, để tiện qun sát toàn cảnh con sông ngầm, Trương Tử Thông lại ra lệnh đóng chiến thuyền cổ mười tám mái chèo này. Trong quân chẳng thiếu thợ khéo, họ nhanh chóng hoàn thành chiến thuyền, Trương Tử Thông chọn ngày hoàng đạo, thân chinh dẫn năm chục tướng sĩ dong thuyền thám hiểm sông ngầm.
Trương Tử Thông từ nhỏ đã luyện được đôi mắt có thể nhìn thấu âm dương, trong thấy đôi mắt rồng của Bối long âm khư. Ông ta chỉ huy chiến thuyền tiến vào dòng sông ngầm, không khỏi kinh ngạc trước sự rộng lớn của thủy vực, thậm chí có thể coi nơi này là đại dương dưới lòng đất, hang động do con đê của ông ta vây lại tạo thành, chỉ bằng một góc so với thủy vực rộng lớn này thôi.
Trong khi tuần tra thủy vực, Trương Tử Thông phát hiện thấy đôi mắt rồng của Bối long âm khư trên mặt nước, ông ta đã rất kích động, cho rằng biện pháp phân cách thủy vực âm dương của mình đã có hiệu quả, bèn thân chinh chỉ huy chiến thuyền đuổi theo đôi mắt rồng kia.
Bấy giờ Trương Tử Thông đã hoàn toàn rơi vào trạng thái điên cuồng, ông ta chỉ huy chiến thuyền đuổi theo đôi mắt rồng của Bối long âm khư hơn một tháng mà chẳng thu được kết quả gì. Ngay sau đó lại xảy ra một sự việc nghiêm trọng hơn, tướng sĩ trên thuyền cứ lần lượt chết đi, hết người này tới người khác, khiến ông ta phải ra lệnh cho thuộc hạ điều tra rõ ngọn ngành.
Nhưng bất kể Trương Tử Thông dùng cách nào đi nữa, người trên chiến thuyền vẫn cứ chết dần chết mòn, không cách gì ngăn nổi, quân sĩ trên thuyền chết đi, lại phải lấy thêm người trên bờ bổ sung. Cho đến một hôm, năm nghìn quân của Trương Tử Thông đưa đến chỉ còn lại năm mươi người cuối cùng trên thuyền, ông ta mới nhận ra thời gian của mình không còn nhiều, liền bắt tay ghi chép lại những gì đã trải qua dưới hang ngầm này.
Ông ta giam mình trong phòng nghị sự, hằng ngày chỉ nghe phó tướng đến báo cáo có thêm bao nhiêu người chết, bỗng một hôm, ông ta phát hiện ra bí mật trong chuyện này. Thì ra trong số bọn họ có một thứ đang ẩn náu, ông ta không trông thấy, cũng không biết nó là gì, nhưng có thể khẳng định thứ đó đang trà trộn giữa bọn họ, bất cứ lúc nào cũng có thể âm thầm quan sát tất cả hành động của bọn họ.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.