Mắt âm dương

Chương 11 phần 3


Bạn đang đọc Mắt âm dương – Chương 11 phần 3

Vương Uy nhìn vẻ bực tức của Dương Hoài Ngọc, vội thuật lại với cô tình cảnh mình vừa thấy trong cỗ quan tài đá. Dương Hoài Ngọc hỏi:
– Anh làm việc không biết cân nhắc lớn nhỏ, nặng nhẹ, thế mà cũng làm sĩ quan, hèn nào chẳng thua trận. Anh có biết hành vi tồi tệ của mình đã gây tổn thất lớn chừng nào cho đội thám hiểm không?
Bị Dương Hoài Ngọc mắng ột chập, Vương Uy không khỏi chạnh lòng, tốt xấu gì anh cũng là tiểu đoàn trưởng quân đoàn 24 quân đội Tứ Xuyên, đại đội trưởng đại đội cảnh vệ, bị một ả tây lai mắng mỏ, quả thật không thể chịu nổi. Hơn nữa, các anh em của anh bị giết chết, anh đi tìm hung thủ thì có gì sai? Trong trường hợp nào đi nữa, chuyện này cũng hết sức thấu tình đạt lý.
Vương Uy nói:
– Cô Ngọc, tôi không thích nghe những lời này của cô. Quân Tứ Xuyên của tôi có một quy định là luôn đặt nghĩa khí lên hàng đầu, anh em còn hơn cả chỉ huy, bất cứ việc gì cũng phải nghĩ cho anh em, uống rượu phải để anh em ăn thịt trước, tìm gái phải nhường anh em chọn cô chân nhỏ, lẽ nào cô chưa nghe qua?
Dương Hoài Ngọc hắng giọng, nói:
– Tôi chỉ nghe nói quân Tứ Xuyên đánh mười trận thì thua chín.
Thấy ngọn đèn kia sắp biến mất, Vương Uy chẳng buồn cãi nhau với Dương Hoài Ngọc, liền ngậm quai xách đèn bão leo lên trước. Dương Hoài Ngọc xưa nay kiêu căng ngạo mạn, chỉ phục mỗi lão Tôn, nào có coi một đại đội trưởng quân Tứ Xuyên bại trận như Vương Uy ra gì, bèn nổi giận quát Vương Uy đứng lại.
Vương Uy mặc kệ cô ta, cứ thoăn thoắt leo lên cao. Thấy Vương Uy định bỏ đi, Dương Hoài Ngọc nào chịu tha, cũng ngậm cây đèn bão đuổi theo.
Hai người một trước một sau, leo đến nỗi tay chân mỏi rời, lòng bàn tay bê bết máu, đầy vết thương bị đá cào rách, khó khăn lắm mới leo lên đến đầu mút của trụ đá.
Đầu mút của trụ đá nối liền với vòm hang, bên trên bị chắn ngang bởi vô vàn những tảng đá lổn nhổn, lộn xộn đầy đá vỡ, trụ đá, mỏm đá đủ cả. Vương Uy tìm được một lỗ hổng do đá sụt, liền chui vào, lỗ hổng khá rộng, đủ ấy người cùng chui lọt, là một hang động thẳng đứng thông thẳng từ dưới lên trên. Anh thò nửa người vào, nắm lấy hai mỏm đá vướng trong đó, thấy cả hai đều lung lay lỏng lẻo, cát và đá vụn từ trong khe đá rào rào trút xuống. Hình như hốc đá này đã bị sụt lún không chỉ một vài lần, rất nhiều mỏm đá nhô ra đều lung lay như răng bà lão, chỉ cần khẽ đụng là rơi xuống, làm sao chịu nổi sức nặng của cơ thể người.
Nhưng trước mắt chỉ có duy nhất một lối thoát này, hơn nữa giờ đây họ đang sắp kiệt sức, nếu cứ tiếp tục dây dưa trên trụ đá thì chỉ có thể buông tay rơi xuống vực sâu. Vương Uy để Dương Hoài Ngọc chờ ở dưới, anh nghiến răng, nắm lấy hai mỏm đá tương đối vững chắc, cố sức đu người lên, rồi lại thoăn thoắt chuyển sang mỏm đá khác đủ sức chống chịu trọng lượng cơ thể, khiến bụi đất trong hốc bay mù cả lên, cửa hang lại lở thêm một mảng nữa, anh mới bò được lên trên.
Cái hang này dài đến hơn chục mét, anh leo lên mới biết phía trên là một khoảng không, bèn thả dây thừng xuống, kéo Dương Hoài Ngọc lên.
Hai người nằm trên mặt đất nhớ lại những nguy hiểm vừa rồi mà kinh hãi. Họ đã mất hết sức lực, bải hoải nằm lăn ra đất một lúc lâu mới hồi lại được.
Hai người ăn uống chút ít, thể lực cũng hồi phục kha khá. Lúc này cả hai bắt đầu bất đồng ý kiến, Vương Uy kiên quyết đòi lần theo ngọn đèn mất tích kia, nhưng Dương Hoài Ngọc khăng khăng muốn chờ lão Tôn và những người khác trong đội thám hiểm, bởi một khi lạc đội trong hang động nằm sâu dưới lòng đất này, rất có thể sẽ không ra nổi nữa. Vả lại, Dương Hoài Ngọc còn nhấn mạnh lần nữa rằng ngọn đèn đó tuyệt đối không thể là của người trong đội thám hiểm, vì lão Tôn đã ra lệnh ọi người phải đi theo Vương Uy.
Vương Uy cũng tin rằng ngọn đèn ấy không phải là của người trong đội thám hiểm, nhưng nhìn thái độ khăng khăng của Dương Hoài Ngọc, anh thấy rất khó chịu. Sống trong quân ngũ, anh luôn là người dẫn binh đánh trận, đã quen được người khác phục tùng, thấy ả tây lai này kiên quyết như thế, anh nảy ý chống đối, bèn cố tình nói mỗi người trong đội thám hiểm leo lên một trụ đá khác nhau, rất có thể có người không tuân theo kỷ luật, làm ra những chuyện gì đó, việc này không có cách nào bảo đảm cả.
Dương Hoài Ngọc có phần chán nản, lại nhấn mạnh thêm lần nữa rằng cô rất tin những người trong đội thám hiểm.
Vương Uy xua tay, nói:
– Cô tin, tôi không tin, muốn chờ thì cô ở đây mà chờ, tôi đi trước.
Dương Hoài Ngọc tức đến trợn tròn mắt, bừng bừng lửa giận, chỉ muốn ăn tươi nuốt sống Vương Uy. Vương Uy chỉnh lại hành trang, đổ thêm dầu vào đèn rồi tiến sâu vào trong.
Anh đưa mắt nhìn quanh, thoạt đầu vỗn tưởng rằng đây là một hang núi, nhưng đi mãi đi mãi không thấy vách hang và trần hang đâu cả, nơi này giống như một cánh đồng hoang, xung quanh chẳng có bất cứ thứ gì ngăn cản tầm nhìn. Anh kinh ngạc, lẽ nào bọn họ đã ra ngoài rồi sao? Đây là mặt đất mà.
Nhưng ý nghĩ đó nhanh chóng bị anh phủ nhận, nhẩm tính lại đoạn đường đã đi qua, anh chắc chắn nơi này phải sâu dưới lòng đất mấy trăm mét. Nếu đúng là mặt đất, thì đây hẳn là một thung lũng sâu hơn mới phải.
Thủ đoạn của Vương Uy đối với Dương Hoài Ngọc hết sức hữu hiệu, dù Dương Hoài Ngọc hào hển nói gì đi nữa, Vương Uy đều coi như không nghe thấy, cứ đi đường mình, Dương Hoài Ngọc không có cách nào, đành phải đi theo.
Hai người cứ thế tiến về phía trước, đi một đoạn xa bỗng nghe có tiếng ầm ào giống như tiếng nước chảy, nhưng rất khẽ. Hai người lại đi thêm một quãng nữa, tiếng nước chảy nghe rõ hơn, thanh thế kinh người, độ ẩm trong không khí cũng lớn hơn.
Trong đầu Vương Uy cứ quẩn quanh một ý nghĩ, nơi này rất tối, không có chút ánh sáng nào, theo đồng hồ bỏ túi của Dương Hoài Ngọc thì giờ này trên mặt đất đang là buổi trưa, chứng tỏ nơi này phải là một hang động, một hang động lớn kinh
Trong hang có một dòng sông, vì ánh sáng có hạn, họ không thể xác định được con sông ngầm này lớn đến mức nào, chỉ thấy nước sông chảy cuồn cuộn, thế nước rất lớn.

Bỗng Dương Hoài Ngọc nói:
– Không đúng, lẽ nào đây là sơn động mà Lý Quang và Vương Đại Vượng tiến vào? Họ bị đám lính mặc quân phục vàng dẫn dụ vào hang động này hay sao?
Vương Uy cũng nghĩ nơi này rất giống với những gì mà hai người kia kể lại, nhưng sao lần thứ hai họ tiến vào thì lại đi xuống sâu bên dưới?
Lúc đi xuống, đội thám hiểm rất cẩn thận, đã thám sát tất cả mọi thứ xung quanh hang động, nếu có nhánh rẽ hay ngách ngầm thì chắc chắn họ đã thấy, nhưng hang động này lại thông thẳng xuống lòng đất, thật kỳ quặc.
Trong sơn động có một dòng sông vắt ngang, chảy theo hướng Nam Bắc, Vương Uy và Dương Hoài Ngọc lên bờ đê, nghe tiếng nước sông ầm ầm xô vào bờ điếc cả tai, cả con đê khẽ rung lên vì sóng vỗ.
Vừa nhìn thấy con đê, Vương Uy đã giật mình, con đê lớn như thế này chắc chắn là công trình của con người. Mặt đê cách mặt nước chừng mươi mét, nơi họ đứng đã bị nước xói lở một phần, để lộ những cọc gỗ bên trong. Những cọc gỗ ghép lại thành giá đỡ hình tam giác là phương pháp cổ xưa thường dùng cho những công trình chống lũ, kết cấu này giúp cố định đê điều một cách vững chắc nhất, nước lũ không dễ gì xâm hại được.
Hồi Vương Uy học đại học Yên Kinh anh rất hứng thú với những công trình xây dựng bằng gỗ, cũng đã từng đi sâu nghiên cứu, cho nên vừa thấy con đê này, Vương Uy liền nhận ra ngay điểm bất thường.
Nhưng cho dù con đê này do người cổ đại xây đắp, vậy họ làm một con đê lớn ngăn lũ trong một hang động sâu dưới lòng đất này để làm gì?
Dương Hoài Ngọc cũng vô cùng thắc mắc về điểm này, họ đi dọc bờ đê, vì lâu ngày không được tu bổ nên con đê có nhiều chỗ sạt lở. Hai người đi chừng một dặm, thấy thế nước dần dịu lại, không còn khí thế nuốt chửng sơn hà khi nãy nữa. Vương Uy đoán chừng con sông này từ trên mặt đất đổ xuống, thượng nguồn tương đối hiểm yếu, độ dốc lớn, cho nên thế nước mới chảy mạnh như vậy, đoạn đê chỗ đó cũng hư hại nhiều hơn.
Vương Uy tay xách đèn bão, vừa đi vừa nhìn, bỗng Dương Hoài Ngọc chỉ một hướng phía trong đê, nói:
– Ở kia hình như có người.
Vương Uy kinh ngạc, vội tắt thấy trên bờ đê cách đấy chừng một trăm mét có ánh sáng le lói. Anh rút súng lục, Dương Hoài Ngọc nắm chắc tiểu liên, hai người tách nhau ra, chầm chậm tiến về phái có ánh đèn.
Họ đến gần thì ánh sáng kia phụt tắt, hình như đã bị đối phương phát hiện, hai người bò trên mặt đất, chỉ cách mục tiêu chừng mấy chục mét. Vương Uy nói thầm với Dương Hoài Ngọc vài câu rồi bò lên trước, trườn qua thân đê, cầm một hòn đá to chừng nắm tay ném vào mục tiêu, đồng thời lật mình lăn sang một bên.
Nào ngờ đối phương lại nổ súng ác liệt, hòn đá anh vừa ném đi thì một loạt đạn đã bay vèo qua sau gáy. Vương Uy sợ hãi, ngay một tay lão luyện chiến trường như anh cũng chưa chắc bắn được như thế, kẻ này thật không đơn giản chút nào.
Dương Hoài Ngọc nghe thấy tiếng súng, liền lia về phía ấy hai băng đạn, nhưng đối phương tránh hết được. Tiếp đó Vương Uy nghe thấy tiếng bước chân chạy gấp gáp, đối phương đã lần lên mặt đê, chạy khỏi bờ sông.
Vương Uy liên tiếp bắn theo mấy phát, nhưng đều trượt. Nghe tiếng bước chân, anh liền vùng dậy bám theo tiếng động đó mà chạy thẳng tới phía trước, Dương Hoài Ngọc cũng chạy đến. Lúc bị anh ném đá, đối phương có bắn mấy phát súng, về sau hắn chỉ cố chạy thật nhanh, Vương Uy và Dương Hoài Ngọc bắn theo, nhưng đều không trúng.
Trên đê tối om, không chút ánh sáng, dù đứng đối diện cũng chẳng phát hiện ra trước mặt có người. Đối phương cuống cuồng tháo chạy, vấp phải thứ gì đó, ngã lăn ra đất. Vương Uy nghe thấy tiếng ngã liền tung người chồm tới, đè chặt đối phương xuống đất.
Dương Hoài Ngọc châm đèn lên, chợt ngớ ra, Vương Uy cũng kinh ngạc, thì ra người đang bị họ đè dưới đất chính là lão Tôn.
Vương Uy đứng dậy rời khỏi người lão Tôn, lão nghiến răng nghiến lợi trừng mắt lườm Vương Uy, lầu bầu:
– Võ công gia truyền của họ Vương vùng Quan Đông siêu phàm thật đấy, mấy khúc xương già của lão đây suýt bị anh bẻ gãy rồi.
Vương Uy nói:
– Bác ơi, không thể trách tôi được, ai bảo bác chưa chi đã nổ súng.
Dương Hoài Ngọc cũng lấy làm lạ, nói:
– Bác Tôn, tại sao bác lại ở đây? Các anh em khác đâu cả rồi?
Nghe câu này của Dương Hoài Ngọc, lão Tôn lộ vẻ ủ rũ, lắc đầu lia lịa, nói:

-Hết rồi… hết rồi
Vương Uy lấy làm lạ, hỏi:
– Mọi người đã gặp chuyện gì?
Lão Tôn nói:
– Chỉ có ba anh em leo lên được khỏi trụ đá thôi, tôi nghe thấy ở bên dưới liên tiếp vang lên tiếng kêu thảm thiết, đau lòng lắm!
Dương Hoài Ngọc cau mày, nói:
– Anh em trong đội thám hiểm hoặc là người tài trong dân gian, hoặc đã theo chúng ta dọc ngang trên biển bao nhiêu năm, leo lên cây trụ đá ấy, đáng ra cũng chẳng phải chuyện gì to tát, tại sao lại tổn thất thê thảm nhường này?
Lão Tôn lắc đầu:
– Cô không biết đấy, tôi chẳng những nghe tiếng các anh em kêu thảm thiết mà còn nghe thấy những âm thanh đáng sợ hơn nhiều.
Ngập ngừng giây lát, lão Tôn kể tiếp:
– Có tiếng gì đó ầm ù như sấm rền.
Vương Uy chợt nhớ đến những cái xác có dấu hoa mai của người trong đội thám hiểm nơi bãi cỏ trong khe núi, con quái vật ấy theo đến tận đây cơ à?
Theo lời lão Tôn, khi nghe thấy tiếng ầm ù, lão vội tắt phụt đèn đi, trong khoảnh khắc ánh đèn vụt tắt, lão trông thấy một bóng đen khổng lồ đâm bổ về phía mình, nhưng cái bóng ấy không đầu không tay chân, chẳng biết là thứ gì nữa.
Vương Uy nghe mà cũng thấy quái lạ, không đầu không chân làm sao có thể đến rồi đi như sấm sét được? Hơn nữa, trụ đá ấy sừng sững đứng thẳng giữa không trung, trừ những giống có cánh ra, trong đám thú hoang cũng chỉ có loài khỉ mới leo lên nổi. Thứ này lại không có tứ chi, làm sao có thể vụt đến rồi vụt rời khỏi trụ đá nhanh như chớp, lúc chạy đi còn phát ra âm thanh như sấm rền được?
Anh nhìn lão Tôn, nhưng ông ta không có vẻ gì là đang nói dối cả.
Lão Tôn từ trụ đá trèo lên hang động khổng lồ này, vừa khéo lại nhô lên ngay đằng trước Vương Uy là vì các trụ đá xếp thành một hàng chữ nhất, cây trụ đá mà lão Tôn leo lên lại ở ngay trước cây của Vương Uy. Lão cùng ba người trong đội thám hiểm lên đến mặt hang, sẵn dịp tìm thấy con sông ngầm, Lý Quang và Đại Vượng từng đến đây rồi, nhưng Lý Quang đã từ trên trụ đá ngã xuống, chỉ có Đại Vượng lên được tới đây.
Đại Vượng vừa thấy địa hình này, liền xác nhận đây chính là nơi anh ta đã đến, con sông ngầm kia cũng không sai, chắc chắn là nơi này rồi. Mấy người cùng lên đê, thấy chân đê có mấy ánh đuốc bập bùng, họ đứng từ xa trông lại, thấy bên cạnh những bó đuốc hình như còn có một con thuyền.
Tất cả đang thắc mắc, bàn nhau có nên đến xem hay không, nào ngờ bị người ta bắn lén từ phía sau, ba đội viên còn lại trong đội thám hiểm thì hai người chết ngay tại chỗ, Đại Vượng bị thương, lão Tôn cùng anh ta tháo chạy về phía có ánh đuốc, chợt thấy hơn chục người mặc quân phục màu vàng từ trên thuyền bước xuống, tay cầm tiểu liên bắn xối xả. Đại Vượng chết ngay tại chỗ, còn lão Tôn lẩn vào bóng tối, thoát được.
Vương Uy ngạc nhiên:
– Chẳng phải chỉ có ba người ư, sao lại biến thành hơn chục người?
Lão Tôn ngậm tẩu thuốc, rít mạnh một hơi, nói:
– Nào phải chỉ hơn chục người, tôi trông thấy những tên nấp trong bóng tối bắn lén kia lên thuyền, ít nhất cũng phải mấy chục người. Tôi đây cả đời ngang dọc trên biển, bị mấy nước bao vây tiêu diệt cũng không thua thảm hại như thế này, người ta vẫn nói khỉ biển lên bờ thế nào cũng bị chặt đuôi, quả không sai chút nào.
Vương Uy và Dương Hoài Ngọc không dám tin vào tai mình nữa, đông lính áo vàng như vậy thật là không thể tưởng tượng nổi, chẳng nhẽ đám lính trộm mộ của Mã Văn Ninh đã sống dưới lòng đất này mười mấy năm nay?

Lão Tôn nói:
– Tôi nấp trong bóng tối, đám lính mặc quân phục vàng kia không đuổi theo, tất cả đều lên một chiếc thuyền lớn bỏ đi. – Chắc chúng có việc gì quan trọng cần kíp, không còn lòng dạ nào mà tham đánh nữa. –Vương Uy nói.
Lão Tôn rít thuốc, đưa mắt nhìn Vương Uy và Dương Hoài Ngọc, nói:
– Đợi chiếc thuyền lớn kia đi rồi, tôi đến xem chỗ thuyền đậu, té ra đó là một bến thuyền nhỏ, lương thực vũ khí đầy đủ, dưới chân đê còn có một căn nhà kho rất lớn, tôi dòm qua khe cửa thấy bên trong có rất nhiều đồ quân dụng.
Vương Uy ngạc nhiên, nghĩ bụng đám quân đào trộm mộ của Mã Văn Ninh xây dựng bến thuyền nơi con đê này để làm gì? Chẳng phải Mã Văn Ninh định đem cỗ quan tài đá đó đến một nơi rất thần bí hay sao? Tại sao lại xuống tận hang động nằm sâu dưới lòng đất này xây bến, đóng thuyền? Rốt cuộc bọn chúng đang làm gì đây?
Dương Hoài Ngọc nãy giờ chỉ nghe lão Tôn thuật lại sự việc, lúc này mới chen vào:
– Bác Tôn, có phải lúc rồi bác đang ở bến thuyền dưới chân đê kia không?
Lão Tôn gật đầu:
– Tôi đang kiểm tra bến thuyền thì cô với anh Uy đến làm rối lên, chúng ta cùng đến đấy xem sao.
Ba người cùng đi xuống chân đê, chân đê lát đầy những phiến đá lớn, dãy đá lát sát mép nước cắm một hàng cọc gỗ, hẳn là để buộc thuyền. Dưới chân đê trổ hai cánh cửa, trên cửa có khóa, Vương Uy bắn vỡ ổ khóa, mở cửa ra, thấy không gian bên trong rất rộng. Những bó đuốc cắm trên bến đều được tẩm đầy dầu, cháy lên sẽ rất đượm, phạm vi chiếu sáng rộng gấp mấy lần đèn bão, Vương uy liền tiện tay rút một bó.
Trong kho xếp đầy ván gỗ, củi chất thành một đống, lại có rất nhiều dụng cụ đóng thuyền và đồ quân giới, Vương Uy đi một vòng quanh nhà kho, bỗng nói với lão Tôn:
– Bác Tôn, bác không phát hiện thấy ở đây có gì khác thường ư?
Lão Tôn mở trừng hai mắt, mặt đanh lại, đây là vẻ mặt nghiêm túc thường thấy ở lão, thấy bộ dạng này, những người quen biết lão liền hiểu sắp có chuyện hệ trọng.
Lão Tôn gật đầu:
– Anh cũng nhận ra rồi à?
– Cái kho này bị bỏ hoang nhiều năm nay rồi. – Vương Uy nói, đoạn lại chỉ vào một góc nhà kho:
– Đây là nơi họ thổi nấu, bác xem, trong nồi có một đám đen đen, đấy là do sau khi cơm chín rồi, bị để rất lâu tạo thành, bây giờ đã cứng lại như đầu đạn. Nếu cái kho này vẫn được sử dụng, nồi niêu xoong chảo của họ đâu thể để như thế này.
Lão Tôn gật đầu, tỏ vẻ đồng tình với cách nhìn nhận của Vương Uy. Hang dộng này rộng mênh mông, rất có thể là cứ điểm của bọn lính áo vàng, nhưng rõ ràng bọn chúng đã đến đây, sao lại bỏ hoang không dùng tới nhà kho?
Vương Uy hỏi lão Tôn:
– Bác Tôn, bó đuốc kia vẫn cháy liên tục đấy à?
Lão Tôn lắc đầu:
– Tôi nấp trong bóng tối thấy bọn lính áo vàng lên thuyền xong đều dập tắt đuốc, tôi vừa mới thắp lại đấy.
Vương Uy hít vào một hơi, bỗng cảm thấy cái kho hoang phế này hình như rất ngột ngạt, toát lên một cảm giác khiến người ta nghẹt thở. Anh nhìn lão Tôn, nói:
– Bác Tôn, bác có nghĩ đám lính áo vàng bác vừa thấy, rất có khả năng không phải là người không?
Lão Tôn ngừng rít thuốc, ngờ vực nhìn Vương Uy:
– Sao anh lại nói vậy?
– Vừa rồi bác nói bọn họ thắp mấy bó đuốc, nhưng lúc tôi xuống chỉ thấy một bó đuốc của bác thắp, còn những bó đuốc cắm trên giá kia đều đã cũ, không có dấu vết gì là từng được thắp.
Dương Hoài Ngọc cũng mở trừng mắt, rõ ràng cô ta cũng để ý đến điểm này, có điều chưa nghĩ được kỹ càng mà thôi. Lão Tôn sa sầm nét mặt, hiển nhiên trong lòng lão cũng đang dậy sóng. Đời này lão từng giết không biết bao nhiêu người, thấy không biết bao nhiêu sự việc lạ lùng, nhưng lần này thì lão cảm thấy hồ đồ thật sự, không hiểu ra sao cả. Lão tin mình đã trông thấy một toán người sống, nhưng những gì bày ra trước mắt đây lại không thể giải thích nổi.
Vương Uy nói:

– Tình hình này có thể có hai khả năng, thứ nhất là bác nhìn nhầm, hoặc bác nói nhầm; thứ hai là bọn họ không phải người sống.
Lão Tôn cười:
– Đời tôi đã quen sống trên đầu dao mũi kiếm, còn chưa tới nỗi sợ đến hồ đồ. Bọn lính áo vàng kia chắc chắn là có thực, tôi tận mắt thấy từng chi tiết, nếu không bọn Đại Vượng sao lại chết chứ?
Nghe lão Tôn nói như vậy Vương Uy sực nhớ ra bọn học chưa hề thấy xác chết của nhóm Đại Vượng, bèn lập tức rời khỏi nhà kho, chạy lên đê, quả nhiên thấy có hai xác chết nằm bên vệ đê, trên mỗi cái xác có ít nhất hơn chục lỗ đạn, xác Đại Vượng càng thảm hại hơn, khắp người đầy lỗ đạn, lúc chết mặt còn co rúm lại.
Lão Tôn đứng trên đê, quát lên với Vương Uy:
– Anh Uy, chúng đều là người phải không, chúng là lính đào mộ của Mã Văn Ninh sống dưới lòng đất này hơn chục năm nay, tôi không nhìn nhầm mà.
Vương Uy nhất thời không biết nói gì, người chết nổ súng bắn người sống, đó là chuyện không thể, ít nhất trong suy nghĩ của anh không thể tồn tại chuyện như vậy được. Nhưng nhà kho bỏ hoang bao năm nay và bến thuyền chỉ thắp một bó đuốc là gì đây?
Trong nhà kho ba người còn phát hiện một chiếc thuyền gỗ lớn, đại khái có thể chở hơn chục người, thuyền được đặt trên giá gỗ, bên trên còn che bạt chống thấm. Cả ba người bàn bạc, đều thấy muốn chứng minh xem đám lính đào trộm mộ đông như thế có thực hay không, cách duy nhất là đẩy con thuyền này xuống sông ngầm, lên thuyền đi tìm chiếc thuyền lớn mà toán lính kia đã lên.
Trong kho có một con lạch dẫn nước từ sông ngầm vào, ba người liền xô đổ giá để thuyền, con thuyền trôi ngay xuống nước. Vương Uy và Dương Hoài Ngọc bê một số dụng cụ cần thiết lên thuyền, lão Tôn bẻ lái, Vương Uy và Dương Hoài Ngọc đẩy đuôi thuyền, từ từ ra khỏi nhà kho, tiến vào lạch nước. Vương Uy đóng cửa nhà kho lại, ba người cùng lên thuyền, mỗi người một tay chèo, chèo lái con thuyền tiến vào dòng sông ngầm, trước mũi thuyền cắm một bó đuốc chiếu sáng.
Con thuyền xé toang bóng tối hướng thẳng ra giữa dòng, khúc sông này lặng sóng, thuyền đi mãi không thấy đâu là bờ bên kia, khiến cả ba người lấy làm lạ.
Con thuyền gỗ của họ đi giữa bóng tối mênh mông, không định được phương hướng, không biết đi đâu về đâu, mà cũng không thấy tung tích con thuyền của bọn lính kia ở đâu.
Vương Uy đứng trước mũi thuyền nhìn bóng tói mênh mông, chợt anh cau mày, thấy hình như xa xa phía trước thuyền kia có hai đốm sáng lập lòe. Anh hô lão Tôn và Dương Hoài Ngọc chèo nhanh hơn, con thuyền lao vút vào bóng tối. Vương Uy càng nhìn hai đốm sáng kia càng thấy quen, rất giống với hai đốm sáng xanh như mắt mèo ở dưới lòng đất, cũng chính là Bối long âm khư mà lão Tôn nói, nhưng lần này có vẻ thứ đó trông mơ hồ hơn, thậm chí không thể xác định nổi đấy là hai hay một đốm sáng.
Vương Uy hỏi lão Tôn có trông thấy đốm sáng kia không, lão ngơ ngác nhìn hồi lâu rồi lắc đầu:
– Nghe anh nói thì hẳn là Bối long âm khư. Cái đó chỉ có đôi mắt nhìn thấu âm dương mới trông thấy, mắt chúng tôi không thấy được đâu.
– Cái đó ở dưới lòng đất kia mà, sao giờ lại thấy trên sông? – Vương Uy hỏi.
Lão Tôn vừa chèo thuyền vừa nói:
– Anh Uy, anh không biết đấy thôi, Bối long âm khư đứng đầu trong mười vạn tử huyệt được ghi chép trong bí quyết tầm long, hàng ngàn năm nay, hiếm có người trông thấy. Hai con mắt rồng của Bối Long âm khư chập chờn vô định, không có hình tướng, song đó lại chính là địa nhãn phong thủy để phá vỡ tử cốc. Chỉ cần có thể tìm thấy nơi khư khí của Bối long âm khư ngưng kết là có thể tìm được địa nhãn của tử cốc này. Đến đây thì mọi manh mối liên quan đến vương triều Lạp Cách Nhật đều đứt đoạn cả rồi. Tôi mạnh dạn đoán chừng, địa nhãn tử cốc nghìn năm tuyệt mật này rất có thể là nơi cất giấu những bí mật về vương triều Lạp Cách Nhật, cho nên nhất định phải phá Bối long âm khư.
Nghe Lão Tôn nói, Vương Uy cũng đại khái hiểu ra Bối long âm khư là gì. Chiếc thuyền họ đang ngồi có cấu tạo rất đặc biệt, mũi thuyền đằng trước vô cùng hẹp, bên ngoài bọc sắt tây, rất giống với thuyền xung kích dùng khi đánh trận, lúc chèo cứ nhanh vun vút, như mũi tên vừa rời cung.
Vương Uy đứng trên sàn thuyền chỉ huy hướng đi, lão Tôn và Dương Hoài Ngọc ra sức chèo thật nhanh. Nhưng bất luận thuyền chèo nhanh thế nào đi nữa thì đôi mắt mèo xanh lét kia vẫn nằm ở khoảng giữa hỗn độn và chân thực, không có cách nào đến gần. Vương Uy cảm thấy cứ đi thế này cũng chẳng phải cách hay, hai đốm sáng kia không có cách nào xác định được là thật hay là ảo thì làm sao đuổi theo được?
Vương Uy đang chỉ huy cho thuyền đi về hướng Đông, bỗng Dương Hoài Ngọc kêu lên:
– Bác Tôn cẩn thận, phía trước có con thuyền lớn. Vương Uy cũng giật mình, đưa mắt nhìn lại, trông thấy một chiếc thuyền lớn xô tới trước mặt, chiếc thuyền gỗ gần như lướt sát qua mạn con thuyền lớn, hai con thuyền cọ sát nhau vang lên tiếng “sàn sạt” buốt cả óc.
Hai con thuyền lướt sát qua nhau, may sao mũi con thuyền gỗ được bọc một lớp sắt tây dày nên không bị tổn thương, ba người cùng thở phào nhẹ nhõm. Bỗng ánh mắt lão Tôn mờ mịt hẳn, lão trân trân nhìn con thuyền lớn, miệng há hốc không thốt nổi lên lời.
Vương Uy và Dương Hoài Ngọc đều trông thấy gương mặt kinh hoàng của lão Tôn. Chiếc thuyền lớn từ từ lướt qua, trôi về phía bóng tối, trên cột buồm đầu thuyền co treo một ngọn đèn bão lập lòe, còn cả thân thuyền tối om như một con thuyền chết, giống hệt thuyền ma mà những người đi biển thường đồn đại.
Lão Tôn và Dương Hoài Ngọc tung hoành trên vùng biển Đông Nam Á bấy nhiêu năm, chẳng những đã nghe rất nhiều truyền thuyết về thuyền ma, mà còn bắt gặp mấy chiếc như vậy, những con thuyền đó vẫn đi trên biển, thân thuyền vẫn lành nguyên không hề tổn hại, đồ ăn rất đầy đủ, có điều trên thuyền không một bóng người.
Dương Hoài Ngọc phải gọi mấy tiếng lão Tôn mới định thần lại. Cô hỏi:
– Chẳng nhẽ đấy là thuyền của đám lính áo vàng?
Lão Tôn gật đầu, nói:
– Đúng vậy, nhưng con thuyền ấy không bình thường chút nào, lúc tôi thấy bọn chúng lên thuyền, trên thuyền đèn đuốc sáng trưng như ngày tết vậy, sao giờ lại chỉ còn một ngọn đèn bão?
Con thuyền lớn ấy mỗi chiều phải đến mấy chục trượng, thoạt nhìn đã thấy có mấy tầng, có vẻ là chiến thuyền thời cổ đại dùng để ra khơi, trong khoang thuyền có tới mười tám tay chèo, tính cơ động rất cao. Ngày xưa, Tam Bảo thái giám Trịnh Hoài đi Tương cũng dùng loại chiến thuyền này. Dương Hoài Ngọc từng thấy một con thuyền cổ như thế này ở làng chài, nghe nói nó bị sóng biển xô dạt lên bờ.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.