Ly Uyên

Chương 19: Đông Dao | 2


Đọc truyện Ly Uyên – Chương 19: Đông Dao | 2

BÔNG TUYẾT LƯA THƯA BAY TỪ TRỜI RƠI XUỐNG, Y DÙNG HẾT THỊ LỰC VẪN KHÔNG NHÌN THẤY NƠI CÓ NGƯỜI ẤY, CHỈ BIẾT RẰNG DÙ CÓ RA SAO ĐỀU PHẢI TRỞ VỀ BÊN CẠNH NGƯỜI.

________________________________________________________________________________

Hành động của quân Niễn Trần ý đồ tiếp tứng quân Trịnh thực ra chính là xông vào vòng vây đã thành hình của quân Ngụy. Viên Duẫn Đàn cũng sử dụng đa số là kỵ binh, so với Khinh kỵ Niễn Trần, kỵ binh của quân Ngụy mặc áo giáp dày hơn, đa phần không thích hợp dùng cung tên mà sử dụng cùng một loại thương, mâu, thuẫn giống với bộ binh. Tốc độ của họ cũng kém hơn quân niễn trần. Nhìn từ một góc độ khác, họ ít dựa vào chiến mã hơn quân Niễn Trần.

So với mong muốn của Viên Duẫn Đàn, Thiệu Dương đến sớm hơn một chút nhưng không hoàn toàn nằm ngoài dự đoán. Viên Duẫn Đàn cũng không chờ đợi phải giao phong chính diện ở hậu phương, nhưng sẽ là một hy vọng rất xa vời nếu muốn nắm bắt toàn bộ cục diện chiến trận trong tay trước khi quân Tề phát hiện ra. Vị thống soái của quân Tề có khả năng phân tích và phán đoán vượt xa tuổi tác của y, mà khả năng nắm thời cơ chiến đấu rất chuẩn cũng không phải là điều người bình thường có thể với tới. Mỗi một lần đấu với Thiệu Dương đều như đánh một ván cờ được tính toán hoàn hảo, cả hai bên đều muốn lợi dụng tối đa ưu thế của quân mình, lại suy đoán từ hành động của đối phương mà có sự lựa chọn hợp lý nhất. Loại giao chiến này rất kỳ dị, mỗi một lần xuất binh hay rút quân đều nằm trong vòng tính toán của đối phương, còn thứ nằm ngoài dự đoán chính là kết thúc của cuộc chiến tranh, vốn được quyết định từ những sự kiện ngẫu nhiên mà con người không thể khống chế.

Viên Duẫn Đàn thấy Niễn Trần đến, hạ mệnh lệnh đầu tiên cho một nửa quân lính bỏ ngựa đi bộ áp sát. Thiệu Dương nhìn thấy có thay đổi, không có nhiều thời gian để lo lắng, quay đầu nói ba chữ với Vu Xà, “Xông lên đi.”

Dù trong thời của Chiêu Hòa đế hay quãng thời gian Thiệu Dương thống lĩnh ngắn ngủi sau này, quân Niễn Trần luôn luôn được hậu thế xem là đội quân đơn chủng có lực sát thương lớn nhất. Nhưng điều hậu thế thường quên mất là so với những binh chủng khác, các đội cung kỵ binh thời Lục quốc cố nhiên có những chiến tích kiêu ngạo nhất và tương tự là những kết cuộc cực đoan nhất. Khả năng phòng thủ bên người yếu kém của cung kỵ binh, lại thêm thiếu sót khả năng tấn công tầm gần, nếu một ngày nào đó bị một đội quân giáp nặng vây quanh thì kết quả thường là toàn quân không còn đường xoay sở, toàn bộ bị tiêu diệt. Vì thế, người ngoài nhìn vào cục diện trận Ngọc Đài là thay đổi trong nháy mắt, nhưng có thể nói đối với Viên Duẫn Đàn và Thiệu Dương là đơn giản hóa việc tạo vòng vây và phá vòng vây nguyên thủy. Kỵ binh quân Ngụy không có ưu thế bằng quân Tề, chỉ có thể lấy tốc độ tấn công bao vây quân Niễn Trần, lợi dụng ưu thế đánh sáp lá cà để tiêu diện quân Tề. Thiệu Dương cũng hiểu rõ điều này, vừa thấy quân Ngụy chuẩn bị ghìm cương đã biết ý đồ xuống ngựa của họ, nên mới có thể ra lệnh cho quân Tề nắm chắc thời cơ ngắn ngủi, nhân lúc vòng vây của quân Ngụy chưa thành hình để phá vỡ.

Nhưng nếu muốn đột phá vòng vây, dù đối với quân Niễn Trần có sức xung phong rất mạnh đi nữa thì cũng không phải chuyện dễ dàng. Lúc mọi trường cung bằng gỗ tử đàn của quân Tề đều được cầm trên tay, quân Ngụy cũng nhận được mệnh lệnh ngắn gọn của Bình Loạn vương gia, “Không được phép nhìn lên.”

Nếu nhìn thấy mũi tên nhọn từ giữa trời rơi xuống, quân lính có dũng cảm cách mấy cũng vô thức né tránh, vì vậy sẽ làm nhiễu loạn cước bộ tiến về gần đang chỉnh tề của quân Ngụy. “Không được phép nhìn lên”, điều cần thiết là sự phục tùng tuyệt đối, quyết tâm và cả dũng khí. Những mũi tên dài rơi thẳng xuống từ không trung, đúng phóc xuyên thủng lớp giáp nặng nhưng không thể cản trở bước chân tiến về gần của quân địch.

Viên Duẫn Đàn không phải Ngụy Ly mà có thể không chút do dự lợi dụng chút ít hy sinh để đổi lấy khả năng đạt được thắng lợi. Y cũng không phải Thiệu Dương mà câu nệ nhân đạo nhân nghĩa, hết lần này tới lần khác hoài nghi mục đích thực sự của chiến tranh. Y là kẻ không thể trở thành một vị đế vương đúng nghĩa, cũng không có cách nào trở thành một người hoàn toàn quân tử, nhưng y không hơn không kém là một đại tướng thực thụ. Bình thường y ôn hòa tao nhã, chăm lo cho bộ hạ, trên chiến trường cũng không thiếu sự lạnh lùng tàn nhẫn mà người quân nhân phải có. Các nhà sử học thời sau không thể không thừa nhận, xét riêng về tố chất cá nhân, Viên Duẫn Đàn của thời Ngụy Cẩn Hâm có lẽ còn là một lựa chọn thích hợp để làm một tướng quân xuất sắc hơn Thiệu Dương. Lý do Thiệu Dương chói sáng đến như vậy trong lịch sử là vì tầm nhìn và tuổi trẻ của y cùng nhau làm nổi bật công tích vĩ đại của y, vì nữ thần may mắn vào thời kỳ đó đã ưu đãi cho y, và cả vì bản thân cuộc đời y tuy ngắn ngủi nhưng có biết bao rực rỡ.

Thiệu Dương kính phục quyết sách của Viên Duẫn Đàn, sau đó ra lệnh cho quân Niễn Trần tạm thời án binh bất động, khi quân Ngụy lọt vào tầm bắn thì đổi dùng trường cung bắn ngang. Mười hai tuổi y vào Dao Kinh, mười lăm tuổi chinh Trần, mấy năm liền từ đó đến nay vẫn lăn lộn sa tường, thời gian thực sự học tập trong phủ Giám Quốc chẳng qua chỉ ba năm ngắn ngủi. Nhưng những gì y học được trong ba năm này còn hơn nhiều người khác học cả đời. Y học được phải giữ bình tĩnh trong bất kỳ cuộc chiến nào, dù trong bất mỳ tình huống bất lợi nào cũng phải nắm chắc lòng tin thắng lợi. Quân Ngụy áo giáp kiên cố lại có tấm chắn phòng thân, cung tên bình thường khó lòng xuyên thấu, chỉ có dùng trường cung đặc biệt mới có thể gây ra sự hỗn loạn mà y mong muốn.

Dù Thiệu Dương biết sử dụng trường cung nhưng chưa từng thử xoay ngang cung mà kéo. Đối với đại đa số quân Niễn Trần, đó càng là mệnh lệnh sai lầm nhất mà bọn họ bình sinh từng nghe qua. Không ai trong quân Tề dám chắc có thể sử dụng trường cung cồng kềnh như bình thường, tương tự phía quân Ngụy vẫn chưa ngờ tới mũi tên dài đáng sợ cũng có thể lao tới từ trước mặt. Đây là một trận chiến mà không một ai nắm chắc, vì thế cả hai bên đều tràn đầy cơ hội lẫn hiểm nguy.

Thiệu Dương định tự mình bọc hậu, nhưng bị Vu Xà cứng nhắc phủ quyết. Vu Xà nói, thuộc hạ đã đồng ý với Hoàn vương điện hạ phối hợp cùng tướng quân, tướng quân đừng để thuộc hạ khó xử. Chỉ cần nhắc đến Hoàn vương, dù là trong thời điểm nào Thiệu Dương cũng không thể chối từ, đành phải nghe theo sự thận trọng của Vu Xà, dẫn quân chạy thẳng vào quân Ngụy trong phút giây hỗn loạn thảng thốt.

Có một khắc, y và Viên Duẫn Đàn đi sượt qua nhau cách một đoàn người. Trong sắc trời nhá nhem dần dần phù xuống, ánh mắt của bọn họ đều sáng đến mức lóe lên, đổ vào một tiêu điểm không hiện hữu. Viên Duẫn Đàn kinh ngạc trước đôi mắt trong veo vô cùng nhân từ của Thiệu Dương. Thiệu Dương kinh ngạc trước vẻ nho nhã trầm tĩnh được bao bọc dưới lớp chiến giáp bạc của Viên Duẫn Đàn.

Một giây tiếp theo, tiểu đội cung tiễn thủ của quân Ngụy bắt đầu kế hoạch tấn công đã chuẩn bị trước, Vu Xà ra lệnh cho quân Niễn Trần phản kích để khiến cho chiến trường đã rối ren càng thêm hỗn loạn bất kham. Không thể phân biệt là ai đang trong vòng vây của ai, không thể biết được những mũi tên gắn lông bạc vút lên trời là từ nơi nào mà đến. Có người bị thương, cũng có người chết. Trận đánh lần này là sự bắt đầu của phá hủy đạo quân Báo Đằng dũng mãnh thiện chiến của nước Ngụy, cũng từ từ phá hủy thần thoại bất bại của quân Niễn Trần nước Tề.


Quân Niễn Trần nắm chặt mọi khe hở hòng tìm cho ra vị trí của Viên Duẫn Đàn, dốc toàn bộ sức lực muốn trả lại mũi tên lúc đó cho y. Tầm nhìn của Thiệu Dương vẫn không dời khỏi Viên Duẫn Đàn nhưng cùng lúc đó phải đưa mắt quan sát tám hướng tìm kiếm để chiếm được phương hướng đột phá vòng vây hữu hiệu nhất. Tài bắn cung của y chưa thật sự tinh thuần nên vẫn chưa có cơ hội ra tay, mắt vẫn nhìn thấy Viên Duẫn Đàn vẫn có thể ung dung kéo cong vút cánh cung trong khoảnh khắc sinh tử này.

Thiệu Dương phải thừa nhận, tư thế kéo cung của Viên Duẫn Đàn vô cùng hoàn hảo. Hoàn vương khi bắn tên, động tác cứ như dòng suối trong chảy qua dây đàn, trong sự lưu loát ưu nhã còn mang theo thanh tao. Động tác của Viên Duẫn Đàn thiếu phần ý nhị lưu chuyển đó, nhưng trông như một pho tượng thần tạc trên đỉnh núi, đẹp một cách chuẩn mực.

Hàng loạt mưa tên lao về phía Thiệu Dương. Thiệu Dương nghĩ ngợi một lúc rồi thúc ngựa đuổi về phía sau, sau đó thì nghe thấy tiếng kêu la thảm thiết giữa bầu hỗn loạn huyên náo, dường như đó chính là Vu tướng quân.

Thiệu Dương chưa bao giờ nghĩ lần này Niễn Trần có thể toàn thân thoát ra ngoài, nhưng Vu Xà là người mà y không hề hy vọng sẽ gặp tổn thương. Gã có vô số lý do chính đáng để y lưu ý, gần đây bởi vì gã là ái tướng của Hoàn vương. Y cho rằng lúc đầu không thể bảo vệ cho Hoàn vương đã là tội lỗi không cách nào tha thứ của mình, y không thể dễ dàng tha thứ khi mà người ấy đã toàn tâm toàn sức giao lại Niễn Trần cho mình mà lại thất vọng vì biểu hiện của mình một lần nữa.

Nhưng điều đáng sợ của chiến tranh chính là những khả năng không hề mong muốn trên chiến trường, khác rất xa so với thời kỳ thái bình thịnh thế.

Đầu tiên là điện hạ, sau đó là Vu tướng quân. Bằng một cách thức giả dối, Viên Duẫn Đàn đã làm tan rã Niễn Trần – đạo quân mà người Tề vô cùng kiêu hãnh. Thiệu Dương gần như tuyệt vọng chứng kiến mũi tên ấy cắm xuyên qua tim, đưa tay muốn kéo Vu Xà – lúc này đã thoi thóp thở – lên trên ngựa. Lần đầu tiên y có cảm giác rằng hận thù thật sự có thể chuyển thành ý muốn giết chết người.

Bàn tay kéo Vu Xà bỗng dưng bị ghìm lại, hơi thở đang gấp gáp vì cưỡi ngựa của Thiệu Dương thoáng cái cũng ngừng lại. Y nhìn kỹ chỗ mũi tên gắn lông vũ có khắc huy ấn của Bình Loạn vương đang rỉ máu ra trong bóng trời sập tối. Trong đầu y dần dần hiện ra đêm không trăng ấy, một bóng hình lao đi băng băng về một nơi y nhìn không tới được, còn có vạt áo trắng như tuyết bị máu tươi nhuốm đẫm vắt ngang khuỷu tay mình.

Mũi tên mà Viên Duẫn Đàn sử dụng là hình lăng kính ba mặt hiếm thấy, còn vết thương của Hoàn vương rõ ràng là do một mũi tên dẹt ban cho.

Mũi tên dẹt, chính là — tên của quân Niễn Trần.

Vu Xà mở miệng định nói với y điều gì đó, y không nghe thấy nửa câu đầu, “…Tướng quân tự mình đi đi.”

Lúc đó, ai làm điện hạ bị thương, hôm nay là ai khiến người của điện hạ bị thương mà chết, rốt cuộc Thiệu Dương cũng đoán được, trong lòng ngơ ngẩn như chưa bao giờ ngơ ngẩn. Ý hận thù đối với Viên Duẫn Đàn lúc nãy chợt như không còn là của mình nữa. Y khẽ cắn môi, vẫn là hung hăng kéo Vu Xà lên ngựa phía trước mình, “Ta muốn đem ngươi về dùng quân pháp xử trí, quyết không cho ngươi chết trên tay người Ngụy.”

Vu Xà cười cười, “Tướng quân biết rồi… Thuộc hạ có sống… cũng không có gì hay ho.”

Thiệu Dương ngước lên nhìn, mặt trời đang dần dần lặn xuống, bị một tầng mây dày bao phủ, thấp thoáng tỏa ra màu ráng chiều quỷ dị. Bông tuyết lưa thưa bay từ trời rơi xuống, y dùng hết thị lực vẫn không nhìn thấy nơi có người ấy, chỉ biết rằng dù có ra sao đều phải trở về bên cạnh người.


“Vì sao ngươi làm thế?”

Vu Xà lắc đầu, cũng không định trả lời câu hỏi của Thiệu Dương. Gã vùng vẫy, hổn hển thở, nói lời trăn trối cuối cùng, “Tướng quân… lúc tướng quân mới đến Dao Kinh, chọc giận không ít triều thần, lúc đó đều là Vương gia che chở cho tướng quân…. Mai này…. tướng quân ở cạnh bệ hạ, cũng phải, cũng phải ngàn vạn lần chở che Vương gia…”

Gã dùng hết sức mình nhảy khỏi lưng ngựa, Thiệu Dương không đưa tay kéo lại.

Vu Xà thiết tha xin y che chở cho Hoàn vương mà không hề nói lý do. Khuôn mặt thiếu niên nhợt nhạt trong đại diện ở Dao Kinh dần dần hiện lên, Thiệu Dương đã rõ ràng tất cả. Bệ hạ lừa y, Vu Xà lừa y, ngay cả người y kính yêu nhất cũng không nói chân tướng cho y biết. Bọn họ dùng phương pháp thảm khốc nhất mà cũng là hữu hiệu nhất, đem quân Niễn Trần mà người ngoài không được nhúng chàm giao lại cho y, để cả cuộc đời y được thành tựu công danh.

Trận tuyết rơi trắng xóa hiếm thấy ở nước Ngụy đã chấm phết thêm vào trận Ngọc Đài. Thiên thời địa lợi của quân Ngụy đều bị nuốt chửng trong trận tuyết bay đầy trời, họ không thể thích ứng. Cả hai bên đều tự động rút quân, muốn tránh né thời tiết không cách nào đoán trước này, thậm chí còn không kịp đưa đám binh tàn tướng bại quay về. Kết cục này khiến người đời sau thảo luận say sưa, cho rằng trận chiến Ngọc Đài tập trung mọi tính hý kịch của một cuộc chiến tranh.

Cho đến rạng sáng của hôm sau, dưới ánh nắng mặt trời soi rọi, mọi âm thanh rên rỉ đều trở lại lặng im.

Y quan Lô Giải bước vào lều của Tề Hoàn Duyên trong tuyết rơi, lấy tấm da cừu phủ thêm cho hắn. Tay của Tề Hoàn Duyên rất lạnh, điều này khiến Lô Giải càng thêm ghét thời tiết kinh khủng này. Ông muốn sai người bỏ thêm than vào chậu than ở trong lều, mặt khác lại nói như an ủi Hoàn vương rằng đất Ngụy thiên về ấm áp, ngày mai chắc chắn tuyết sẽ ngừng rơi. Nhưng Tề Hoàn Duyên mỉm cười, nói trận tuyết rơi này thật không thể tốt hơn.

Lô Giải không hiểu, nhìn hắn. Tề Hoàn Duyên giải thích với ông rằng quân Tề quen ở sâu trong nội địa, dù có ở trong tuyết cũng có thể phi ngựa rất nhanh. Còn người Ngụy hoàn toàn bị hạn chế trong thời tiết hiếm có như thế này, tiến thoái đều không được. Lúc Hoàn vương nói đến đấy, Lô Giải bắt được từ trong ánh mắt của hắn một tia phấn chấn sục sôi mà ông cho rằng không thể nào gặp lai nữa. Thứ cảm xúc không hề kềm chế này thuộc về Thất vương tử Hoàn Duyên thời niên thiếu vừa mới bước ra đời, từng là cảnh tượng đẹp đẽ nhất trong chốn cung đình u tối.

Lúc Chiêu Hòa đế băng hà, Hoàn vương còn chưa đến đôi mươi, tuổi tác so với Thiệu Dương bây giờ không chênh lệch là mấy. Tám năm ròng, hắn đã thu liễm sự tao nhã rong chơi khắp giang sơn năm xưa, nhận nhiệm vụ lúc nguy kịch mà phụ tá ấu chủ, phụng chiếu làm Giám Quốc nhưng không hề có nửa điểm tiếm quyền. Lô Giải nhìn thấy khuôn mặt hắn càng ngày càng đạm mạc, dung nhan ngưng đọng như nước, bỗng thấy lòng thắt lại mà không rõ cớ sao.

Tề Hoàn Duyên thấy Lô Giải không tiếp lời bèn đưa ánh mắt về nơi hắn không thể nhìn thấy bên ngoài lều. “Lô Giải, ông cứ nhìn đi, đợi đến khi tuyết ngừng trời rạng, dễ chừng toàn bộ bãi bờ dòng Lân Tiêu đều là thiên hạ của người Tề ta.”

Lô Giải bỗng nhiên cảnh giác, nghe trong tiếng nói của hắn có điều gì chân xác nhưng lại không đoán ra, ông đang muốn hỏi thì lại nghe thấy Tề Hoàn Duyên dùng thứ giọng nói không rõ là mỏi mệt hay không mong muốn nhẹ nhàng dặn, “Chờ Thiệu Dương trở về, ông đi bảo với cậu ấy đưa ta quay về Dao Kinh dưỡng thương.”


Lô Giải lập tức khuyên nhủ, “Điện hạ, ngàn vạn lần không thể. Từ đây về tới Dao Kinh đường sá xóc nảy, trời lại đổ tuyết khó đi, quý thể của điện hạ…”

“Lô Giải,” Tề Hoàn Duyên ngắt lời ông, “Ta hiểu ý của ông, nhưng sau khi đánh xong trận hôm nay, Thiệu Dương sẽ thực sự làm thống soái của Niễn Trần. Ta không còn thích hợp ở lại đây nữa. Dù ta mạo hiểm, cũng là đáng giá.” Hắn than nhẹ một hơi, nói với vị quân y lời nói từ tận đáy lòng mà hắn chẳng bao giờ thốt ra, “…Lô Giải, ta muốn nhìn cậu ấy vỗ cánh bay cao, hiểu chứ?”

Lô Giải nghẹn giọng, “Vương gia là mong muốn như vậy — Về phía tiểu Thiệu tướng quân, Vương gia muốn cậu ấy phải làm sao đây?”

Trong cơn sửng sốt, Tề Hoàn Duyên cúi đầu cười khổ, “Ta vốn nghĩ rằng, cả đời này trên thờ phụng vua, dưới nương bè bạn, ngẩng lên nhìn xuống không thẹn với trời đất. Vậy mà hôm nay… hôm nay lại phụ cậu ấy thật nhiều.”

Lô Giải vốn quý mến Thiệu Dương, thấy một thoáng buồn bã trên thần sắc của Hoàn vương, trong lòng thấy không đành. Tuyên Minh đế thiên vị Thiệu Dương, kiêng dè Hoàn vương, điều này ai trong triều đình cũng biết. Lô Giải dù không biết rõ ngọn ngành nhưng cũng có thể đoán được Hoàn vương chắc chắn phải chịu nhiều nỗi đau. Ông ngăn lại, “Vừa rồi là thuộc hạ nói lỡ lời. Vương gia là vì tất cả người trong thiên hạ, thiên hạ có mấy ai phụ Vương gia.”

Tề Hoàn Duyên nghe lời này, không khỏi mỉm cười, “Thiên hạ to lớn, ta phụ người, người phụ ta, làm sao có thể nói rõ ràng.” Hắn đưa mắt nhìn Lô Giải, giọng nói bỗng nhiên chùng lại, hạ mi mắt nói, “Thiệu Dương — cậu ấy không giống thế.”

Tề Hoàn Duyên biết bản thân mình cho đến hôm nay không thể coi là quân tử. Từ nhỏ hắn sống trong hoàng gia, phụ tá hai đời quân vương, lôi kéo lòng người, đấu bè đấu phái, có thủ đoạn quyền mưu nào mà hắn chưa từng dùng qua. Thân ở trong triều tay cầm thiên hạ, minh tranh ám đấu, tranh quyền đoạt lợi, làm sao còn có thể dung chứa sự thanh cao kiệt ngạo giữ mình trong sạch. Dù tựu trung là vì giang sơn xã tắc, nhưng dù sao không thể mọi việc đều công bằng hợp lý, chắc chắn không tránh khỏi làm tổn hại đến một số người. Làm đại sự không câu nệ tiểu tiết, nhưng cũng cố không để cho những việc ấy nhiều thêm.

Nhưng Thiệu Dương ở trong lòng hắn, là hoàn toàn khác. Từ lúc y vừa vào Dao Kinh một đường tiến bước, Tề Hoàn Duyên nhiều lần đích thân suy tính cho y, dù bất cứ việc gì đều cẩn thận châm chước. Trước kia, hắn thích y thông minh ngoan ngoãn, sau lại quý mến sự vững vàng trời cho của y, rồi sau đó nữa…

Hắn chỉ sợ sẽ cản trở y, làm lỡ con đường của y, nhưng cuối cùng lại tính một bài toán làm y tổn thương sâu nhất. Điều này, hắn tình nguyện Thiệu Dương vĩnh viễn không bao giờ biết.

Lô Giải đang dợm trả lời lại nghe thấy tiếng cửa lều phất lên, Thiệu Dương mặc giáp bước vào, mới biết quân đội nước Tề vừa mới quay về doanh trại. Từ lúc bước vào lều, Thiệu Dương tịnh không nói tiếng nào, chỉ chăm chú nhìn Hoàn vương. Hoàn vương dời ánh mắt đi nơi khác, Lô Giải nhận thấy bầu không khí trở nên kỳ lạ, bèn nói với Thiệu Dương, “Đang định bẩm báo tướng quân, ngày mai trời ẩm và rét, thương thế của Vương gia không khởi sắc được. Lão vừa mới nói qua với Vương gia, sẽ theo như tướng quân từng đề cập qua, tốt hơn là sớm đưa Vương gia về Dao Kinh.”

Thiệu Dương đợi đến khi Lô Giải rời đi, y trầm mặc một lúc rồi mới thì thầm nói, “Vu tướng quân đã chết.”

Tề Hoàn Duyên chưa kịp trả lời, Thiệu Dương đã ngước mắt nhìn hắn, “Tôi biết tất cả rồi.”

Tề Hoàn Duyên ngẩn người, lần đầu tiên hắn không thể viện cớ thoái thác trước mặt Thiệu Dương. Hắn đang muốn mở lời giải thích đã thấy Thiệu Dương chậm rãi quỳ xuống bên tháp, run rẩy nói, “Bệ hạ đã đồng ý với tôi, chỉ cần tôi đối với ngài vĩnh viễn không ôm hai lòng, ngài sẽ không tổn thương đến người. Bệ hạ, rõ ràng đã đồng ý với tôi.” Những âm thanh sau đấy không còn nghe rõ, thật sự đã lã chã rơi nước mắt.

Tề Hoàn Duyên cười khổ. Hắn không biết Thiệu Dương từng đi gặp qua đứa cháu Hiển Dương, nhưng cũng có thể đoán được sự khẩn cầu ấy của Thiệu Dương chỉ khiến cho quyết tâm diệt trừ mình của Hiển Dương càng thêm sắt đá. Hắn đã hiểu mọi sự sớm nắng chiều mưa tráo trở trên đời, mà Thiệu Dương vẫn giữ tâm tính quá đỗi giản đơn, cho rằng với bậc quân vương những hứa hẹn như thế vẫn còn hiện hữu. Hắn khẽ cười rộ lên, nhẹ nhàng nói, “Đứa trẻ ngốc này, không phải ta từng nói cho ngươi, trong quốc gia này phàm là người họ Tề đều là không thể tin tưởng được.”

“Tôi không còn là trẻ con nữa.” Thiệu Dương vội vàng ngước dậy cãi lại, ngay sau đó biết bản thân mình thất thố. Y mím môi, rồi mở lời như cầu khẩn, “Điện hạ đừng quay về Dao Kinh, có được không? Chờ tuyết ngừng rơi, đánh La Độ xong, tôi cùng điện hạ quay về, được không?” Y chưa bao giờ xin Hoàn vương bất cứ thứ gì, càng không nghĩ đến ngày mình sẽ thử thay đổi quyết định của Hoàn vương. Hôm nay y xin hắn đừng về Dao Kinh, tất cả đều vì sự an toàn của Hoàn vương, còn giọng nói khẩn cầu nghe y như bản thân y đã làm sai vậy.

Tề Hoàn Duyên dịu dàng nói, “Ngươi yên tâm, hôm nay ta đã giao binh quyền ra, bệ hạ sẽ giữ ta lại Dao Kinh điều dưỡng để tỏ rõ lòng thương cảm thần tử.” Thiệu Dương lắc đầu, “Lời bệ hạ nói, tôi không bao giờ tin nữa. Ngài đã đồng ý với tôi sẽ không làm tổn thương người, vậy mà sao…” Y đã sớm bất chấp mà xét nét hoàng đế, đó là tội bất kính. Chỉ vì y còn nhớ rõ đôi ba phần tình nghĩa thuở còn niên thiếu, nên không thể thốt lên lời chỉ trích phía sau.


Tề Hoàn Duyên khẽ thở dài, “Lòng của bệ hạ đối với ngươi, ngươi hẳn đã rõ — sao có thể trách ngài như vậy?”

Thiệu Dương nghe vậy sắc mặt chợt run, vẻ khẩn cầu trên khuôn mặt tuấn tú vừa rồi tản đi, y không nói gì một lúc, đôi mắt vốn rất sáng bỗng dữ dội gợn sóng, không biết là bi thương hay giận dữ. Tề Hoàn Duyên biết nhất định Thiệu Dương hận Tuyên Minh hoàng đế không giữ đúng lời hứa, cũng giận hắn vì sao lại cầu xin cho hoàng đế. Hắn đang định lên tiếng đã thấy Thiệu Dương, với dũng khí từ đâu chẳng biết, nhìn vào hắn không chuyển mắt mà nói, “Điện hạ chỉ biết cảm thông cho bệ hạ — Vậy, còn lòng của tôi đối với điện hạ thì sao?”

Trong những lời này hoàn toàn không có nửa điều chất vấn, thần sắc của y nom càng thêm buồn bã. Y thích điện hạ, đơn phương thích, vốn định là cứ ở xa xa trông nom hắn, bảo vệ hắn. Hắn không nhận tình cảm của y, không hiểu ý của y, y cũng không trách. Y tự hạ thấp bản thân mình đến hèn mọn như vậy mà người còn nói ra những lời vô tình như thế. Điều Hoàn vương suy nghĩ chính là giang sơn thiên hạ, là người cháu đế vương, là trái tim của vua, trái tim của triều đình, trái tim của quân Niễn Trần. Nhưng có bao giờ hắn nghĩ đến, Thiệu Dương cũng có một trái tim?

Sắc mặt của Tề Hoàn Duyên biến đổi, dường như không ngờ Thiệu Dương sẽ hỏi những lời này. Thiệu Dương thấy hắn không nói gì bèn thấp giọng, “Còn có lòng của điện hạ thì sao?”

“…Những gì ta nói với Lô y quan lúc nãy, ngươi nghe rồi sao?”

Thiệu Dương cúi đầu, “Tôi vốn muốn hỏi chuyện điện hạ bị trúng tên, lại sợ nói ra nhất thời sẽ lỗ mãng mạo phạm điện hạ, cứ đứng ở bên ngoài không dám bước vào — Tôi, tôi không cố ý.” Giọng y vẫn thật thấp, nhưng không che giấu được sự vui mừng sau khi nghe Tề Hoàn Duyên nói những lời kia, “Tôi biết, cho đến hôm nay điện hạ vẫn muốn tốt cho tôi. Nhưng, tấm lòng của tôi không phải như thế.”

Lúc đang nói, y đưa tay đặt lên trên tháp, rồi từng chút, từng chút một đến gần, thỉnh thoảng lại ngước mắt lên nhìn người ấy, sợ hãi hắn cảm thấy mình đang làm chuyện mờ ám. Đến khi nói xong, y rốt cuộc cố gắng gom hết can đảm ra để cầm lấy bàn tay của Tề Hoàn Duyên, nhưng còn cách xa một chút. Y vươn ray ra, vừa chạm đến ngón út của hắn thì đỏ mặt ngay tắp lự. Y ngượng ngùng muốn dời tay đi, lúc đó Tề Hoàn Duyên lại tủm tỉm cười đưa tay sang, cầm lấy bàn tay của Thiệu Dương.

Hắn luôn muốn tốt cho Thiệu Dương, muốn tiền đồ của y như gấm được lưu danh sử sách, muốn cho y làm một thần tử trung tín của đế vương, làm một vị tướng hiển hách trong quân đội. Nhưng có nhiều khi lòng hắn đặt ở một nơi khác với chữ “tốt” trong mắt người đời. Hắn tự cho sự hy sinh của mình là đúng đắn, để cho y danh chấn chư hầu, uy cao bốn bể. Nhưng hạnh phúc mà Thiệu Dương mong muốn nhất lại được giữ trong bàn tay của hắn, nếu hắn vẫn cứ keo kiệt không chịu đưa tay ra, thiên hạ còn có chuyện gì ngu ngốc hơn thế nữa đây?

Thiệu Dương ngắm nhìn đôi mắt hắn, thấy trong đó ánh lên thứ ôn tồn quyến luyến chừng như đã từng quen, bèn nhẹ mỉm cười. Vì sao y còn chưa sớm nghĩ ra, dịu dàng luyến lưu lan tỏa trong đêm hôm ấy, là ánh mắt chỉ có nơi một người không thể nào buông tay.

“Điện hạ,” Thiệu Dương nhịn không được mà nói, “Sinh nhật năm mười lăm tuổi, tôi từng nói với điện hạ một câu. Lúc đó, lời điện hạ nói tôi không hiểu lắm, người nói năm năm sau nếu tôi còn nghĩ như vậy thì cứ nói lại những lời ấy với điện hạ — Tôi….”

“Thiệu Dương, lúc lập xuân, ta đợi ngươi ở Dao Kinh.” Tề Hoàn Duyên ngắt lời hắn, từng từ từng câu đều rất đỗi mềm mại, “Đến lúc ấy, ngươi lại nói với ta những điều bây giờ ngươi muốn nói.”

“Nhưng mà nay mai đã giao chiến với người Ngụy, tôi sợ…”

Tề Hoàn Duyên cười rộ, “Nếu như không thể gặp lại ở Dao Kinh, bây giờ nói điều kia còn gì là ý nghĩa.”

Thiệu Dương vươn người nghiêng sang, thật muốn nhìn rõ nụ cười mang theo ấm áp ấy, nhưng đột nhiên nhớ tới một việc, “Điện hạ có nói, phàm là người họ Tề đều không đáng tin tưởng.” Y hoài nghi lo lắng nhìn hắn chăm chú, “Thật sự bệ hạ sẽ không hại người sao?”

“Ta không nói dốingươi.” Tề Hoàn Duyên vốn muốn giải thích vài câu để làm yên lòng y, nhưnglời gần đến môi đã bị chặn lại, vì nhận được một nụ hôn bối rối vụng về.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.