Đọc truyện Ly Uyên – Chương 18: Đông Dao | 1
ĐIỆN HẠ, ĐAU LẮM PHẢI KHÔNG. DÙ ĐANG HÔN MÊ CŨNG ĐAU ĐẾN CHẾT ĐI SỐNG LẠI, KHIẾN CHO ÁO MỎNG CHĂN DÀY ĐỀU ƯỚT ĐẪM MỒ HÔI.
________________________________________________________________________________
Đúng như Lô Giải nói, khuya hôm đó, Hoàn vương tỉnh. Lúc đó Lô Giải đã về lều nghỉ ngơi, Thiệu Dương thấy hắn mở mắt ra thì vừa mừng vừa vội, run run gọi một tiếng “Điện hạ”, những lời còn lại nghẹn hết trong cổ họng. Y nhỏ giọng nói, “Tôi đi gọi Lô y quan tới đây.” Đoạn, bèn đứng dậy, nhưng ánh mắt cứ tinh tế trải dài như ánh trăng đêm nay, rót xuống khuôn mặt người ấy.
Tề Hoàn Duyên cả cười, khẽ hỏi y, “Vì sao còn không đi nghỉ?” Lời nói lơ đãng mang theo nhẹ nhàng trách móc. Khi Tề Hoàn Duyên làm Giám quốc, một tay hắn quán xuyến mọi việc trong ngoài, người ngoài nhìn vào chỉ thấy hắn quyền khuynh triều chính, nhưng không biết hắn vẫn thường thức trắng cả đêm. Khi đó, Thiệu Dương làm xong hết mọi bài tập cả văn cả võ, vẫn tìm trăm phương ngàn kế để dây dưa ở lại đợi đến tang tảng sáng, khi Hoàn vương hồi phủ, để thấy được bóng dáng hắn rồi mới trở về phòng đi ngủ. Y không biết mình bị Tề Hoàn Duyên nhìn thấy, mỗi khi như vậy hắn đều dùng những lời nhẹ nhàng như thế để mắng y. Bây giờ hắn chịu thương tích nghiêm trọng, nguy hại đến mạng sống, nhưng ngữ điệu vẫn khoan thai y hệt như những ngày ở phủ Giám quốc năm xưa, tựa hồ sáng sớm mai cũng là một buổi lâm triều bình thường vậy.
Mặt Thiệu Dương nóng lên, nom như một đứa bé con làm sai điều gì đó bị bắt gặp, vội vàng giải thích, “Lúc nãy tôi có ngủ rồi, biết điện hạ tỉnh dậy nên mới…. Tôi, tôi nghe thấy tiếng điện hạ mở mắt.” Y ngưng một hồi rồi nói thêm một câu, “Điện hạ tỉnh lại là tốt rồi.”
Tề Hoàn Duyên giãn mặt ra, “Tốt cái gì mà tốt? Ta hiếm khi có dịp được ngủ sâu, ngủ lâu như vậy.”
Từ lúc Thiệu Dương nắm ấn soái trong tay đến nay, hắn rất ít khi dùng giọng nói trêu đùa này với y. Thiệu Dương những muốn nở một nụ cười không phục với hắn như thuở niên thiếu, nhưng khi vừa cúi mắt nhìn xuống gương mặt bình tĩnh kia thì lại từng giọt, từng giọt nước mắt rơi xuống. Tề Hoàn Duyên cũng không dễ chịu, nhìn y bằng một đôi mắt chan chứa ôn hòa, ánh mắt ấy khiến Thiệu Dương không cách gì thoái thác, đến độ gần như luống cuống chân tay. Đến tận bây giờ y chỉ dám đứng ở một góc lặng lẽ ngắm nhìn, khi đối đáp với Hoàn vương cũng chỉ cúi đầu mà nói, chưa từng lớn gan đối diện với ánh mắt của hắn như thế này. Trong nhất thời, y quên cả tiếng tim đập và nhịp thở của mình, chỉ còn màu của nước mắt lặng lẽ loang khắp đất trời.
Y vội vàng lấy lại tinh thần, dời mắt ra chỗ khác để che giấu sự thất thố của chính mình, nhìn về phía ấm thuốc vẫn đang dùng lửa nhỏ chậm rãi sắc trong lều. “Lô y quan nói, điện hạ nếu tỉnh lại phải uống thuốc ngay. Ông ấy không biết điện hạ sẽ tỉnh lúc nào, sợ chậm trễ nên vẫn để thuốc sắc như vậy, dược liệu bên trong cũng đổi mấy lần rồi.” Mắt y lóe lên, quay nhìn ra ngoài lều, nói, “Tôi đi tìm Lô y quan tới đây.”
Tề Hoàn Duyên cái gì cũng chưa nói đã thấy bóng người áo xanh nhuốm hơi lạnh kia nhanh nhẹn bước đi, nghe thấy y vén cửa lều ra ngoài. Không lâu sau bước chân từ từ trở về gần, nhưng vẫn là một người.
“Họ nói, Lô y quan điều chế thuốc xong thì vừa mới ngủ, dặn dò không cho ai tới làm phiền… Mấy hôm nay ông ấy cũng mệt mỏi rồi.” Thiệu Dương vẫn cẩn thận quỳ xuống, lại bỏ nhỏ thêm một câu như đang biện hộ cho Lô Giải. Lúc Lô Giải quay về nghỉ ngơi thực sự là có cẩn thận dặn dò Thiệu Dương trong trường hợp khẩn cấp phải phản ứng như thế nào rồi mới an lòng đi ngủ. Thiệu Dương cũng đồng ý với ông rằng nếu không phải là tình thế vạn nhất thì sẽ không đi vào quấy nhiễu ông. Hoàn vương nay đã tỉnh, nhưng y thì rối tung rối mù, thầm nghĩ muốn tìm Lô Giải đến để xử lý, nhưng khi đến trước lều của quân y mới nhớ ra lời dặn của ông. Y ngước lên nhìn Thiệu Dương nhưng không đủ dũng khí để mở miệng, chực như muốn đi tìm Lô Giải thêm lần nữa.
Tề Hoàn Duyên hiểu y muốn nói gì, hắn vẫn nhẹ nhàng dặn dò: “Đã vậy thì đừng làm phiền y quan nghỉ ngơi. Ngươi đỡ ta ngồi dậy.”
Thiệu Dương gật đầu đáp, “Vâng”, quay đi rót chén thuốc nóng hôi hổi ra cho nguội bớt, sau đó định dìu Hoàn vương ngồi dậy. Y rất sợ làm Tề Hoàn Duyên đau, những ngón tay đỡ trên vai hắn dù cố gắng dùng sức thật nhẹ nhưng vì khẩn trương mà bị phủ lên một màu tái xanh như nước chảy. Tề Hoàn Duyên tập cung tên từ nhỏ, dù không yếu ớt như thư sinh nhưng dù sao thân thể của hắn vẫn rất gầy so với một người học võ. Thiệu Dương không cần dùng quá nhiều sức đã đỡ hắn ngồi dậy. Những sợi tóc của hắn lặng lẽ xuông xuống, phất qua bàn tay của Thiệu Dương, mang theo hơi lạnh dịu dàng đặc trưng của khí trời mùa đông nước Ngụy, rồi chúng ấm lên nhanh chóng trong lòng bàn tay của Thiệu Dương. Thiệu Dương bị cảm giác khác lạ này làm cho sợ hãi, phản xạ muốn buông tay tránh đi. Có điều, một chốc lát ấy đối với Thiệu Dương còn dài hơn cả một cuộc chiến tranh. Y chần chừ hồi lâu mới quyết tâm dùng toàn bộ cánh tay để đỡ cơ thể của hắn, hốt nhiên phát giác ra tấm lưng của hắn ướt lạnh dầm dề, lúc đó mới hay rằng áo lót của hắn đã thấm đẫm mồ hôi lạnh từ lâu.
Y ngước lên nhìn Tề Hoàn Duyên lần nữa, áy náy cười với hắn, trong mắt không đọc ra cảm xúc nào khác. Ánh trăng sáng tỏ soi vào trong lều, khiến cho thần sắc của hắn càng bình tĩnh đến xa cách. Trong mắt Thiệu Dương, ánh trăng mềm mại dần dần bị chia cắt, ngưng tụ thành vô số những lát mỏng manh, cứng rắn và lạnh lẽo, như lưỡi đao buốt lạnh vút xuống.
Điện hạ, đau lắm phải không. Dù đang hôn mê cũng đau đến chết đi sống lại, khiến cho áo mỏng chăn dày đều ướt đẫm mồ hôi.
Nhưng hắn vẫn ung dung điềm tĩnh nói cưới với y, dùng ánh mắt ôn tồn nội liễm vỗ về sự bất an khủng khiếp của y. Cứ như thật lâu về trước vào những ngày xa xưa ấy, ngay trước mắt Thiệu Dương, những đớn đau mà người nam tử này phải gánh vác – chao ơi những đớn đau vô biên vô hạn, dưới ánh mắt cũng trong trẻo đến vô cùng thế này đây, bị chôn vùi bên dưới hồng trần của thành Dao Kinh phù hoa ưu nhã, vĩnh viễn như thế chôn thật sâu, thật sâu.
Nhưng cứ như thế mà thật đau, thật đau.
Điện hạ của y.
Điện hạ, của y.
“Điện hạ,” Thiệu Dương hầu hạ hắn uống xong thuốc, nhẹ giọng nói, “Tôi đi tìm người thay y phục cho điện hạ — áo đều ướt hết rồi, không thể giữ ấm cơ thể được.”
Ánh mắt y sâu nặng, mềm như một dòng nước, đem nụ cười yếu ớt của hắn khi nghe y nói nói dịu dàng ấn sâu vào đáy lòng.
–
Chuyện Hoàn vương tỉnh dậy tuy không thể quét sạch hoàn toàn bóng ma bao phủ bầu trời của quân đội nước Tề, nhưng chí ít cũng mang đến điều mà quân Tề thấp thỏm lo âu đang mong muốn. Tuyên Minh đế vài lần gửi thư thúc giục chủ soái đưa Hoàn vương về Dao Kinh dưỡng thương, đều bị Thiệu Dương đưa lý do của y quan ra để cự tuyệt một cách khéo léo nhưng kiên định. Lô Giải từng phụng sự tiên đế, đức cao vọng trọng, triều đình nhà Tề không dám có ý kiến khác, nhưng vẫn năm lần bảy lượt ám chỉ cho Thiệu Dương rằng Hoàn vương là chú ruột của đương kim Thiên tử, là thống suất của quân Niễn Trần, là người mà dân chúng nước Tề kính ngưỡng bậc nhất, trăm triệu lần không thể có sơ suất. Thiệu Dương viết tấu chương hồi báo về kinh, xin Tuyên Minh đế an lòng, nhưng vẫn dựa theo ý tứ của Lô Giải để giữ Hoàn vương ở lại trong quân tĩnh dưỡng.
Một khi Hoàn vương đã tỉnh, Vu Xà cùng các tướng Niễn Trần liền ngẫu nhiên đến hỏi việc quân. Hoàn vương không có ý kiến, càng không có tâm sức đâu để can thiệp sâu hơn, chỉ dặn dò Vu Xà hợp tác cùng Thiệu Dương để quản lý. Vu Xà rất có uy tín trong quân Niễn Trần, vừa là cánh tay nối dài của Hoàn vương, Thiệu Dương vẫn luôn tôn kính gã, mọi việc đều thương thảo cùng gã mới quyết định, tuy nhiên trong lòng chỉ mong sao gã bớt đến làm phiền Hoàn vương điện hạ một chút.
Sau khi Tề Hoàn Duyên bị thương, các tướng lĩnh Niễn Trần từ Vu Xà trở xuống ai ai cũng thôi thúc Thiệu Dương đánh nước Ngụy, bắt giết Viên Duẫn Đàn để rửa nhục. Dù Thiệu Dương cũng có ý định này, y lấy lý do sự ngờ vực trong liên quân còn chưa được bài trừ, lòng quân chưa ổn định mà chậm chạp không thể hành động. Báo thù cho Hoàn vương điện hạ là suy nghĩ của toàn bộ quân Tề, nhưng họ không có một lý do đường hoàng để cùng quân Trịnh liên hợp xuất chiến. Bên này là những động tĩnh của quân Ngụy, bên kia là quân Trịnh ôm tâm tư khác nghi ngờ Tĩnh Hoài đế, đại bộ phận quân Tề bàng hoàng khiếp vía không chịu nổi, sự chấn động từ thành Dao Kinh và sự tức giận không thể kềm chế nổi của Tuyên Minh hoàng đế, cùng với quân Niễn Trần ngày ngày đều đến ép hỏi thỉnh chiến — tất cả khiến cho Thiệu Dương, Hộ Quốc tướng quân còn chưa đến tuổi hai mươi của nước Tề, lúc này đây chính thức đối diện với sự khiêu chiến trí mạng nhất trong suốt lịch sử nước Tề.
Hôm đó trước mặt Tề Hoàn Duyên, Vu Xà ngẫu nhiên nhắc tới ý muốn của các tướng lĩnh muốn sớm ngày xuất chiến tru sát Viên Duẫn Đàn. Tề Hoàn Duyên không biểu lộ bất cứ điều gì, thản nhiên bảo vạn sự tuân theo sự an bài của chủ tướng, không được tự tiện làm chủ.
Vu Xà không nói gì, nhưng gã thôi nhắc đến việc này nữa theo cách rất không cam lòng. Tề Hoàn Duyên tuy đã tỉnh lại, nhưng vết thương chỗ bị trúng tên không khởi sắc hơn bao nhiêu, đa phần thời gian hằng ngày vẫn cứ mê man. Hơn nữa, lúc hắn ngã xuống cũng khiến gân cốt chân phải bị dập nát, chỉ là ngồi dậy thôi cũng đã đau đớn khôn cùng. Hắn vẫn chưa nói chuyện tên gãy với bất kỳ ai, Vu Xà cũng chỉ nói do tài nghệ bắn cung của Viên Duẫn Đàn quá giỏi. Gã áy náy không bảo vệ được Vương gia nên cũng khó tránh khỏi trách cứ lúc đó Thiệu Dương đến tiếp ứng trễ. Từ lâu gã đã cho rằng dù Thiệu Dương anh tài có ngút trời ra sao, y vẫn chỉ là một thằng nhãi ranh. Vương gia không chỉ dạy cho y tuyệt kỹ Cầm Tiễn lưu truyền bí mật trong vương thất mà còn muốn giao phó toàn bộ quân Niễn Trần, rõ ràng là thiên vị quá mức. Với vấn đề này, Vu Xà vẫn chưa nói rõ ra miệng, chỉ cúi đầu thưa, “Viên Duẫn Đàn đâm sau lưng khiến Vương gia bị thương, cục nghẹn này ai ai cũng nuốt không trôi, đều ngóng trông sớm này quyến chiến.”
“Thời cơ quyết chiến còn chưa chín muồi. Sự bất bình kia, phiền ngươi đi trấn an họ.”
“Thuộc hạ — thuộc hạ cũng không nuốt trôi cục ngẹn này!”
“Vu Xà”, Tề Hoàn Duyên nghiêm nghị gọi gã, ánh mắt ngưng lại, đôi mắt phượng thong thả vừa rồi bỗng chuyển thành sắc bén. Hắn hạ giọng, “Lúc đó ngươi ở ngay bên cạnh, vì sao chưa từng chú ý – kẻ bắn bản phiên bị thương không phải là Viên Duẫn Đàn.”
Lời nói vừa buông ra, sắc mặt Vu Xà lập tức biến đổi, gã thốt lên, “Vậy lúc đó Vương gia tạ ơn Viên Duẫn Đàn tặng tên…”
“Chẳng qua là kế tạm thích ứng để trấn an lòng quân, tránh sinh biến cố khác.”
Nghe Tề Hoàn Duyên nói vậy, Vu Xà lập tức nghĩ tới trước đó Tuyên Minh đế thay đổi người chuẩn bị cung tên trong quân, run run nói, “Chẳng phải là, chẳng phải là bệ hạ…”
Tề Hoàn Duyên không nói tiếp, Vu Xà nghĩ gã đoán trúng rồi. Trong cơn khiếp sợ, gã giương mắt nhìn Tề Hoàn Duyên lắp bắp, “Vậy, là người phương nào, kẻ thích hợp nhất dĩ nhiên, dĩ nhiên là…”
“Là ngươi.”
Vu Xà giật mình, cứng họng lại. Gã cảm thấy sự ánh mắt xuyên thấu của Tề Hoàn Duyên – dù khó nắm bắt nhưng có thể cảm thụ rất rõ ràng ban nãy – nay đã chậm rãi rút đi như nước triều xuống, thay vào đó là một ánh mắt bình tĩnh trong veo. Sự sắc bén như bị mài mòn đi, ánh mắt như ngọc thạch chìm trong đáy nước, phát ra thứ ánh sáng mềm mại nhưng đọc không ra được cảm xúc, ngược lại khiến cho gã không cách nào giấu diếm.
Vu Xà mơ hồ thốt lên một tiếng chấp nhận, sự lo lắng kinh ngạc trên khuôn mặt dần dần giãn ra, gã im lặng quỳ xuống. Nhưng gã không cúi đầu, ánh mắt vẫn duy trì sự chuyên chú lúc nãy.
Cho đến cùng, gã không thể gạt được hắn.
Vu Xà thấy thoải mái trong lòng, hơn nữa cảm thấy có một tia mừng rỡ hưng phấn. Gã biết bản thân mình vẫn luôn đợi chờ khoảnh khắc này. Người nam tử sắc mặt tái xanh im lặng tựa người vào tháp, người nam tử ăn nói nhỏ nhẹ nhưng lòng sáng như gương, gã vẫn luôn vâng lệnh hắn, sùng bái hắn, xem hắn như một vị thần. Gã có thể nào lừa gạt nổi hắn.
“Vương gia đã biết từ lâu?”
“Cũng không phải.” Tề Hoàn Duyên nhìn gã, nói rất điềm tĩnh, “Ta từ sớm đã nghĩ bệ hạ đổi người chuẩn bị cung tên chỉ là ngụy trang, nhất định sẽ an bài một người khác trong quân Niễn Trần – nhưng chưa bao giờ nghĩ đó là ngươi. Cho đến khi Trịnh đế bị bắt, Thiệu Dương cản trở ta đi lại bị ngươi cả tiếng quát mắng, ta mới hiểu ra… Ngươi luôn luôn khiêm cung thủ lễ, Thiệu Dương là chủ soái quân ta, dù ngươi có bất mãn làm sao cũng không thể quát lớn trước mặt mọi người. Đơn giản mà nói, đó là cơ hội vô cùng tốt để ra tay khi tình hình hỗn loạn, ngươi không thể bỏ qua.”
Vu Xà bắt đầu cười khổ, gã cảm kích sự tín nhiệm của Hoàn vương đối với gã trước kia, nhưng ngoại trừ phản bội thì không còn con đường nào khác. Gã nhớ lại đêm khuya hôm ấy Hoàn vương thúc ngựa ráo riết truy đuổi vẫn ngoái đầu lại nhìn Thiệu Dương, trong lòng bỗng dưng vỡ lẽ ra tất cả.
Gã theo Hoàn vương nhiều năm, tự cho là hiểu thấu đáo Hoàn vương. Gã đã liệu được dù Hoàn vương biết kẻ đâm sau lưng mình là người trong quân thì cũng tất nhiên giá họa cho Viên Duẫn Đàn để ổn định lòng quân. Gã cũng đoán được nếu Hoàn vương rút được mũi tên gãy chắc chắn sẽ rút mũi tên từ lồng ngực mình ra gài lên cung tên. Gã biết mũi tên của gã và tên mà Viên Duẫn Đàn dùng hoàn toàn khác nhau, nhưng không có chứng cứ nào lưu lại.
Chính vì như thế nên gã mới ra độc kế này. Nhưng gã không thể nào ngờ, sự yêu quý mà Vương gia dành cho Thiệu Dương đến tận hôm nay vẫn sâu sắc nhường ấy. Đêm đó, hắn nhịn không được ngoái đầu lại nhìn, chỉ vì lo lắng từ nay về sau có khi sẽ vĩnh viễn đất trời xa cách. Nghĩ đến đó, Vu Xà cũng không giải thích, chỉ quỳ chờ Hoàn vương xử lý.
Tề Hoàn Vương đưa tay phất nhẹ, “Cha mẹ, vợ con ngươi bị giam lỏng ở Dao Kinh, ngươi thuần phục bệ hạ, ta không trách.”
Vu Xà vì bị Tuyên Minh Đế ép buộc nên làm ra việc đại nghịch như thế, tự biết không còn mặt mũi nào mà níu kéo mạng sống. Gã nghe Hoàn vương nói như vậy thì trong lòng ấm áp, khàn giọng gọi một tiếng “Vương gia,” khí huyết trong lồng ngực dâng lên, chỉ hận không thể tự vẫn để tạ ơn. Lại nghe thấy giọng Hoàn vương đổi khác, buồn bã nói, “Sau này ngươi ở trong quân phải trông chừng Thiệu Dương hơn nữa. Ngươi thưa với bệ hạ rằng, nếu ngài thật lòng bảo vệ Thiệu Dương thì hãy để cậu ấy ở ngoài, đừng vướng vào những đấu đá tranh giành trong triều đình.”
Vu Xà cứng cỏi nói, “Vương gia yên tâm. Sau khi quay về Dao Kinh, tôi nhất định tiến cử Thiệu tướng quân là bậc hiền tài. Xin bệ hạ ban cho cậu ấy họ Tề, như thế sẽ có thể danh chính ngôn thuận tiếp nhận Niễn Trần. Thiệu tướng quân là thần tử tâm phúc của bệ hạ…” Gã vốn định nói Thiệu tướng quân là tâm phúc của bệ hạ, bệ bạ chắc chắn đảm bảo cho y vinh sủng trọn đời, nhưng lời chưa nói ra đã nghẹn lại ở cổ. Gã nghĩ đến Hoàn vương chịu sự ủy thác của tiên đế, sao có thể không phải là cánh tay đắc lực của bệ hạ? Lúc bệ hạ còn nhỏ, gã từng thấy bệ hạ níu tay áo của Hoàn vương làm nũng, cũng nghe thấy bệ hạ nói bằng giọng của một đứa trẻ con rằng hoàng thúc phải vĩnh viễn ở bên cạnh trẫm. Mà hôm nay, cũng chính đứa trẻ yếu đuối tái nhợt trong đại điện năm nào, đang hao hết lòng dạ muốn diệt trừ người chú ruột của hắn.
Hoàn vương đoán được suy nghĩ trong lòng gã, nhẹ buông làn mi, chỉ đạm nhiên mỉm cười. Nụ cười này như một tiếng thở dài, khiến lòng Vu Xà ầm ầm rúng động. Trong nháy mắt đó Vu Xà đọc được sự lo lắng mà Hoàn vương không nói ra. Địa vị của gã trong quân Niễn Trần rất gần với Hoàn vương, dù Thiệu Dương có tiếp quản Niễn Trần cũng phải nhường gã bảy phần, mà về sau Tuyên Minh đế sẽ càng đem gã ra làm quân cờ khống chế chủ soái Niễn Trần. Nghĩ tới đây, Vu Xà cúi cười thật sâu, đầu chạm xuống đất, “Thuộc hạ dám mang vợ con ra thề, bất kể mai này có ra sao, quyết không phản bội Thiệu tướng quân.”
Nhưng, cả nhà già trẻ lớn bé của gã đang là con tin của Tuyên Minh đế, gã cũng không dám cãi lại ý chỉ của Tuyên Minh đế. Để thực hiện được lời thề mãi mãi không phản bội thì chỉ có một khả năng duy nhất.
Lúc Vu Xà ra khỏi trướng, gã biết mình đã gần như đạt được kết quả mà gã vẫn luôn mong muốn khi bắn mũi tên ấy ra. Gã sẽ không bán bí mật của Tuyên Minh đế, cũng sẽ không phản bội Thiệu tướng quân, vĩnh viễn không.
–
Hai ngày sau, liên quân Tề – Trịnh dưới sự thúc đẩy kiên trì của phe các tướng sĩ chủ chiến đã nghênh chiến đại bộ phận quân Ngụy ở phía bắc thành La Độ, vì lý do vua Ngụy giả vờ đầu hàng mà thực hiện được đòn đâm sau lưng kia. Đó là tháng Giêng năm Tề Tuyên Minh thứ tám, tức năm Ngụy Cẩn Hâm thứ sáu.
Căn cứ theo số lượng người tham gia, cuộc chiến này có quy mô gần ngang ngửa với trận quyết chiến Tề – Ngụy ngay sau đó ở La Độ, nhưng duy trì thì không quá một ngày. Con số thương vong của đôi bên cũng không quá nghiêm trọng, tuy nhiên những biến đổi ngoài tầm dự liệu của cuộc chiến này khiến nó vang danh đến đời sau. Lúc này, hàn mai ở nước Ngụy vừa hé nở, ở La Độ có một giống mai đặc chủng màu chu sa ánh vàng, gọi là “Cẩm Chi Ngọc Đài”, tháng Chạp chớm nở, tháng Giêng nở rộ, trên cành cây có những hoa văn màu nâu nhạt nên mới gọi là “Cẩm Chi”. Sau, vì cố kỵ niên hiệu của Cẩm Hâm đế nên chỉ gọi là mai Ngọc Đài. Trận giao phong lần này của liên quân Tề – Trịnh và nước Ngụy cũng vì thế mà được đời sau gọi là “trận Ngọc Đài.”
Trong trận này, cách bày binh bố trận của liên quân Tề – Trịnh là quân Tề do Thiệu Dương thống lĩnh, kể cả Khinh kỵ Niễn Trần, ở phía trước nghênh chiến bộ phận chủ lực của quân Ngụy do đích thân Cẩn Hâm đế dẫn đầu. Quân Trịnh binh lực yếu kém, ở hậu phương để phối hợp tác chiến. Từ cục diện này có thể thấy rõ rằng so với những trận đánh phạt Ngụy lớn nhỏ trước đây, mục đích quân sự của quân đội hai bên có thể nói đã đổi ngược cho nhau. Liên quân Tề – Trịnh không còn mong chờ có thể tiến quân về phía La Độ, mà là thủ vững phòng tuyến không muốn lùi về sau một tấc nào. Còn quân Ngụy thì từng bước ép sát, thanh thế lớn mạnh. Cũng như mọi đạo khinh kỵ binh khác, quân Niễn Trần có sức tấn công mạnh nhưng phòng thủ rất yếu, lâm trận thường xuyên xung phong chứ không phòng thủ phản công, lấy cứng đối cứng. Cách sắp xếp của Thiệu Dương trái ngược lẽ thường, cho nên trở thành một đề tài cho giới sử học nói mãi không dứt, cho rằng đó là một bằng chứng cho trí óc khéo léo của vị danh tướng hàng đầu thời Lục Quốc.
Các nhà nghiên cứu sử đời sau cho rằng, trong trận Ngọc Đài, Thiệu Dương nghĩ cơ hội chưa tới, luôn duy trì thái độ phản đối việc nghênh chiến quân Ngụy trước đó. Dù chịu trăm ngàn áp lực mà xuất chiến, y sắp xếp cho quân Niễn Trần dùng sở đoản, tránh sở trường, trước mắt để trấn an sự sôi sục đòi xuất chiến đến đỉnh điểm của quân Niễn Trần, thực ra lại là khiến cho Niễn Trần không thể phát huy, tới một mức độ nào đó, ngược lại chính họ sẽ bị bộ binh, chiến xa của quân Tề vây quanh bảo vệ, bảo toàn lực lượng một cách tối đa để chờ sử dụng về sau. Mặt khác, Thiệu Dương vẫn một mực du di cho quân Trịnh – lúc này lòng quân rã rời vì hành vi cổ quái của Tĩnh Hoài đế. Do đó, y không chỉ đặt phần lớn quân Trịnh ở hậu phương mà còn đưa quân Niễn Trần di chuyển cực nhanh ở cạnh bên, nghĩ lỡ có vạn nhất sẽ cứu kịp. Hơn thế nữa, trận Ngọc Đài là trận đánh đầu tiên mà Thiệu Dương trải qua trên tư cách chủ soái phối hợp cùng quân Niễn Trần, điều khiển vị tất thuận buồm xuôi gió. Trong tình huống y không hoàn toàn nắm chắc, y cho phép quân Niễn Trần xuất chiến nhưng không cậy nhờ toàn bộ như trong quá khứ, dù có chút sợ đầu sợ đuôi, nhưng không thể nghi ngờ là quân Tề chủ trương mong có thể giữ vững, là lựa chọn an toàn nhất theo lý trí.
Đúng như Thiệu Dương muốn, quân Tề hấp dẫn thành công sự chú ý của quân chủ lực nước Ngụy. Sử sách chép lại rằng trận giao phong này tuy dữ dội nhưng không có kỹ xão gì đáng nói, chỉ là vật lộn máu thịt một cách chân thực nhất. Quân Trịnh ở phía sau thấy cờ phướn chập chờn biến chuyển khiến họ nhìn không kịp, tiếng quát “giết” bị không khí im lặng của mùa đông pha loãng, nghe không có vẻ chân thực. Họ biết quân Tề đang chiến đấu với quân Ngụy, đang muốn thở hắt một hơi, nhưng trong một nháy mắt tiếp theo thì tuyệt vọng phát hiện ra họ đã bất tri bất giác lâm vào vòng vây của quân Ngụy. Quân Ngụy chiến đấu với quân Tề ở phía trước không phải là giả vờ, nhưng người Ngụy cũng không đổ toàn bộ tinh binh vào đó như quân Trịnh nghĩ. Chỉ có thật – giả khó phân biệt như vậy mới có thể lừa được quân Tề đang chống cự không xuể phía trước. Từ lâu đã có đội kỵ binh tinh giáp nhân lúc hỗn loạn đánh bọc ra phía sau quân Trịnh, hòng triển khai một cuộc tàn sát cấp tốc đã được huấn luyện kỹ càng đối với đạo quân đang trở tay không kịp.
Quân Trịnh hoảng loạn, không biết phải ứng phó ra sao, quân chủ của họ vì thời tiết khắc nghiệt đã đổ bệnh nằm trên tháp mấy ngày nay, nghe nói còn nôn ra máu. Quân Trịnh đang sung huyết, trong một khoảnh khắc cuối cùng thì thấy những bóng trắng rầm rộ kéo tới ở phía trước, trông như hồng hoang chảy xiết hằn những những vết ngấn trên đá núi trùng điệp.
Vì thế, trong hoàn cảnh hai bên hoàn toàn bị bất ngờ, đều phát hiện ra đã trúng kế Khinh kỵ Niễn Trần hỏa tốc chạy tới – đạo quân mà cả quân Tề và Thiệu Dương lấy đó làm kiêu ngạo bậc nhất, lúc này đang chuẩn bị chống lại Bình Loạn vương Viên Duẫn Đàn cùng năm ngàn quân Báo Đằng tinh nhuệ dưới trướng của y.
Về sau, giới sử gia mặc sứchăng hái bàn luận, nói rằng chuyện này chẳng qua chỉ là một sự trùng hợp nhỏnhoi mà thôi.