Đọc truyện Lửa Hận Rừng Xanh – Chương 22: Nhà Mỗ bành Tổ Bí Pháp Càn Khôn
Võ Minh Thần cho dị thú chạy qua mấy thung đồi dòm
lại không thấy bóng Giao Long Chúa lúc đó mới cho dị thú phi thẳng hướng đông tiến vào vùng Tĩnh Túc. Bỗng Giao Long Nữ bật kêu:
-Ô lạ
dữ! Coi này anh! Võ ngoái lại cô gái trỏ sườn dị thú. Rong rêu cành lá
đất cát vừa vỡ bung! Cả hai sửng sốt, cúi dòm sau lớp vỏ đất rong rêu
vừa vỡ đã lộ ra một khoảng đen sì. Võ sờ càng lạ thấy rắn như sắt lại
không thấy lông. Chàng bèn rút dao nậy một mảng nữa ngay trước gáy thú.
Cũng đen xì, gõ thử phát tiếng “cong cong chát chát” như gõ vào ống
thép! “Ồ lạ dữ à! Không hiểu giống gì đây?” Võ kêu khẽ, dùng dao bóc hết lớp vỏ gáy bóc luôn ngà con thú trên đầu, đất cát dây leo hoa dại vỡ
bung, cả đầu cổ thú hiện ra… bằng sắt. Hai cái ngà chính là hai cái
tai vểnh cao
hơn gang, đất cát rêu cỏ lâu ngày bám vào, trông như có sừng! Và tai sắt, đầu sắt, cổ sắt, tất cả đều là sắt.
-Ô sao lạ thế này? Con thú bằng sắt? Sắt biết đi sao? Minh Thần nhoài
mình dùng dao nạo sạch đất bẩn trên đầu lại dùng vải ướt lau kỹ, bỗng
chàng reo lên “A! Hiểu rồi! Có chữ khắc đây cả”, cả hai cùng cúi dòm,
quả nhiên thấy trên đỉnh đầu dị thú nổi lên mấy hàng chữ “Hán”, khắc
theo lối chữ thảo sắc như cắt.
“Thiết Phong Câu
Đông Quân Phi Mã Ác”
Giao Long Nữ bất giác reo lên:
– A! Con dị thú này chính là con ô giáp thần câu của Quan Sát Tinh Quân
Chúa soái giặc Cờ Đen kế truyền Lưu Vĩnh Phúc miền Phi Mã! Sư mẫu em
trước có kể chuyện Đông Quân Soái Cờ Đen năm, bảy năm xưa vốn là một tay kiếm sát, kỳ tài kiêu dũng quan quân đạo tặc phải kiêng oai! Sau kẻ thù xoay chuyển, Đông Quân đã nhận lời cầu hôn của Chúa Soái Thập Vạn Đại
Sơn cho Lê Thái Dương phòng thủ, ông ta đã một mình một ngựa bỏ đi về
phương Bắc không còn ai gặp nữa! Nay không hiểu sao ta lại gặp ô giáp
thần câu đây!
Minh Thần bỗng sinh lòng hoài niệm, gật đầu, bùi ngùi:
– Đời người thật lắm bể dâu! Xưa Đông Quân Phi Mã ngang dọc một thời khét danh Quan Sát, nay người thì khuất bóng, còn ngựa thần lang thang vô
chủ giữa rừng! Chính chú Thòng Mềnh Chúa núi Mã Đầu cũng kể cho anh rõ:
xưa chúa Cờ Đen Phi Mã Ác ca người ngựa, đều bọc thép một thứ giáp trụ
đặc biệt đủ sức chống cả với đạn súng tự động. Ngựa phi như bay vào trận địch, đường kiếm đảo ngoằn ngoài năm chục bộ. Không sức nào cản nổi! Chặt đầu kẻ thù bẩy
thành một bãi khô lâu ai cũng khiếp, nhưng la nhất là Đông Quân chỉ quý
trọng nhất Vị Chúa Thập Vạn Đại Sơn, bảo gì cũng chịu. Nay ngựa quý chắc nhớ chốn cũ lần về miền cứ địa Phi Mã Ác, có lẽ Đông Quân đã thác chưa
chừng!
Giao Long Nữ chợt bảo Võ:
– Con Thiết Phong Câu
này linh mẫn lạ thường, xem chừng nó hiểu được cả tiếng người. Nó đã cứu anh mấy phen, mà anh cũng giúp nó, hạ con Mạc thú trước, biết đâu chẳng có kỳ duyên với nhau! Nhân tiện ngựa vừa bị chết, được thần mã này chắc rất lợi cho việc báo cừu!
Võ Minh Thần cho là phải bèn kìm dị thú đứng lại, cả hai nhảy xuống đất, Võ vuốt đầu thú bảo:
– Thiết Phong Câu! Nay ta đang tầm cừu báo oán cần bạn ruổi cùng nếu có duyên chủ mới chịu theo ta hãy làm hiệu cho ta biết!
Vừa nghe dứt con dị thú lập tức nhảy chồm lên gật đầu, quẫy đuôi, hí khẽ tỏ dấu mừng rỡ và quy phục luôn hai chân trước, Võ Minh Thần cảm động vội
cúi xuống đỡ nó lên, nói vài lời tri ngộ, đoạn dắt nó tới một con suối
khuất cùng Giao Long Nữ tắm rửa cho dị thú. Nó đứng yên ve vẫy đuôi vẻ
phục tùng. Vì dị thú lang thang lăn lộn đất cát rong rêu hoa cỏ bám đầy, hai người phải dùng dao nậy từng mảng. Chừng hết đất lại dẫn xuống suối kỳ cọ kỹ lưỡng, quả nhiên hiện ra một con kỳ mã toàn thân bọc giáp sắt
đen bóng không thể tả, trên mặt giáp còn in hàng trăm dấu đạn cày nhưng
chỉ sâu chừng một phần mười ly! Giáp ghép theo hình ngựa có đủ khớp để
cử động như thường, xuống tận chân móng, đuôi chỉ hở chùm lông, có lỗ
tai, hở miệng. Nhưng không có yên cương bàn đạp, coi giống hệt con ngựa
sắt bên Âu thời trung cổ. Xem kỹ những bộ phận quan hệ, phía trong còn
ghép thêm mấy lần nhựa mây, đổ cát nữa chỉ nhìn qua bộ giáp cũng đủ biết sức khỏe phi thường của con Thiết Phong vẫn chạy như bay bất kể khối
thép mang trên mình.
Tắm rửa sạch sẽ xong, Võ dắt con thú lên bờ bỗng thấy con vật cứ hì từng tiếng nhỏ, hất cằm xuống, cả hai đều thấy
làm lạ, lắng tai nghe, Võ chợt kêu:
– À! Nó có ý bảo ta xem dưới bụng! Lời vừa dứt con ngựa đã nằm kềnh xuống, Minh Thần, Giao Long Nữ
cùng xúm vào, tháo mang giáp nơi bụng ra coi, quả nhiên thấy bên trong
có ghép một ống sắt khá dài theo lườn bụng, vừa mở nắp ra đã thấy lãnh
khí xông lạnh khác thường, dốc ra, trong có hai thanh đoản kiếm dài
chừng ba gang, hai bên đầu là lưỡi, màu trắng xóa, chói hào quang, lưỡi sắc không thể tả! Chuôi kiếm có khắc mấy chữ “Hắc Kỳ Chủ Soái Đông Quân Võ” lớn, chút dưới có chữ “tặng” nhỏ.
Kiếm mỏng, dẻo, có thể
cuộn tròn lại, khi vuốt ra cứng lạ thường. Bứt thử mấy sợi tóc thổi phù, tóc đứt lìa. Chợt Giao Long Nữ lại dốc ra một cuộn da mỏng teo, mở coi, đó là một cuốn sách nhỏ, khắc chữ li ti kèm hình vẽ, ngoài bìa đề mấy
chư.
“Quan sát kiếm Phi bí kíp Lưỡng Nghi Thần Công Phù. Đoạt
mệnh thư hợp tuyển”. Minh Thần lật xem qua, tới trang bìa cuối, thấy có
khắc những chữ nôm:
“Đông Quân Võ gửi người có duyên gặp Thiết Phong Câu!
Ta luyện các bí pháp trên để giết thù dựng nghiệp!
Nắm xương vô định đã cao, nhưng hỡi ơi! Chí nguyện vẫn không thành đạt, ta đành ẩn tích, về cát bụi. Nay hợp soạn kỳ công, bí pháp để tặng người
sau. Người khôn, kiếm sắc kỳ thư này vào tay kẻ có thù sâu chưa trả là
ta đã được hả lòng vào cát bụi!”
Võ Minh Thần coi xong, lòng mừng hết sức vội chấp tay vọng bái đoạn thử vận điện công, cầm thanh
“bạch kiếm” chém xả vào tàn cây bên kia suối! Chỉ thấy nháng hào quang,
giữa tiếng kêu như xé lụa, tiếp theo liền mấy tiếng “phập, rào” rất
“ngọt”. Trông sang, tàn cây đã bị đứt lìa, chẻ làm ba, bốn đổ rầm xuống
suối, ánh hào quang trắng xóa còn đảo nháng trên cao, tay Vo vẫn êm như
chém chuối vậy. Giật kiếm về, chàng trai bảo cô gái:
– Chưa quen chém kiếm lớn mà đã “ngọt” thế, quả là một thanh kiếm báu! Bữa nay là
ngày đẹp nhất của chúng ta! Đã kiếm được vòng càn khôn lại được thêm bí
pháp, quả trời cao đã thấu oan tình đem quý vật đặt vào tay!
Giao Long Nữ cũng chém thử một đường, đoạn cả hai nhảy lên lưng Thiết Phong
Câu, kiếm đường đi qua vùng Nguyên Bình Châu, về thẳng trấn Cao Bằng.
Hoàng hôn đã đến nên hai người bàn nhau trút lốt hóa trang dùng thổ cẩm đắp
lên mình Thiết Phong và giấu hết khí giới lóc cóc đi thẳng vào Cao Bằng. Tình cờ lại nhằm ngày giáp phiên, dân các miền Nguyên Bình, Tĩnh Túc,
Nước Hai, Na Fạc Bắc Cạn đi tới rất đông nên không bị chú ý.
Cao Bằng là đất sản xuất nhiều ngựa tốt, nên dân Kinh, Tày Nùng, Xạ phang
cưỡi ngựa hàng đoàn, xe ngựa chở hàng hóa cũng lắm, Võ Minh Thần, Giao
Long Nữ lại mặc quần áo miền núi, giáp trụ gói kỹ, thiên hạ thấy đều cho là cặp vợ chồng, con cái các trấn vương sơn cước đi chợ chơi không ai
cho là lạ.
Hai người đi thẳng vào khu chợ kiếm quán trú ăn uống
no nê xong kiếm nhà trọ gửi ngựa, rủ nhau đi bộ dạo quanh trấn cố kiếm
bọn Đông Tửu xem đã tới chưa! Minh Thần còn cố ý đi quanh xem có gặp
Quản Kình chăng vì chàng rất nóng ruột về sự biệt tích của người quản
gia.
Vào khoảng mười giờ đêm, hai người lại vào quán tàu gần chợ ăn
“xíu dễ”. Đang uống trà bỗng thấy lố nhố hàng chục lính Tây ta Thổ rầm
rập lên lầu, nhìn ngơ ngác khắp thực khách. Bỗng có tiếng reo “kia rồi”
đám lính chạy lại. Võ Minh Thần, Giao Long Nữ chưa hiểu chuyện gì cũng
đưa mắt dòm, nghe tiếng cười khanh khách, đám lính lật mũ lên, cả hai
cùng kêu “ồ” sửng sốt! Thì ra chính bọn Đông Tửu, Nam Khấp, Bạc Khao Lan cùng mấy người nam nữ bộ tướng Mán, Thổ Pi A Ya mặc toàn binh phục.
Cả bọn kéo hai người xuống lầu, Nam Khấp khẽ bảo:
– Quân ma đang sục sạo khắp nơi, cả Giao Long Chúa! Lại có cả “quân đen
trùm mặt vẫn theo phò Tây Sắc”! Chúng đều là quái nhân quái vật độn toán như thần, nếu gặp chúng sẽ sinh ác chiến? Hiện chúng đều rõ người cưỡi
dị thú, đã đoạt đủ bộ vòng quý! Đêm nay ta nên ngủ trong trại quan binh, Tây Gầm đang đợi!
Minh Thần kể qua câu chuyện dị thú hóa “Thiết Phong Câu” của Đông Quan Võ, đoạn về nhà trọ lấy ngựa hỏi Nam Khấp:
– Quan sáu Tây Gầm nghĩ sao, nếu biết ta có đủ bộ vòng.
– Có vẻ không để ý! Ông chỉ tính việc tiểu trừ Tây Sắc, Giao Long trú ẩn
các miền! “Thù của kẻ thù là bạn” nên Tây Gầm chỉ mong người bạn trẻ
diệt được chúng, trừ hại cho dân lành!
Minh Thần yên tâm theo
bọn Nam Khấp tới trại binh Cao Bằng! Quả nhiên đã thấy viên quan sát Tây Gầm đứng đợi trước thềm, đưa khách vào tận giữa vòng thiết xa, đại
pháo! Giới thiệu, bắt tay từng người xong, Tây Gầm mời khách ngồi, tỏ
lời ái mộ, truyền quân hầu mang rượu tới, tự tay rót mời khách. Viên
quan sáu lại mời khách dự tiệc nhân trò chuyện chợt bảo Minh Thần:
– Bản chức về trấn nhận biên thùy có được biết qua về tai họa xảy ra tại
Trùng Khánh phủ, Hồ Ba Bể xin chia buồn cùng công tử, tiểu thư. Bản chức đã hành quân nhiều phen tiêu trừ Tây Sắc, Giao Long nhưng hai con quái
này hết sức lợi hại lần nào cũng thoát. Bản chức có nghe sao huyệt chúng tại miệt Hồ Ba Bể thượng nguồn Hắc Giang, bản chức đã đem binh định phá tận hang ổ, nhưng không sao kiếm được. Nghe nói công tử từng đến tận
sào huyệt Tây Sắc, chẳng hay có thể cho bản chức biết, may ra giup được
công tử phần nào chăng?
Chàng trai khó nghĩ vội đưa mắt nhìn Nam Khấp, lão hiểu ý nói luôn:
– Giao Long Chúa lợi hại, Tây Sắc còn mạnh hơn! Nó luyện được bí pháp phi phàm mỗi con trăng lại ghê thêm một bậc, binh dễ chi trừ nó! Nó vào tận động thất Pi A Ya phá vỡ Bát quái trận ra như không, chính người bạn
trẻ đây suýt thác về tay nó. Ngoài chuyện trả thù còn tìm về nguồn gốc
nữa, người bạn còn tính luyện pháp đã!
Minh Thần tiếp:
– Sào huyệt Tây Sắc mãi đáy Hắc Giang,
cực kỳ kín đáo không làm gì nổi! Tới giờ hành động, bọn ngu mỗ chỉ xin
trừ diệt tinh còn việc khác xin nhường quan sáu.
Tây Gầm không hỏi nữa. Võ lại hỏi về viên giám binh Cao Bằng mười chín năm xưa. Tây Gầm cho biết đã về Pháp, chưa sang.
Tiệc tan Minh Thần tính ngay tới chuyện chiếc vòng thứ ba mới lấy được. Bèn
ngỏ ý với bạn, Nam Khấp xin Tây Gầm một hỏa lò đem lên phòng ngủ… Viên quan sáu thân dẫn khách tầng trên, dành cả năm buồng theo tục Tây
phương!
Khoảng một giờ khuya tất cả sang buồng Võ Minh Thần.
Nghe ngóng, quan sát cẩn thận công Võ mới lấy ra trao Đông Tửu. Chàng
bác học ném vào lò than hồng gắp lên soi đọc.
Đoạn giải cho mọi người nghe, năm người xúm nhỏ to bàn vẻ mặt mừng rỡ đượm suy tư. Chợt Võ bảo các bạn:
– Nếu vậy sớm mai ta phải đi ngay? Không nên chậm trễ, theo lời Bành Tổ
khi đã hiểu rõ điều bí ẩn luyện càn khôn bí pháp. Mai ta cứ mặc đồ nhà
binh cho tiện! Cố tránh các cuộc giao tranh.
Ai nấy tán đồng,
chia tay về buồng riêng. Một đêm yên ổn trôi qua. Sáng mai ngay lúc kèn
thổi rền, đã thấy quan sáu Tây Gầm cưỡi ngựa phi ra khỏi trại binh, dẫn
theo một trung đội kỵ vệ. Ngựa thả kiệu băm ra thẳng vùng ngoại trấn,
năm bóng lính Thổ Nùng tách bóng vào rừng, theo đường Nước Hai, Trà
Linh. Lát sau lại thấy một đội quân rừng trong núi phi ra theo “phò” năm bóng nhà binh mặc quần áo “kaki” vàng cứ đường hoàng noi theo đường
quốc lộ số bốn đi về hướng Bảo Lạc Cóc Pan. Đội quân này có cả nam nữ
với hơn chục con chó lớn coi như giống béc giê nhưng chính toàn sơn cẩu. Đây chỉ là nửa cánh quân Mán Thổ đã dẫn thú binh tiến theo lối thượng
đạo, còn bọn Võ đi theo quốc lộ số bốn, đường lớn có quan binh kiểm
soát, quân ma ít khi sử dụng. Do tình tri ngộ, viên quan sáu Tây Gầm đã
cấp lệnh chuyển quân cho bọn Võ, phòng qua đồn trại quan binh. Quả
nhiên, ngày hôm sau, cả bọn đã tới miền lãnh thổ Pi A Ya, không gặp trở
ngại gì! Cánh quân kỵ thú binh kia cũng đã chuyển về trước vài giờ và
cho biết quân ma đang sục sạo, chặn phục nhiều yếu lộ, nhưng chỉ một lần chạm súng với toán quân đen trùm mặt nhưng không xảy ra ác chiến có lẽ
chúng không thấy bọn Minh Thần. Chàng trai cả mừng, cùng các bạn vào
động thất đã thấy vị chúa tể Pi A Ya ra tận thềm đón, vuốt chòm râu cười lớn mừng mấy người mã đáo thành công.
Ngay đêm đó… một đêm cuối tháng không trăng, vòm trời mây
giăng mờ ánh sao. Gió đêm thu vi vu chạy trên triền Phi Mã, khí giá lạnh như đêm đông. Sương mờ từng dải kéo lê, mấy vùng sơn lâm, quân Mán Thổ
bố phòng chặt chẽ, không khí trùm bí ẩn. Động thất Pi A Ya… vào khoảng canh ba, bỗng cánh cửa hé mở, sáu cái bóng ra, biến nhanh vào đêm sương lạnh.
Độ canh ba giờ Tý, chợt thấy sáu bóng dạ hành đứng sững
trên ngọn Pi A Ya cao chót vót. Mây mù đêm nay bao phủ trên độ cao ngút
hai ngàn thước tây. Gió thổi vù vù, mây mù khí đá kéo đùn đùn lớp lớp.
Sáu bóng dạ hành đứng giữa sương mù xác định vị trí, rồi lần mò nhấp nhô ẩn hiện như một lũ cô hồn.
Bỗng nghe tiếng Đông Tửu kêu nhỏ:
– Đêm nay sao lắm sa mù thế này? Ôi chao! Khó kiếm! Hay ta cứ dùng đèn bấm?
Có tiếng Bạc Khao Lan thảnh thót:
– Không nên! Ánh đèn lập lòe dễ gây chú ý. Tiên sinh cứ đọc rõ lời dặn là tôi xác định vị trí được rồi!
Thì thào to nhỏ… sáu cái bóng lẩn quanh, lát sau đã hiện trên đỉnh như đi trên mây.
– Đây rồi! Hướng mặt trời lặn! Bắt đầu đếm! Một hai ba, phải tới sáu, bảy bước người tiền sử dài gấp mấy người hiện nay! Ngang, dọc, khu này!
– Lạ dữ! Chính chỗ này tôi đã leo mấy lần ban ngày chỉ thấy đá liền, cây cỏ rêu phong.
– Cứ thử vận sức lay xem! À! Có đường nứt rạn, cây cỏ mới mọc! Trong
sương mù, có nhiều tiếng “kịch kịch” chừng nửa giờ sau chợt nghe tiếng
Bạc Khao Lan kêu “A! Không ngờ! Kỳ lạ thật! Toàn phiến đá ghép”, tiếp
Tửu hô chìm “Khí lạnh kinh người! Xin tất cả hãy vận sức hỏa công lên!
Nếu không máu đông đặc như chơi!” Sau mấy phút bỗng ánh đuốc bừng lên
hai, ba ngọn đỏ rực tứ bề. Ngọn đỉnh biến mất, sáu bóng người đứng trong một khung cửa tò vò sau lưng vòm trời mây mù. Sáu bộ mặt tẽn tò, đăm
chiêu, sáu cặp mắt long lanh nghiêm trọng kỳ thú của sáu người hiện đai
sắp đi sâu vào dĩ vãng ngàn xưa. Võ Minh Thần, Giao Long Nữ, Bạc Khao
Lan, Đông Tửu, Nam Khấp, Chúa Mán Thổ Pi A Ya, sáu người đưa mắt nhìn
vào. Một hang sâu hút, ăn chếch từ trên đỉnh núi xuống như miệng con
mãng xà khổng lồ định nuốt người. Ánh đuốc chỉ soi được vài thước chiếu đèn bấm lỗ hang sâu như “khẩu địa môn” trên ngọn Pi Mã Úac khác chút là nó hơi chếch, coi dễ ghê hơn. Vách “huyệt” lồi lõm không đều nhưng từ dưới khí lạnh xông lên giá buốt như đứng trước lò ướp lạnh
mang theo một thứ âm rất lạ tai từ ruột núi.
– Để Khấp này xuống trước!
– Coi chừng lạnh khí! Nhớ vận công.
– Ôi chao! Quý hữu khéo lo! Quên Khấp này là “con ma nước đá” sao? Nam
Khấp cười khà, cầm đuốc xuống huyệt lạnh. Thoắt mất dạng. Lát sau, chợt
nghe tiếng gọi ơi ới, cả bọn nối nhau lần xuống. Huyệt sâu hút, càng
xuống càng loe rộng và càng lạnh. Khí đá hàn bốc lên, vách trơn hết sức, cả bọn đã vận điện công vẫn còn thấy lành lạnh khác thường. Riêng lão
Nam Khấp xem chừng cao hứng nhất, không coi khí lạnh vào đâu! Cả bọn đi
theo Nam Khấp, xuống mãi. Phải tay thạo khinh công mới di chuyển dễ
dàng, xuống vài mươi bộ trông lên, chỉ thấy khói sương mù mịt, dòm xuống nữa khong cũng khói sương, xuống sâu thêm đuốc chỉ chực tắt. Lâu nữa
tắt thật! Nhưng chỉ qua một đoạn thắp đuốc lại sáng bừng, ngực thở nhẹ
nhõm hẳn không khí rất nhiều như có lỗ thông hơi thiên nhiên. Tuy vậy,
đến sức lạnh, ai cũng phải ngán vì càng sâu càng lạnh, ruột hang không
ăn thẳng mà lại lượn quanh co van vát không còn nhớ bao nhiêu thước,
bỗng thấy Nam Khấp đi trước reo lên. Bọn Minh Thần xuống mau, bỗng hạ
chân xuống một vùng loe rộng, trần cao vút, thạch nhũ rũ đầy đá, đá mọc nhấp nhô dị hình, rộng loáng nửa hang.
– Chắc sắp tới “Lãnh huyệt lãnh phần” rồi! Ôi chao! Không khác nào lò ướp xác đông máu như chơi!
Đông Tửu cầm ngọn đuốc theo Nam Khấp tiến lên dắt lối, bọn Minh Thần theo
sau, lạnh đến chết người và im như trong quan tài, bên tai mọi người chỉ có những tiếng phào phào nhè nhẹ phảng phất rõ tiếng nước bốc hơi.
Cả bọn đi quanh động, qua một khu đầy đá moc, bỗng cả bọn dừng lại, bồi
hồi. Trước mặt, sịch hiện ra một cảnh tượng dị thường. Vách đá ăn lõm
vào theo hình móng lừa, nhưng lại chếch lên cao, có nhiều bậc nhẵn như
mài, coi tựa như dẫn lên một cửa hang thạch điện.
Thì thào mấy
khắc, Võ Minh Thần dẫn cả bọn bước lên bậc đá. Đúng mười hai bậc! Hết
bậc chợt thấy hiện ra một cửa thạch động nữa, bị nhà đá che rũ. Ngoài
cửa có một bậc thềm bày nhiều tượng bằng đá, nét khắc tựa những pho
tượng chạm Ai Cập cổ xưa, nhưng còn lạ hơn vì có những hình loài vật giờ không còn thấy!
Cả sáu người bước lên, đứng soi đuốc quan sát,
càng nhìn càng thấy lạ, không giống bất cứ lối kiến tạo điêu khắc nào
xưa nay. Rõ ràng không phải cửa đá thiên nhiên, phải có bàn tay tạo tác
của người có khiếu thẩm mỹ khác thường! Đặc biệt là tất cả nhẵn thín mài dũi thật tỉ mỉ.
Khung cửa hình vuông, có một bức rèm cũng bằng đá xám có hai
hình tượng đá cao những chữ tượng hình kỳ la, giống thứ trong ruột vòng. Khí lạnh tỏa khắp thạch động, khu cửa đá này đá lạnh gấp bội, tuyết
băng phủ trắng xóa các góc cạnh. Ngọn đèn soi sát vào chỗ nào, chỗ đó
dần rõ nước lăn tăn.
Tuy đã vận điện hỏa công, mấy người vẫn thấy ớn lạnh, rùng mình liên tiếp, phải lấy đuốc rê khắp mình.
– Đây rồi! Thạch phần đây rồi! Băng giá kinh người! Thêm đuốc cho đỡ
lạnh! Mấy người nghe Đông Tửu bảo vội thắp thêm mấy cây đuốc, có kẻ cầm
hai cây rê sát thịt da cho đỡ thấy rét. Đông Tửu lách qua những pho
tượng đá dị hình, lại sát cửa soi dòm chữ khắc.
Băng giá gặp lửa kêu “xèo xèo” nước đá chảy, chữ tượng hình hiện rõ dần. Chàng bác học
ta uống luôn mấy ngụm rượu quay bảo mọi người.
– Đúng rồi đây!
Bí mật càn khôn để trong này. Cả bọn hồi hộp hết sức! Đông Tửu ra hiệu
cho Võ Minh Thần, hai người cùng tỳ vào hai pho tượng lớn trước tấm cửa, rồi vận sức thử đẩy mạnh. Kịch kịch! Quả nhiên cửa đá ghép hai tấm bảng tuyết treo phủ vừa đủ cả hai pho tượng cùng cửa đá từ từ chạy ra hai
bên để lộ ra một cái hang sâu có nhiều bậc đi xuống. Phải nói huyệt mới
đúng!
Cửa vừa mở khí lạnh xông ra ghê người khiến hai chàng phải lùi lại, giơ cao đuốc. Cả sáu người bật kêu “ồ” sửng số, màu đỏ chói
đập vào nhỡn quan.
– Ôi chao huyệt máu? Nam Khấp kêu lên, tiếng vang nghe thật lạ tai.
Mấy người định tiến vào, nhưng Đông Tửu ngăn lại. Chừng mươi khắc, chàng
ta mới ra hiệu cho cả bọn tiến vào. Tất cả vận thần điện lực, hai tay
hai bó đuốc vừa soi cao, vừa rê áp sát mình cho ấm.
Nhưng lãnh
khí kinh người vẫn xông táp vao cơ thể, cả sáu người như chui vào một
cái “lò ướp đông” quái gở. Đuốc nhất loạt rạp ngọn lập lòe. Tất cả đều
một màu đỏ rực. Băng giá phủ đầy, bậc thềm ướt trơn, dẫm chân, qua lần
đế giày vẫn thấy lạnh toát gan bàn chân!
– “Tủ lạnh” này, người
thường bước vào chỉ nửa phút sẽ đông mạch máu! Giờ xin nhị tiền bối và
các bạn theo ngu mỗ! Không nên ở trong này lâu!
Đông Tửu cầm
đuốc, lần xuống huyệt. Sâu thẳm! Đúng mười hai bậc, thì hết sáu người có cảm tưởng như đi xuống âm ty! Vì càng xuống, sương mù khí lạnh càng
nhiều, táp cả vào mặt mũi.
Đông Tửu, Nam Khấp, Minh Thần phải đi trước, rê tỏa đuốc quanh mình, lửa nóng xua bạt sương khí, nhưng trước
mặt hơn sải, hơi lạnh vẫn mịt mờ. Vẫn những khoảng đỏ đập vào mắt. Đông
Tửu soi quanh bảo:
– Huyệt ngọc? Huyệt phần này toàn ngọc đỏ! Kho tàng bí ẩn càn
khôn chắc trong này! Bành Tổ bảo để trong tay ấy. Ta kiếm bàn tay.
Miệng nói chân bước xuống đáy huyệt, cả bọn đi theo. Mười hai ngọn đuốc chập
chờn nham nhở hơi lạnh bốc mờ huyệt phần im vô cùng, sáu người tưởng
mình đang đi sâu vào lối tịch mịch bên kia thế giới dương trần. Giao
Long Nữ thấy bọn Võ Minh Thần đi lần từng tấc, sốt ruột, vội giơ cao
đuốc xông lên trước. Bỗng vấp phải vật gì, cô gái hạ đuốc, sát dòm giật
mình kêu “úy” dừng phắt lại, chạm bịch vào Đông Tửu.
– Quái thú! Quái thú! Cô gái bật kêu, cả bọn xúm soi qua làn sương khói, một cái
đầu to bằng thúng cái ngóc lên, hai mắt lồi đèn pha, nhe nanh, múa vuốt
như chực vồ người nuốt chửng!
Mặt quái giống hệt mặt hổ phù thường đặt tại các đền đài miếu mạo, mọi người soi sát đuốc. Đông Tửu gạt ra kêu:
– Khủng Long! Con rồng tiền sử đây. Yên tâm! Rồng đang ngủ. Ai nấy soi
dòm kỹ, quả là một con khủng long thân hình to như cây gỗ lớn cuộn khúc, ngóc đầu lên nằm không nhúc nhích coi giống hệt một con rồng, trên đầu có mào đỏ vẩy vàng lấp lánh băng giá phủ đầy.
Ai nấy có vẻ suy tư, vị chúa Pi A Ya vùng bảo:
– Huyệt phần này không nên ở lâu phải tính gấp mới được. Võ Minh Thần vội quay hỏi Đông Tửu:
– Giờ ta xử sao cho đúng di ngôn của Bành Tổ? Đông Tửu cao giọng:
– Theo lời viết chìm trong ruột vòng thứ ba “càn khôn bí pháp” toàn bộ để trong tay Bành Tổ! Chỉ có bí pháp đó mới hoàn toàn chính xác muốn thành công phải theo đó mà luyện! Luyện không trọn bí pháp có thể sinh nhiều
chuyện nguy hiểm. Tổ còn dặn chỗ Tổ nằm còn có một chất giúp cho việc
luyện thành! Người nằm đây thiên vạn cổ, trong lò “ướp thiên tạo” và có
thể hồi sinh nếu gặp nhiệt khí đủ đo cần thiết. Nhưng “người” lại không
dặn có phải đánh thức người dậy hay không? Việc này xin để Võ huynh và
cô nương liệu định?
Cả bọn ngắm thân hình Bành Tổ Lĩnh Nam nằm
bất động như một cái xác ướp trong Kim Tự Tháp Ai Cập. Ai cũng khó nghĩ
chẳng biết tính sao cho hợp lệ. Huyệt phần lạnh ghê người ai nấy cắn
răng vận sức chống lạnh, vị chúa Mán Thổ Pi A Ya chợt lên tiếng:
– Lão phu tưởng như “người” không dặn, ta khỏi cần đánh thức! “Người” nằm trong huyệt phần từ thiên vạn cổ, nếu tỉnh dậy, nỗi buồn cô độc chắc
gớm ghê khôn tả! Ta hãy nghĩ đến nỗi buồn của Lưu Thần Nguyễn Triệu từ
tiên giới về trần thì quê cũ đã hoàn toàn đổi khác, gặp cháu tám mươi đời mới hay đã trải mấy trăm năm dâu biển! Giao Long Nữ nói luôn:
– Tiền bối dạy
phải! Cứ để “người” nằm yên giấc ngàn đời! Nếu có gì khó khăn, sau này
ta đánh thức “người” dậy thỉnh ý không muộn vả huyệt phần quá lạnh,
chúng ta không thể vận công lâu, neu kéo dài, có thể đông máu như không!
Ai nấy tán đồng. Võ Minh Thần cầm chập ba bó đuốc, bước lại,
cúi dòm vào bàn tay Bành Tổ. Tay xòe màng đá phủ đầy, kín bưng. Nhìn
ngược lên tận nách sau lần màng trong suốt, chẳng thấy vật gì, chàng đã
giật mình, lo ngại.
Bỗng Giao Long Nữ vùng sang bên tay kia reo
lên “đây rồi”. Cả bọn chạy sang. Quả nhiên bàn tay to lớn này đặt
nghiêng nắm lại không có màng. Võ Minh Thần hồi hộp thò tay luôn vào một vật lạnh như tuyết.
Dòm lại, đó là một pho tượng khỏa thân đỏ
chót màu hồng ngọc nhỏ bằng ngón chân cái, dài độ sáu, bảy phân. Sờ kỹ,
không còn gì nữa! Chiều đèn bấm, cũng không.
Run run xúc động,
Võ trao luon cho Đông Tửu. Chàng bác học soi đuốc, dòm khắp pho tượng
hồng ngọc, thấy chữ tượng hình khắc li ti đầy mình tượng. Lấy trong túi
ra một cái “lúp” chàng ta rê khắp mình lẩm bẩm mươi giây bỗng mắt sáng
ngời quay bảo:
– Đây là “bí pháp Càn Khôn toàn bộ”! Các yếu
huyệt cơ quan, lục phủ các đường kinh mạch pháp luyện đều khắp nơi mình
tượng, nếu đem nung nóng sẽ thấy cả chữ trong ruột tượng, ghi ngay tại
các bộ phận trong cơ thể người ta! Còn vật giúp cho việc luyện cũng dặn
đây! Vật đó ngay dưới gầm “sàng quan”!
Vừa nói vừa trao trả Minh Thần, chàng trai đỡ lấy cầm tượng bí pháp trong tay, lòng vô cùng cảm
động nghĩ đến mối huyết hận thâm cừu, nước mắt bỗng thấy ròng ròng, ôm
tượng vào ngực, nghẹn ngào:
– Trời còn tựa người lành… Mong ân Thượng Đế, nay bí pháp báo cừu cho phụ mẫu đã trong tay… Hồn mẹ thác
oan… trong cõi u minh, hãy chờ con rửa hận. Giao Long Nữ hiền muội ơi!
Võ nhìn cô gái, cả hai cùng quỳ xuống, Võ dúi pho tượng vào tay nàng, nàng ôm vào ngực, lại đưa cho Võ, bọn Đông Tửu cùng nhìn nhau,
cười ứa lệ, Đông Tửu vùng hô:
– Mau tính xong cho gấp! Hai người vội lau nước mat, cùng đồng bọn cúi soi dưới gầm giường ngọc. Khí mù
từ dưới đó xông lên ngùn ngụt, hơi lạnh càng ghê. Xua bạt khí mù, thấy
một lỗ huyệt bằng miệng thúng, sâu hun hút.
– Khí lạnh làm cơ thể không thối rữa, cũng giúp cho chống sự hủy diệt! Lỗ huyệt này cũng là “khẩu địa môn” nhưng tụ kết khí nước lạnh
khắp trái đất gọi là “lãnh thủy môn” còn khí lạnh này cũng là khí trường sinh, chứa đựng đủ dược tính tốt hơn cả những nguồn “thánh truyền” đầy
chất bổ thỉnh thoảng vẫn có trên trái đất. Muốn thành công phải tắm cả
khí ôn nhu lẫn khí tinh hoa hai cửa! Giờ mới hiểu tại sao vị Thủy tôn
trong hang Pi A Úac lại cho ta xuống tắm “khẩu địa môn”! Vậy chúng ta
cùng xuống tắm. Để Võ này xuống trước.
Nói xong, Võ bèn cầm đèn
bấm trao tượng ngọc chui luôn xuống “lãnh thủy môn”. Khí lạnh kinh người tưởng chết ngay! Nhưng lạ thay! Chỉ mấy giây bỗng trong mình có một
luồng nhiệt khí vận chuyển, thấy ấm dần dưới chiều sâu vài sai. Giây
phút cả bọn đã tắm xong. Bèn đứng bên giường ngọc, bóc hoa cỏ phủ kín
người Bành Tổ, cả bọn chắp tay bái lạy, tạ ơn và kéo nhau lên khỏi huyệt thần. Tới cửa nhà mồ đóng lại cẩn thận, sáu người lại theo lối cũ ra
khỏi ruột núi. Cả sáu lại vận sức đẩy các phiến đá lấp kín cửa hang sâu
như trước.
Ngọn Pi A Ya trời vẫn tối mờ đuốc đã tắt, gió vi vu
sa mù vương vất. Như sáu hồn ma vừa từ dĩ vãng thiên thu trở về, sáu
người đứng im trên hoang sơn, lòng đầy cảm khái bâng khuâng. Dưới kia
sơn lâm trùng trùng quạnh quẽ không tiếng động, nằm thiếp trong đêm gió.
Đông Tửu bỗng thở phào, trầm lời:
– Mừng hiền huynh
cùng cô nương đã tìm được bí pháp siêu phàm! Giờ phải thuộc làu cho mau, còn phải luyện tập! Để ngu đệ phải chép ngay đêm nay! Nhưng hiền huynh
giữ tượng, hãy trao bộ vòng cho cô nương!
– Giao Long Nữ chỉ giữ hai cái, còn một cái ngu đệ phải đeo liền vì đó là di vật độc nhất để tìm ra nguồn gốc mai sau!
– À! Đệ quên mất! Chắc canh tư lâu rồi. Hạ sơn! Trong sa mù đêm tối, chín cái bóng ẩn hiện chập chờn, chạy xuống chân núi.
Pi A Ya! Hai mươi lăm giờ sau… Đêm về sáng… Pi A Ya thu trong sương
mờ, gió lạnh, núi đèo đìu hiu… Sáu bóng kỵ âm thầm rời khu động thất
chạy như bay ra khỏi miền lãnh địa Mán Thổ Phi Mã Yên sơn. Khi tiếng
chim khẩm khắc đã gặp nhau trốc thung lũng: rừng già vọng tiếng gà khẽ
khẽ ngái ngủ, sáu bóng kỵ bỗng đứng sững trên ngọn đồi cao, chụm đầu vào nhau, nhìn dáng in vào nền trời úa rung rung… Có nhiều tiếng nghẹn!
Rồi tự nhiên, tiếng “khèn” lau cất lên, âm thanh rung động như nỗi sau
nguyên thủy mang mang. Một bóng nữ đỡ lấy cây “khèn”, một bóng nữa đỡ
lấy chiếc tù và cả hai tế xuống thung. Đó là Võ Minh Thần và Giao Long
Nữ, cặp trai gái chí hiếu biệt bạn ra đi luyện thuật báo cừu. Bỗng tiếng kèn Nam Khấp đuổi theo buồn chết lòng người.
– Ngày về không xa việc gì phải thổi cung biệt thảm. Ngựa sắt beo đen vọt xuống giữa thung khuất sau bờ bụi phút sau chợt thấy hai bóng lao đao chia hai ngả,
chàng trai phi lên ngọn đèo Bắc, cô gái vọt đèo Đông mất dạng. Bốn nhân
mã đứng trông theo. Bóng tít ngọn đèn chót vót, hiện lên hai bóng câm
nín vẽ trên nền trời trăng khuyết nhạt coi như hai bóng oan hồn đi trên
mây. Hai bóng kỵ sỹ chìm dần trong trăng. Ngàn dặm quan san… Giao Long Nữ cưỡi beo đen đi về hướng biển Đông. Võ Minh Thần cưỡi thiết kỵ vượt biên thùy đi về phương Bắc mờ sương… Trên lưng hiếu tử, vẫn đeo theo
di hài người mẹ và mối oan cừu trùm thiên địa!