Đọc truyện Lam Y Nữ Hiệp – Chương 20: Thiên bất dung gian, Xích Hoa viện bị hỏa thiêu Đến Mã Thạch cương, Hán Thọ Đình Hầu báo mộng
Màn đêm dày đặc, gió lạnh âm u rít lên từng đợt như tiếng ma hờn quỷ khóc…
Chu Đức Kiệt và Lam Y nữ hiệp phi hành như biến trong đêm tối,
không mấy chốc đã tới gần Xích Hoa viện, Lam Y trở ra phía sau, Chu Đức
Kiệt hiểu ý, cả hai cùng chạy vòng ra phía sau trang viện, phi thân lên
cây cao dòm vào quan sát. Qua tường là vườn cây rộng lớn, ở giữa và
quanh vườn có mấy khu nhà nhỏ bằng gạch lợp bằng lá. Chu Đức Kiệt nói
nhỏ :
– Thế này thì có đường gạt chúng rồi!
Lam Y chưa kịp trả lời thì có tiếng chó sủa vọng tới.
– Chắc bọn này nuôi chó canh phòng! Thính hơi lắm.
– Ta cứ vào sẽ liệu sau. Hiền muội đáp xuống mặt tường trước đi!
Hai bóng đen nhảy theo nhau xuống mặt tường hoa lẹ làng không một tiếng động. Nhưng có hai bóng trắng từ xa chạy tới…
Đó là hai con chó trắng thiệt lớn, chạy gần tới chân tường thì
dừng ngay lại, gầm gừ tìm tòi. Anh em Chu gia nằm dài trên mặt tường như hai pho tượng không nhúc nhắc. Đánh được hơi người, hai con chó tiến
tới gần hơn, chưa kịp sủa báo hiệu thì Lam Y đã lẹ như chớp vung luôn
hai mũi phi đao theo lối liên châu trúng yết hầu hai con vật. Cùng hộc
lên được một tiếng, hai con chó lăn ra giãy giụa vài cái chết liền.
Sở dĩ hạ sát ngay được hai con vật tinh quái ấy vì Lam Y có hai
thứ phi đao. Một thứ thường, một thứ có tẩm thuốc độc rất mạnh do Đức Võ Thượng Nhân chế hóa và truyền cho hai đồ đệ. Thứ thuốc đó ngấm vào máu
thì kẻ bị trúng đao táng mạng ngay trong khoảnh khắc. Thuốc độc ngấm
thẳng vào tim, lưỡi rụt lại, da mặt xám ngắt, chân tay co quắp. Bởi vậy, hai con chó lớn vừa rồi chỉ kịp hộc lên một tiếng lăn ra giãy chết
liền.
Anh em Chu gia chưa đứng dậy vội, đưa mắt nhìn tứ phía. Bỗng có
tiếng nói léo nhéo, rồi hai người từ gian nhà gạch ở giữa vườn cầm đèn
bước ra. Chúng huýt gió gọi chó ba bốn lần.
Một tên nói :
– Lạ nhỉ! Rõ ràng nghe hai con chạy ra phía này, vừa chạy vừa gầm gừ, thế mà mất biến.
Tên khác nói :
– Ta cũng nghe thấy đúng như vậy. Mọi khi chỉ huýt gió nhẹ một
tiếng là chúng tới ngay… Hừ! kỳ thiệt! Hay là ta thẳng lối kia xem
sao?
– Ờ phải đó, nếu có động ta đánh phèng la báo hiệu ngay.
Hai tên cùng cầm đèn, xách đao, chuệnh choạng đi ra lối hai con chó vừa trúng thương.
– Hai bữa nay trời lạnh quá! Mất cả giấc ngủ. Nếu bắt được bọn
tặc đạo ở tửu điếm đem qua, tôi quyết bằm chúng ra thành trăm mới hả
giận.
Không mấy chốc, hai tên gia đinh ra tới chỗ hai con vật chết lăn trên mặt đất.
– Ủa! Mấy con quái phải gió hay sao thế này.
Một tên để đèn xuống bên sờ vào bụng chó :
– Mình nó hãy còn ấm, vừa mới bị chết xong.
Lật xác chó lại, y trông thấy giải phi đao màu lam lòng thòng
ngay chỗ yết hầu con vật, máu ri rỉ chảy. Xem xác con chó kia cũng vậy.
– Có động rồi mày ơi, đánh phèng la, mau!
Nhưng, mau cũng chẳng kịp, cả hai tên cùng rợn tóc gáy vì từ phía sau lưng, có vật gì lạnh giá áp vào gáy chúng.
– Biết điều câm miệng ngay kẻo về chầu tổ bây giờ!.
Hai tên sợ toát mồ hôi, cứng cả lưỡi, đứng đờ người ra, buông khí giới rớt xuống đất.
Lam Y thâu hai chiếc đèn để lấp vào cây.
Chu Đức Kiệt hỏi một tên :
– Thằng Đới tặc ở đâu?
– Dạ… ở trên… nhà lớn ạ.
– Có ai nữa không?
– Dạ có… có hai ngườị. nữa ạ.
– Mấy gian nhà trong vườn này là nhà chi?
– Nhà… lợp ngói là… tầu… ngựa, còn thì… là… là nhà để rơm và… và thóc gạo ạ…
Không cần biết thêm, anh em Chu gia lấy thắt lưng của chúng trói chặt lại, cắt miếng vạt áo nhét đầy miệng chúng.
Đoạn Lam Y lấy lại hai ngọn phi đao chùi sạch vết máu lên áo tên gia đinh.
– Bỏ xác hai con chó và hai tên này ra ngoài tường, hiền huynh ạ.
– Khỏi cần! Đằng nào cũng nhốn nháo ngay bây giờ. Ta phóng hỏa
đốt nhà lá khiến chúng cứu hỏa hoang mang rồi đánh thẳng lên nhà trên.
Anh em Chu gia cầm đèn giấu ra phía sau lưng chạy ra chỗ mấy căn nhà lá phi thân lên nóc dốc dầu xuống mái lá. Dầu lửa gặp mái lá bốc
cháy ngay, không mấy chốc ngọn lửa đã bốc lớn ngùn ngụt. Bọn gia đinh
thấy cháy hò nhau kẻ lấy thang, người lấy nước chạy ra vườn cứu hỏa ầm
ầm. Các tên khác có phận sự canh phòng phía trước trang viện, trông thấy ngọn lửa bốc cao ở vườn sau và tiếng reo hò ầm ĩ bèn chạy vào đại sảnh
cấp báo.
Đới Vĩnh Khang đang ngồi uống rượu, đàm đạo với Tần thị và Lã Ứng Đăng, chờ động tĩnh. Họ Đới nói :
– Giờ này mà bọn Lam Y chưa tới, chắc chúng có ý kéo dài đòn cân não, làm ta chờ đợi mệt mỏi rồi mới tới đánh. Vậy, từ mai trở đi ta
thay phiên nhau thức canh phòng cho khỏi mất sức.
Tần thị lắc đầu :
– Dự đoán như vậy sai lạc cả rồi. Hẵng hỏi trang viện này có thể ví được với Kim Cương tự không? Có kiên cố và nhiều người bằng ngôi
chùa ghê gớm của Phi Không chăng? Chắc không? Vậy, nếu chúng không tới
thì chắc là đi thẳng nơi khác rồi. Việc đề phòng cứ đề phòng, lúc phải
đánh cứ đánh, chớ chẳng nên quá tin ở lực lượng của ta. Căn cứ vào trận
Kim Cương tự, ta đủ biết bọn Lam Y bản lãnh hẳn không vừa!
Đới Vĩnh Khang tỉnh ngộ đâm ra lo lắng :
– Làm thế nào được bây giờ?
Tần thị quắc thước nói :
– Bây giờ mới hỏi làm gì được thì ta trả lời sao nổi? Cắt đặt đề phòng đã chu đáo lắm rồi, không có chi đáng trách. Ta chỉ so sánh lực
lượng của ta và của địch đó thôi. Không nên tự phụ nguy hiểm tới tánh
mạng. Trái lại, nên ra công đánh và phải biết tiến thoái tùy theo trường hợp. Câu nệ, háo thắng khinh thường kẻ địch là nguyên nhân thất trận.
Hai người nên cố tâm nghe lời lão phu này mới được!
Giữa khi đang bàn luận, tên gia đinh hớt hơ hớt hải chạy vào.
Ba người tưởng có động, đứng phắt dậy.
– Bẩm chủ nhân, mấy căn nhà để thóc và rơm ở sau vườn bốc cháy. Cho chúng con ra chữa lửa?
Đới Vĩnh Khang ngần ngừ chưa quyết định ra sao thì Tần thì nói ngay :
– Mấy gian nhà sau vườn tự dưng bốc lửa, đáng ngờ lắm! Chắc địch thủ gây rối để đột nhập nơi đây. Được! Để hai tên bộ hạ ở lại phía
trước với ta, còn hai người liệu đốc thúc tất cả ra chữa lửa ngay kẻo
muộn.
Thấy Tần thị sáng suốt, cắt đặt đâu vào đấy, Đới Vĩnh Khang cả
mừng, để lại hai gia đinh cho Tân thị sai bảo, còn thì cùng Lã Ứng Đăng
đốc thúc nội bọn ra cả phía vườn sau.
Đới Vĩnh Khang vừa chạy vừa hút gió gọi chó.
– Quái! Hai con vật này đâu mà gọi cũng không tới.
Lã Ứng Đăng nói :
– Có lẽ nó ra chỗ đám cháy.
Một tên gia đinh thưa :
– Hồi nãy, hai con chó còn lảng vảng ở quanh đại viện, không lẽ
chúng ta ra chỗ cháy thấy lửa bốc, bóng người nhấp nhô mà im lìm không
sủa.
Nói về anh em Chu gia phóng hỏa xong, bèn phi thân ra ngoài
tường chạy vòng ra mặt tiền, thoáng thấy bóng người canh phòng trên vọng lầu, hai người phi thân lên cây lớn gần đó. Chu Đức Kiệt bắt chước
tiếng chuột.
Tên gia đinh trên vọng lầu vội ghé đầu ra ngoài ngó ngàng, nhìn dọc, lẩm bẩm :
– Chuột chi kêu ở đâu mà như ở trên cây vậy?
Vừa nói hết câu, bỗng một bàn tay sắt túm tóc y giật ngửa đầu ra phía sau rắc một tiếng. Tên đó bị gãy cổ chết không kịp ngáp. Lam Y vẫn túm tóc để xác chết nằm xoài ra đó. Thì ra, trong khi tên kia ngơ ngác, nàng đã phi thân từ cây sang vọng lâu, như một vệt đen mà tên gia đinh
không trông thấy nên bỏ mạng. Thấy Lam Y hành động đã xong. Chu Đức Kiệt phi thân sang vọng lâu nhìn vào trang viên. Giây lát, thấy gia đinh
chạy tới tấp theo Đới Vĩnh Khang và Lã Ứng Đăng đi cứu hỏa.
– Trúng kế rồi!
Lam Y nói :
– Chưa chắc hiền huynh ạ, nếu A Hoành nói đúng thì còn một nhân
vật thứ ba nữa, Vừa rồi mới thấy có hai người cùng bọn gia nhân đi ra
phía vườn sau thôi.
– Phải! Còn thiếu lão phụ!
Chờ cho bọn Đới Vĩnh Khang đi khuất, anh em Chu gia liền tuốt
khí giới, đáp xuống đất lần theo bóng tối chạy băng qua sân gạch lớn
đứng sát lưng vào tường trang viện. Ngó qua, các cửa mặt tiền đóng kín,
Chu Đức Kiệt cầm tay Lam Y đi lẹ ra lối cửa giữa. Nhìn kỹ thấy hai cánh
cửa chỉ khép lại chớ không đóng kín.
Lam Y nói nhỏ :
– Cửa chính không đóng chặt, vô lý quá!
Nhận xét trên tường cẩn thận, hai người đứng nép lưng vào tường ở hai bên cửa, đoạn Lam Y lấy mũi Thái Dương kiếm đẩy bật cánh cửa vào
phía trong… “soạt!” một tiếng, ngay ở trong ngưỡng cửa, một miệng hầm
tối om mở rộng ra bằng chiếc chiếu lớn. Cũng may, nếu không thận trọng
thì hai anh em đã trúng cơ quan đối phương rơi cả xuống hầm rồi. Nhìn
vào, phía trong khá rộng rãi, bày biện đơn sơ, không có thắp đèn, nhưng
ánh sáng lọt từ phòng trong qua các khuôn kính ra ngoài. Chu Đức Kiệt ra hiệu cho Lam Y rồi phóng mình nhảy vụt vào trong nhà. Lam Y nhảy theo.
Trong cuối căn này có hai cửa ở hai bên đi vào phòng trong. Trong khi
Chu Đức Kiệt đứng canh chừng, Lam Y nhảy lên xà ngang phía dưới mái nhìn qua các khuôn kính quan sát bên trong. Căn này hình như là đại sảnh nên bày biện gọn gàng, trang hoàng đẹp đẽ. Vắng ngắt không có một bóng
người. Lam Y nhảy xuống bảo cho Chu Đức Kiệt biết tình hình gian trong.
Hai người tiến đến gần cửa nhận xét, thấy không có then cũng
chẳng có khóa nên có ý nghi ngờ, Lam Y nhìn lên bức tường thấy có một
vật bằng đồng thau lồi ra khỏi mặt tường như chiếc ly nước lớn. Nàng bèn lấy mũi kiếm ấn mạnh vào miếng đồng đó, thì ở ngay kế bên mở rộng ra
một khuôn cửa lớn khác thông vào gian trong. Ánh sáng đèn theo khuôn cửa tràn ra ngoài.
Thì ra, đó mới là cửa thật còn hai khuôn ngờ là cửa ở hai bên, có lẽ lại là một cơ quan lừa kẻ lạ.
Anh em Chu gia theo nhau nhảy vọt vào phòng trong, chân vừa tới
đất thì từ miệng con sư tử lớn bày ở giữa nhà vọt ra một mớ đến bảy, tám chiếc nhắm thẳng chỗ hai người đứng bay tới. Không ai bảo ai, hai người vội nhảy sang hai bên tránh khỏi luồng tên. Mớ tên đó phát vụt ra ngoài cửa giữa, Lam Y nhảy tới bên con sư tử chém mạnh một lát kiếm.
Sư tử bằng cây sơn đỏ đứt đầu rớt cộc xuống gạch. Thân rỗng chưa mấy thứ cơ quan phát tên.
Lam Y nói :
– Chắc con sư tử này có cơ quan liên lạc với cánh cửa giữa, nên khi mở cửa thì tên phát xuất ngay một cách bất ngờ.
Giữa lúc ấy thì có tiếng lanh lảnh quát :
– Giỏi thay cho hai tên này, đang đêm dám đột nhập nhà người,
phi dâm tắc đạo! Con nào là Lam Y hãy ra đây nếm mùi trượng của bà!.
Anh em Chu gia nhận ra chủ thứ tiếng lanh lảnh vừa rồi là một bà lão tóc bạc như cước, thân hình gầy guộc, đôi mắt sáng quắc như tia ra
lửa, vận áo dài tới đầu gối, quần bị ống, tay cầm một cây thiết trượng
có đốt, coi hùng dũng lạ thường, đang đứng chắn ở cửa giữa.
Lam Y bấm tay Chu Đức Kiệt rồi đáp lại :
– Lam Y chính là ta đây, ngươi là ai trọng tuổi rồi sao không
biết ngồi một nơi niệm Phật may ra sau này được siêu sinh tịnh độ, còn
vác gậy ra đây tranh tài đua sức nữa sao! Nơi trang viện này là nhà của
người hiền lương hay sào huyệt của tên tặc đạo Xích Hoa Xà họ Đới và
đồng bọn?
Lão phụ trợn mắt hét :
– Khỏi nhiều lời! Hãy coi trượng của Bạch Mẫu Ngô Công. Rán mà đỡ con ạ!
Tần thị nói dứt lời, hoa trượng vùn vụt bật lên những tiếng gió
ghê hồn, nhắm Lam Y đánh tới tấp. Lam Y cũng múa kiếm gạt đỡ, trả đòn.
Đỡ thử mấy ngọn đầu, nàng khen thầm lão phụ quả có sức mạnh, bản lãnh
đáng liệt vào hạng cao siêu. Lam Y dùng sức, tận tâm đánh lại mở trận
đấu bằng những ngọn kiếm tối độc khiến Tần thị phải kinh ngạc về tài
nghệ siêu đẳng của người thiếu nữ xinh đẹp nhường kia, mà bản lãnh chẳng vừa.
Tần thì vừa đánh vừa nghĩ thầm :
– Thảo nào con này dám đương đầu với Kim Cương tự và Đổng thị.
Đường kiếm này trông quen thuộc lắm, không biết đã gặp ở đâu rồi!
Hai người, một già một trẻ đánh nhau kịch liệt. Luồng trượng,
luồng kiếm phát ra lạnh cả tứ phía. Khí giới va vào nhau chan chát nảy
lửa rùng rợn.
Chu Đức Kiệt tiếc cho lão phụ bản lãnh cao cường mà đứng về bên hắc đạo.
Tần thị biết gặp phải cây kiếm khách nguy hiểm nên cố tránh chớ không đỡ e hao tổn cây trượng sắt.
Nhận thấy vậy, Lam Y tấn công ráo riết, đánh lối liên hoàn kiếm
khiến Tần thị chưa kịp tránh đòn này thì thế kia đã áp tới vùn vụt. Dù
tài nghệ siêu việt và hữu dũng, nhưng Tần thị gặp phải tay võ nghệ chân
truyền điêu luyện, lực năng cử đỉnh, thế khả bạt sơn, hơn nữa lại có
những thành tích giang hồ như mới tới Giang Nam mà đã tàn sát bọn đầu đà Kim Cương tự, gây nhiều nỗi hoang mang cho gian vương nên không dám
khinh thường. Còn sự kiện nữa là Lam Y đang thời sung sức, trăm trận
đánh, trăm trận được, tinh thần vững chãi hăng hái. Tài nghệ ấy, dũng
lực ấy lại thêm cây trường kiếm Thái Dương là một bảo vật thì dù Tần thị có ghê gớm tới đâu mà vấp phải nhà nữ kiếm khách hữu hạng ấy, với thời
khắc ngọn trượng oanh liệt cũng bị lưỡi kiếm áp đảo tơi bời.
Tần thị vừa đánh vừa mong bọn Lã Ứng Đăng và Đới Vĩnh Khang trở về tiếp cứu.
Quả nhiên, hai người này đang đốc thúc gia đinh cứu hỏa ở vườn
sau, thì hai tên bộ hạ chạy ra cấp báo có thích khách đột nhập trang
viện đang hỗn chiến với Bạch Mẫu Ngô Công. Tuy lửa bốc vào rơm thóc bốc
cháy ngùn ngụt hết gian nhà nọ truyền sang gian nhà kia, bao nhiêu nước
đổ cũng không vừa, nghe cấp báo, Đới Vĩnh Khang cũng phân đôi nội bọn.
Một phần để cứu hỏa, một phần theo họ Đới và Lã Ứng Đăng rầm rộ
kéo ra phía trước nhập chiến. Nghe nói tới Lam Y, kẻ thù sát thê đả tử,
Đới Vĩnh Khang nổi giận xung thiên, chỉ muốn bắt ngay được Lam Y xé vụn
xác ra mới hả dạ căm hờn.
Hai người đi trước, lục bộ hạ vác khí giới theo sau, kéo thẳng
vào sảnh đường, nơi Tần thị cùng Lam Y đan hỗn chiến. Chưa vào tới nơi
Đới, Lã hai người đã nghe thấy tiếng trượng bay, kiếm rít thì đoán biết
ngay là đối phương chẳng phải tay vừa.
Từ lúc khởi chiến tới giờ, Chu Đức Kiệt vẫn đứng rảnh tay áp trận phòng vệ những sự bất ngờ.
Từ ngay hai anh em Chu gia cất bước giang hồ đem tài lực và lưỡi gươm thiêng ra hành hiệp cứu khốn phò nguy, thì tiếng là hai người
nhưng hành động rất hạp khớp như một. Trong khi hành động trí óc hai anh em như có một hệ thống liên lạc vô hình nhất cử, nhất động đều theo một khuôn khổ hạp với tình thế, lúc tiến khi thoái răm rắp. Cây Thất Tinh
đao, ngọn Thái Dương kiếm liên kết hạp pháp như hình với bóng, chưa bao
giờ gạt bậy một đòn hay đánh thừa một thế. Không những hai người có tình cốt nhục mà còn đồng môn đồng đạo, ngang tài bằng sức. Hai khối võ lực
siêu diệt ấy hạp nhau lại thì trên trường chinh chiến dù có vào giữa đám quân trăm vạn cũng chẳng khác chi nơi không người vậy. Cho nên, khi bọn Đới Vĩnh Khang vào tới nơi, Chu Đức Kiệt đã sẵn sàng ra tay đánh cản,
và Lam Y cũng không cần phải tiểu tâm phòng bị đối phương tấn công bất
ngờ.
Vừa vào tới ngưỡng cửa, Đới Vĩnh Khang nhận ngay ra Lam Y là một thiếu nữ nhan sắc tuyệt trần giữa làn kiếm trắng sáng ngời. Tên tặc đạo hiếu sắc đổi ngay mối hận thù ra tình thèm muốn, ao ước bắt được nàng,
áp bức vui vầy cho thỏa mãn.
Áp trận đấu là một chàng mãnh hán kiêu hùng, tóc búi ngược,
khuôn mặt đầy đặn, mũi cao, mắt xếch, dáng dấp oai dũng chẳng khác chi
Triệu Tử Long thời Hậu Hán. Chàng đó đứng thẳng người, hai tay chống
nạnh lên hai bên sườn, vẻ mặt thản nhiên nhưng thách thức lẫn đôi chút
khinh thường.
Phần Chu Đức Kiệt nhận thấy họ Đới có nét mặt lưu manh đặc biệt
của một tên tặc đạo coi mạng người như mạng ngóe. Mắt dài mà nhỏ, lông
mày chổi xuể giao nhau, quai hàm bạnh ra như mang rắn. Cổ lớn, vai rộng, bắp vai u lên, bắp thịt nổi lên cuồn cuộn dưới làn áo. Tuy người thấp
lùn nhưng với bề ngang ấy, họ Đới phải có sức mạnh đáng kể dù tuổi đã
ngoài năm mươi. Tay cầm cây đoản đao to bản. Người đi kế bên Đới Vĩnh
Khang, chít khăn mỏ, râu ba chồm ngắn, áo cào vát, chân quấn xà cạp
hướng mã, dận giày vải mỏng gót. Tay cầm cây xiên bằng sắt. Theo sau, lũ bộ hạ tên nào cũng đai nịt gọn ghẽ cầm võ khí trường hay đoản. Một tên, có lẽ là trưởng đoàn bộ hạ, trông thấy Chu Đức Kiệt, vội tiến lên mấy
bước tay chỉ miệng nói :
– A há! Thưa chủ nhân, chính tôi đã gặp hai người này bữa nọ ở trên đường và hướng dẫn chúng về Sơn Phu tửu quán đó.
Vừa dứt lời thì tên đó đã bị Chu Đức Kiệt phóng cho một cước trúng bụng bật ngửa vào Đới Vĩnh Khang, hộc máu tươi chết ngay.
Họ Đới thấy địch thủ đang đứng thản nhiên như người chờ chịu
trận, mà chỉ trong chớp mắt đã lẹ như con báo, chồm tới phóng cước hạ
sát luôn tên trưởng đoàn bộ hạ một cách rất dễ dàng, thì giật mình gạt
xác nạn nhân sang một bên quát lớn.
– Hạ sát tên bộ hạ có chi đáng kể, coi đao ta đây!
Chẳng nói chẳng rằng, Chu Đức Kiệt đứng chắn ngang cốt ý không cho bọn mới tới nhập trận đánh giúp Bạch Mẫu Ngô Công.
Đới Vĩnh Khang múa đao xô vào đánh Chu Đức Kiệt, Lã Ứng Đăng
cũng hoa cây dùi sắt nhảy vào đánh giúp. Bọn bộ hạ kẻ giáo người đao đổ
xô vào hãm họ Chu. Thanh Thất Tinh đao loang loáng, chỉ đông đánh tây,
tả xung hữu đột, cặp chân linh động lúc đá, đạt khi chèn, gạt khiến bọn
bộ hạ trúng đòn, gãy chân, dập tay, bể ngực, vỡ mặt… Hai bên mới giáp
chiến được vài hiệp mà có tới bảy tên bị tử thương rồi. Đới Vĩnh Khang
tức giận vừa đánh vừa hét như sấm động.
Nói về Tần thị đấu cùng Lam Y đã ngót trăm hiệp biết khó bề thua thắng. Cũng vậy, Lam Y đánh đỡ như thường xem bản lãnh đối phương đi
tới mức nào. Tới lúc thấy bọn Đới Vĩnh Khang kéo đến đông, nàng bèn đổi
kiếm pháp tấn công ráo riết khiến Tần thị phải liên tiếp hồi hộ luôn sáu bảy bước. Tần thị giận lắm, tiến trở lại một bước đánh gần thúc mạnh
đầu trượng sắt vào mặt địch thủ theo thế Quải Sơn Trượng. Hai người thủ
sát nhau quá, Lam Y lẹ như cắt, né đầu tránh đòn độc, vòng tay lên bắt
lấy cây trượng cặp vào nách, đồng thời tay hữu thúc đốc kiếm vào mặt Tần thị. Đòn gần, đánh vừa mạnh vừa lẹ khiến Tần thị dù bản lãnh biết mấy
cũng không tránh nổi thế Cầm Long Phục Hổ của Lam Y.
Tần thị hoảng sợ kêu lên một tiếng vội buông rời cây trượng sắt
ra ngã người ra phía sau lộn đi hai vòng, trước là để tránh cái đốc kiếm kinh khủng ấy, sau là cây trượng vừa bị đoạt rồi tránh xa đối phương
được bao nhiêu hay bấy nhiêu.
Lam Y đang định tiến tới kết quả luôn tánh mạng lão nữ tặc, thì
chợt thấy Tần thị vung tay luôn hai cái… Hai viên thiết đạn nhằm Lam Y bay tới. Nàng vội né đầu tránh đạn bay vụt ra ngoài trúng ngay chiếc
độc bình Giang Tây lớn bày trên chiếc kỷ trạm thấp trong góc sảnh, vỡ
tan tành. Thừa dịp, Tần thị liệng luôn hai thiết đạn nữa, Lam Y tay tả
cầm trượng gạt rớt xuống gạch.
Lã Ứng Đăng biết Lam Y là tay lợi hại, sợ mẹ bị nàng rượt theo
hạ sát, vội vàng bỏ Chu Đức Kiệt cho Đới Vĩnh Khang đối phó, tự mình
nhảy tới cản đường Lam Y. Hét lên một tiếng lớn, Lam Y lao cây trượng
sắt vào giữa ngực Lã Ứng Đăng. Họ Lã giơ đùi sắt gạt trượng rớt sang bên xoảng một tiếng, nhưng Lam Y đã lao người tới hớt lưỡi kiếm trúng đầu,
cổ Lã Ứng Đăng lăn lông lốc trên gạch như chiếc sọ dừa. Tử thi đổ xuống, huyết vọt ra như tưới.
Rảnh tay, Lam Y quay lại tìm Tân thị, lão phụ biến đi nẻo nào mất rồi.
Nàng nhìn qua trận thế, thấy vỏn vẹn Đới tặc còn có hai tên bộ hạ đánh vùi cùng Chu Đức Kiệt, thì tủm tỉm cười.
Cánh cửa ở phía tường bên tả đại sảnh còn mỡ hé, Lam Y dự đoán Tần thị trốn qua lối đó vào hậu đường.
Nghi ngờ có cơ quan, nàng tới tay chiếc ghế liệng thẳng vào đó,
cánh cửa bật tung ra, Lam Y nhảy ùa vào theo, tầm ngang trường kiếm nhìn quanh :
– Đó là căn phòng lớn rất trang nhã. Có hai chiếc giường, một
buông mùng và một vén mùng. Lam Y đến gần giường có mùng dùng mũi kiếm
vén cửa mùng lên… Bỗng nàng giựt mình lùi lại một bước, nhưng mỉm
cười, nói một mình :
– Tử thi Mẫu Dạ Xoa mà cứ tưởng ai! Ta nhát qua!
Ngờ có kẻ núp sau mùng, nàng chém đứt cột giường cho mùng ụp
xuống, nhưng không có ai cả. Nhìn đó đây, Lam Y tiến sang giường bên
kia, nhìn cách thức đoán ngay là giường của Hoa cô nương Đới Ngọc Hoàn.
Chăn đệm hãy còn in dấu người, vậy người đi đâu? Trong góc phòng, cánh
tủ nhỏ mở rộng, quần áo trong đó bị đảo lộn vỡ tung như có người nào đã
vội vàng tìm kiếm lấy vật gì.
Lam Y đi luôn vào căn phòng kế bên, Căn này rộng lớn hơn phòng
ngoài. Cách trang hoàng bày trí tỏ ra đây là căn phòng của phụ nữ. Phải
rồi! Đây mới là phòng của Hoa cô nương. Hai chữ Ngọc Hoàn thêu trên gối
còn kia. Nhưng Bạch Mẫu Ngô Công vừa mới chạy vào đây đã biến đâu mất
cùng Đới Ngọc Hoàn?
Chợt một cơn gió lạnh thổi tung màn cửa sổ xây cuốn lùa vào
phòng… Lam Y dùng kiếm gạt tấm màn cửa sang bên. Cánh cửa mở ra phía
ngoài che lấp bởi tấm màn cửa, nên Lam Y mới không nhận ra là cửa mở.
Nàng lẩm bẩm :
– Có lẽ lão phụ đem Hoa cô nương trốn ra lối này. Nếu vậy, chắc nó đi xa rồi, chẳng cần tìm kiếm mất thì giờ.
Lam Y bèn quay trở ra đại sảnh. Tuy Đới Vĩnh Khang võ nghệ cao
cường và có sức mạnh, nhưng không phải là đối thủ của Chu Đức Kiệt.
Tần thị thua chạy, Lã Ứng Đăng tử trận, bộ hạ còn vỏn vẹn có hai người, các sự kiện ấy khiến Đới Vĩnh Khang đã kém địch thủ lại còn
hoang mang hơn, thành thử đao pháp rối loạn trước những thế đánh vô cùng biến ảo của Chu gia. Biết tình hình nguy hiểm trầm trọng, suy đi tính
lại không liều không được, Đới Vĩnh Khang dồn toàn sức vào hai tay lăn
xả vào liều mạng đánh, gầm thét dữ dội như lão hổ. Chu Đức Kiệt Mỉm cười chống trả lại. Họ Đới lao thẳng người đâm mũi đao vào bụng Chu Đức
Kiệt. Lẹ làng né sang bên, họ Chu dùng dọng đao gạt mạnh. Bị cái gạt
nặng nề ấy, Đới Vĩnh Khang tê buốt cả cánh tay, cây đoản đao rời khỏi
tay y văng ra đánh xoảng một tiếng gần chiếc cột nhà.
Họ Đới vội vàng chạy tới định nhặt đao lên, nhưng Chu Đức Kiệt đã phóng tới trước giẫm chân lên lưỡi đao :
– Đới tặc! Chết đến nơi rồi không biết quỳ xuống xin hàng sao!
Căm hờn lộ ra trên nét mặt sần sùi, Đới Vĩnh Khang chạy ngược
lại phía sau lượn hai mũi giáo của mấy tên bộ hạ đã bị tử thương, hầm hè :
– Chết thì thôi, không khi nào chịu hàng cái thứ mi. Chết bây
giờ, chỉ hai mươi năm sau ta sẽ thành hảo hán để moi ruột mi ra báo mối
tử thù! Coi đây!
Dứt lời, Đới Vĩnh Khang nhằm ngực địch thủ phóng một ngọn đáo
thiệt mạnh, nếu trúng thì đối phương bị ngọn giáo xiên qua ngực gài luôn vào chiếc cột lớn ở ngay sau lưng. Nhưng đâu có dễ dàng thế!
Chu Đức Kiệt khẽ né sang bên nhường cho ngọn giáo lướt qua bên cho ngọn giáo cắm phập vào chiếc cột cây.
– Chà! Phương pháp phóng giáo của nhà ngươi hay quá! Thiếu chút nữa thì trúng!
Nói đoạn cười vang. Tức giận đùng đùng, Đới Vĩnh Khang muốn bắt
ngay được địch thủ mỗ bụng phanh thây moi gan nhắm rượu mới hả giận.
Nghiến răng kèn kẹt, y nhắm thắp xuống chút nữa phóng luôn ngọn thứ hai, mạnh hơn.
Ngọn giáo lướt qua khoảng trống nhắm ức Chu Đức Kiệt lao tới.
Điềm nhiên, họ Chu chờ ngọn giáo gần tới đưa Thất Tinh đao gạt phắt văng ra một chỗ.
Đoạn lẹ như chớp, chàng lượm cây đoản đao đang dẫm ở chân, nhằm ngực Đới Vĩnh Khang phóng mạnh. Cây đao bay xẹt như làn chớp…
Họ Đới chưa kịp nhận xét tình hình khi Chu Đức Kiệt cúi xuống
lượm cây đao lên, thì đã bị trúng thương, lưỡi đao xuyên qua ngực suốt
ra phía sau lưng. Rú lên một tiếng lớn, Đới Vĩnh Khang trào máu miệng,
lảo đảo quay té úp mặt xuống đất, thành thử đè chặt cán đao đâm sâu thêm lút tới cán… Hai chân co vào duỗi ra mấy cái, rồi nằm thẳng đờ…
Từ lúc chủ nhân bị đối phương gạt mất đao, hai tên bộ hạ còn
sống sót lại kinh sợ đứng nép cả vào góc tường run bần bật. Nay lại thấy họ Đới đã táng mạng, chúng tưởng sẽ bị hạ sát luôn thể nên vội vàng
buông khí giới quỳ xuống van xin không ngớt miệng. Giữa lúc ấy, Lam Y từ nhà trong bước ra. Đồng thời, tám tên gia đinh chữa hỏa ở vườn sau chạy về cấp báo với chủ nhân, nhưng khi tới đại sảnh thấy cảnh máu đổ đầu
rơi thì chúng đứng sững cả lại, biến sắc kinh sợ định quay ra chạy.
Chu Đức Kiệt quát lớn :
– Đứng cả lại! Tên nào định chạy, ta lấy thủ cấp tức thì! Vào cả trong này. Mau!
Tám tên gia đinh líu ríu kéo nhau vào đại sảnh quỳ xuống gần hai đồng bọn.
Chu Đức Kiệt hỏi :
– Bây đang cứu hỏa vào đây làm chi?
Một tên nói :
– Không chữa được, lửa thiêu hẳn cả mấy căn nhà lá nên chúng con chạy về báo cho Đới chủ nhân hay.
Chỉ xác họ Đới, Chu Đức Kiệt nói :
– Chủ nhân các ngươi đây này, để ta cho các người theo nhau xuống suối vàng mà báo cáo cho y biết.
Dứt lời, Chu Đức Kiệt túm tóc một tên lôi ra cạnh tử thi Đới Vĩnh Khang, giơ đao… định chém.
Tên đó sợ quá, tái mét, chắp tay lại kêu van :
– Chúng con… nghèo… nghèo nàn… nên phải theo rồi… chủ… chủ nhân con bắt… bắt hành động như… như vậy…
– Chà! Các ngươi ngụy biện! Bao năm theo Đới tặc làm thịt người không biết ghê tay, nay còn viện lẽ nọ kia van xin cái chi!
Chu Đức Kiệt cốt ý dọa nạt cho chúng sợ thôi, nên chàng tra đao vào vỏ, buông tóc tên kia cho nó chạy quỳ chỗ đồng bọn.
Lam Y chạy vào nhà trong, giây lát trở ra với một cuộn dây thừng lớn.
Chu Đức Kiệt hỏi :
– Tên nào thuộc hết đường trong trang viện này?
Một tên có tuổi hơn cả giơ tay :
– Thưa, con ạ.
Hai anh em Chu gia trói giật cánh khuỷu chín đứa kia lại để đó.
Lam Y bảo tên nọ :
– Có bao nhiêu người bị giam cầm trong trang viện này.
– Dạ, hiện có bốn người, mới giam được mấy bữa nay.
– Họ ở đâu?
– Ở dưới hầm ạ.
Chỉ tử thi Lã Ứng Đăng, Lam Y nói :
– Trừ tên kia và mụ Bạch Mẫu Ngô Công, còn ai khác ở đây không?
– Bẩm không, Tần thị và Lã Ứng Đăng đây là mẹ con. Cả hai cũng mới tới chơi nơi trang viện được vài ngày nay.
– Có bao nhiêu cơ quan tại đây?
Tên nọ chỉ con sư tử gỗ bị chém đứt đầu và hai cánh cửa giả ở hai bên đại sảnh :
– Có nơi phát tên ở con sư tử này. Còn hai cửa kia mở ra được
thì có hai lưỡi dao lớn cài trong tường rớt thẳng xuống khiến kẻ gian tế đột nhập đại sảnh có thể bị xả dọc suốt từ đầu tới chân được.
– Làm thử ta coi. Từ trước tới nay đã có ai táng mạng vì cơ quan đó chưa? Nói thiệt!
– Làm để phòng bị thôi, chớ chưa từng có ai vô đây.
Nói đoạn, tên ấy đi đến góc tường cầm cái giá để đèn đóng trên tường lắc mấy cái. Cánh cửa giả vẫn y nguyên không nhúc nhích.
– Quái! Con thấy chủ nhân đã có lần vặn cái giá đèn này thì cửa mở, dao bập xuống mà bây giờ thì…
Không chờ tên đó nói nốt, Lam Y tiến đến cầm giá đèn kéo dọc
xuống. Quả nhiên cánh cửa mở bông ra, đồng thời lưỡi dao to bỗng choán
hết bề ngang cửa rơi phập xuống ngưỡng cửa.
Lam Y gạt ngang cái giá đèn. Lần này vận chuyển được. Lưỡi dao rút hẳn lên vào trong tường, hai cánh cửa tự đóng lại như cũ.
– Tụi tặc đạo này khéo bày ra thứ máy chém này kể cũng tân kỳ!
Tên nọ dẫn anh em Chu gia đi ra phòng ngoài chỉ miệng hầm vẫn mở từ lúc hai người nhập đại sảnh :
– Miệng hầm này không có lối xuống. Ở dưới là chiếc địa võng có
móc sắt. Ai vô tình nhập chánh môn mà không bấm nút đồng ở kế bên khung
cửa thì sẽ sà xuống hầm ngay. Lúc người sa xuống địa võng, chuông sẽ
rung động vào đại sảnh và tư phòng của họ Đới ngay.
Dứt lời, tên đó bước tới gần bức tượng bằng đồng đúc hình Hồng
Hài Nhi kê ở bên tường xoay đi xoay lại mấy cái. Tự nhiên miệng hầm đóng sập lại như cũ. Anh em Chu gia bước tới gần, nhìn kỹ lắm mới nhận ra
vết khác thường quanh miệng hầm.
Lam Y nói :
– Xưa kia, Gia Cát Lượng chế ra mộc nhân mộc mã kể đã ghê gớm,
như những cơ quan này thiết lập còn tinh xảo hơn nhiều. Hiền huynh có
đồng ý không?
Chu Đức Kiệt gật đầu :
– Hiền muội xét đoán trúng. Không hiểu thứ mộc nhân mộc mã trên
Thiếu Lâm tự chế ra để khảo sát môn đồ trước khi hạ sơn thế nào? Có dịp, chúng ta sẽ qua yết kiến Sư trưởng Chiêu Đức, vãng cảnh Tung Sơn luôn
thể.
– Dạ, ngu muội cũng mong được tới đó lắm. Họ Âu Dương vốn xuất
thân từ Thiếu Lâm tự. Để rồi ngu muội nhờ Âu Dương Bích Nữ dẫn đường đi
Phúc Kiến có lẽ hay hơn?
Nói đoạn, Lam Y ý tứ nhìn anh, miệng tủm tỉm cười, Chu Đức Kiệt cũng cười theo im lặng.
Để tránh cặp mắt ranh mãnh của Lam Y vẫn nhận xét chàng, Chu Đức Kiệt nói lảng bảo tên gia đinh :
– Còn cơ quan nào nữa không?
– Chỉ có vậy thôi ạ. Còn lối xuống hầm ở phía sau, nơi kế bên cửa sau.
Lam Y nói qua Chu Đức Kiệt biết tình hình các phòng trong.
Chu Đức Kiệt nói :
– Chắc chắn mụ Bạch Mẫu Ngô Công đem Hoa cô nương chạy trốn xa
rồi. Tiếc thay hiền muội không ra tay ngay từ lúc khởi trận, thành thử
mụ ấy mới có dịp trốn thoát…
Dùng tiếng lóng giang hồ riêng biệt của vùng Sơn Đông, Trực Lệ, Chu Đức Kiệt nói tiếp :
– Trong khi ngu huynh xuống xem xét dưới hầm, hiền muội nên lục
soát trong các phòng tìm của cải nhà họ Đới bọc lại cẩn thận đem đi. Để
của đó ở đây cũng không được việc gì.
Lam Y gật đầu quay vào, còn Chu Đức Kiệt theo tên gia đinh ra
lối sau. Tên gia đinh lấy bó đuốc đốt lên đi trước dẫn đường theo dãy
hành lang bên hữu vòng ra mặt sau trang viện.
Chỉ vào chiếc khóa đồng lớn vài ngang cửa, tên gia đinh nói :
– Cửa này khóa ngoài mất rồi, phải vào tìm chìa khóa mới mở được.
Chu Đức Kiệt nói :
– Không cần, ta đã có cách mở.
Chàng tiến tới gần cầm chiếc khóa đồng nhìn kỹ, thấy chốt khóa lớn bằng ngón tay cái lay đi lay lại mấy cái rồi vặn mạnh.
Chiếc khóa bị vặn cong bung hẳn ra lôi theo một mảnh gỗ cánh cửa.
Tên gia đinh giật mình lắc đầu thè lưỡi nghĩ thầm :
– “Nếu ta kiếm cách trốn bây giờ mà bị bắt thì bàn tay thép kia chỉ khẽ vặn cũng đủ gãy cổ chết tốt rồi!”
Liếc nhìn thấy tên nọ thần mặt ra, Chu Đức Kiệt nghi ngờ :
– Nghĩ chi mà thộn mặt ra vậy? Định lừa ta hả? Coi chiếc khóa đồng vừa rồi thì nên liệu cái thủ cấp của nhà ngươi, nghe?
Tên gia đinh nhăn mặt gãi gáy :
– Dạ. Con đâu dám nghĩ hỗn, nhưng giật mình trước bàn tay thần lực của đại vương… à hiệp khách.
– Các ngươi là bè đảng của tặc đạo nên quen dùng danh từ Đại Vương hả!
Tên gia đinh không dám nói nữa, mở hai cánh cửa nặng nề, bước
vào phía trong, chỉ pho tượng Phật lớn bằng người thật đặt trên bục gạch sát tường :
– Họ Đới vẫn vận dụng pho tượng này mở cửa xuống hầm, con không thuộc cách sử dụng ra sao cả.
Nghi ngờ, Chu Đức Kiệt đi quanh pho tượng nhìn nhận thấy chỗ pho tượng ngồi không được khép kín với bục gạch nên kết luận rằng có thể xê di dịch lại được.
Chàng bèn đứng bên hữu đẩy ngang thấy cứng ngắc. Vòng sang bên
tả. Chu Đức Kiệt đẩy nữa. quả nhiên, pho tượng hơi chuyển độ nửa tấc,
đồng thời bức tranh Bạch hổ ở phía trước mặt pho tượng mở hẳn vào phía
trong tường, lộ ra một cái cửa lớn hai người chui lọt. Tên gia đinh cầm
đuốc theo bực thang xây gạch xuống hầm trước. Chu Đức Kiệt theo sau.
Trong hầm không tối lắm nhờ ánh sáng của mấy ngọn đèn dầu mà tối nào Đới Vĩnh Khang cũng cho bộ hạ thắp sẵn, treo trên cột chống các xà ngang
trên trần hầm. Nhận xét kỹ, Chu Đức Kiệt thấy hầm sâu tới gần hai đầu
người và dài theo chiều dọc của trang viện nhưng có phần hẹp ngang hơn.
Mặt hầm và khắp chung quanh đều lát gạch và đắp đá tổ ong. Trong góc bên tả, bốn người nằm trên tổ rơm đều nhỏm cả dậy: vợ chồng người hành
khách thanh niên và cha con xa phu.
Thấy có vẻ lo sợ, Chu Đức Kiệt nói :
– Chớ có sợ! Các người thoát nạn rồi. Tôi xuống cứu đây, vậy sửa soạn theo tôi ngay.
Nói đoạn, họ Chu đi khắp quanh hầm xem xét. Có tới vài trăm
chiếc khí giới như thương giáo, đao, chỉa hai, chỉa ba… bôi mở cẩn
thận cho khỏi han, dựng la liệt trên mặt tường… gần mấy chiếc quan
tài. Bỗng một luồng gió lạnh từ đâu thổi tạt vào quanh hầm. Thì ra, góc
trong cùng còn có một cửa nhỏ nữa.
Chu Đức Kiệt hỏi tên gia đinh :
– Cửa kia ăn thông đi đâu?
– Ăn thông ra phía tả trang viện lên tới mặt đất là sườn núi rồi ạ.
– Hừ! Đới tặc dự bị lối thoát đó! Trữ nhiều khí giới thế này,
chắc y còn định bành trướng nơi trang viện này, chiêu tập binh mã lên… ngôi Đại vương đây!
Tên gia đinh nín thinh, cúi mặt nhìn xuống. Thấy bốn người kia
đã thu xếp xong rồi, Chu Đức Kiệt bảo tên gia đinh đi trước rồi cùng mọi người theo sau.
Không đóng cửa hầm nữa, đoàn người đi ra phía trước trang viện.
Bảo bốn người vào đại sảnh trước, Chu Đức Kiệt hỏi tên gia đinh :
– Chiếc xe và ngựa của cha con tên xa phu để đâu?
– Dạ, ở trong tầu ngựa, phía hữu trang viện gần đây thôi ạ.
– Trang viện này có bao nhiêu ngựa?
– Tổng cộng mười bốn con tất cả.
Chu Đức Kiệt gọi hai cha con xa phu ra bảo đi theo. Ra tới tàu
ngựa, Chu Đức Kiệt bảo họ sửa soạn, lựa con nào tốt thắng vào xe. Đoạn
chàng lựa hai con khỏe mạnh bảo tên gia đinh đóng yên cương lại, rồi dắt ra cửa trang viện. Cha con phu xa cũng đánh theo sau.
Nói về lam Y vào nhà trong khám xét các phòng, cạy các rương tủ
ra coi lấy được vô số đồ châu báu, vàng thoi, bạc nén. Trong một chiếc
hộp bằng vàng chạm trổ tinh vi, Lam Y mở ra xem thấy để hai viên ngọc
một xanh lè màu lục, một đỏ như lửa, ở trong tối mà sáng lòe như có đèn
chiếu. Nhấc lên xem, viên ngọc nào cũng lòng dây xích bằng vàng đeo
được. Một miếng giấy đỏ đặt trong đáy hộp để sáu chữ: Tỵ Thủy châu, Tỵ
Hỏa châu, Lam Y đoán viên ngọc màu xanh là Tỵ Thủy châu, còn Tỵ Hỏa châu là viên đỏ. Nhìn quanh có thùng nước trong gần đó, nàng bèn cầm dây
vàng, thả từ từ viên Tỵ Thủy châu xuống nước. Lạ thay, tự nhiên nước rẽ
sang hai bên như kỵ với viên ngọc.
Nàng cầm hẳn viên ngọc vào trong tay rồi nhúng tay xuống nước.
Cũng vậy, nước rẽ hẳn ra khiến tay Lam Y tuy để xuống qua mặt nước hẳn
hoi mà không ướt chút nào cả. Mừng qua, Lam Y bỏ ngọc vào hộp rồi cất
hộp vào túi áo cẩn thận. Nàng kiếm một chiếc thùng bỏ tất cả vàng bạc
châu báo vào đó, cắp ra đại sảnh, thì vừa vặn Chu Đức Kiệt cũng về tới
nơi. Hai vợ chồng thiếu niên và cha con xa phu được cứu thoát khỏi miệng hùm, quỳ lạy anh em Chu gia tạ ơn.
Hai người đỡ họ dậy :
– Cứu khốn phò nguy là thiên chức của chúng tôi, hà tất phải lạy tạ như vậy. Các vị từ đâu qua đây?
Thanh niên nói :
– Thưa ân nhân, vợ chồng tôi từ Bằng Lang phủ định đi Dương
Châu, không ngờ lầm đường đi vào ngã này nên gặp nạn, nếu không gặp được ân nhân thì mất mạng rồi. Tiền bạc bị chúng lấy mất cả, chỉ có quần áo
là nguyên vẹn thôi.
Lam Y hỏi :
– Mất bao nhiêu?
– Dạ, mười một lượng bạc ạ.
Người xa phu cũng khai mất hơn hai lượng bạc.
Lam Y bèn lấy trong rương ra hai nén bạc đưa cho vợ chồng thanh
niên và một nén cho xa phu. Ngoài ra Lam Y còn chọn một chiếc vòng thiệt đẹp đưa tặng vợ thanh niên.
Bốn người mừng rỡ tạ ơn không ngớt miệng.
Chu Đức Kiệt hỏi tên gia đinh :
– Ở hắc điếm còn mấy tên coi ngoài đó?
– Dạ, còn bốn người.
Chu Đức Kiệt kéo Lam Y ra một chỗ nói nhỏ :
– Bọn bộ hạ của Đới tặc kể ra cũng có tội, hiền muội có ý kiến chi hay định đoạt số phận chúng không?
Lam Y suy nghĩ giây lát :
– Hiện giờ chúng đã bị trói chặt rồi. Chi bằng đem bọn chúng ra
cả ngoài tầu ngựa rồi phóng hỏa trang viện này. Hiền huynh biên giấy dán lên tầu ngựa, kể tội họ Đới và đồng bọn, mặc cho viên chức sở tại giải
chúng lên huyện điều tra…
Chu Đức Kiệt tiếp lời :
– Số vàng bạc lấy ở trang viện này cũng khá nhiều, ta nên trích
ra một phần lớn sớm mai phát tặng cho những gia đình nghèo làng Sơn Phu. Còn thì chôn giấu đi biết đâu sau này có ngày cần tới. Nếu trao cho bọn quan lại, kim ngân hắc thế nhân tâm, chắc chi họ đã hành động đứng đắn, hay là lại chia nhau cười thầm anh em ta xuẩn ngốc. Phải không?
– Hiền huynh dạy chí phải.
Vì bọn bộ hạ bị trói ghì cả chân tay lại, nên anh em Chu gia
xách từng cặp một bỏ ra tàu ngựa. Trong khi Chu Đức Kiệt viết tờ cáo
trạng dán lên xà ngang tàu ngựa. Lam Y đốc thúc tên gia đinh chỉ đường
xuống hầm hồi nãy lấy các vật phóng hỏa ra chất đầy trang viện gần những nơi dễ bắt hỏa nhất. Cha con người xa phu và chàng thanh niên cũng giúp một tay. Họ còn kiếm trong kho thực vật lấy một ít lương khô để phòng
bị ăn đi đường.
Lam Y nói :
– Vì lầm đường nên mới xảy ra tai nạn này, quý vị chẳng nên tiếp tục đi nốt quãng đường còn dài. Chi bằng trở lại, tìm ra khúc đường
chánh rồi hãy chỉ nẻo Dương Châu. Bây giờ nên ra khỏi khu vực Xích Hoa
viện nghĩ lại bên đường, chừng nào sáng bạch hãy đi. Thôi, chúc quý vị
hảo hành.
Bốn người cám ơn và từ tạ anh em Chu gia ra ngựa.
Lam Y cầm tay thiếu phụ :
– Đường xa dặm thẳng giặc cướp như rươi, hiền tỉ nên hóa trang
thành xấu xí để tránh mọi con mắt dòm ngó của bọn lưu manh. Ai lại xinh
đẹp dường này đi đường trường mà không có bảo vệ bao giờ không?
Thiếu phụ rớt nước mắt theo chồng đi xa.
Chờ cho bốn người ra khỏi cổng trang, Chu Đức Kiệt bảo tên gia đinh :
– Đồng lõa đạo tặc tức là chống lại triều thần, tội nặng lắm.
Đáng lẽ ta cũng trói ngươi lại như những tên kia mặc nhà chức trách địa
phương phân xử. Nhưng ta tha cho ngươi, vậy ngươi có liệu đường cải tà
quy chánh hay là rồi lại cướp sẽ thành giặc?
Tên nọ quỳ xuống lạy, nước mắt ròng ròng :
– Hiệp khách rộng lòng thương, thanh phước giải thoát cuộc đời
tăm tối cho con, lẽ nào con dám tái phạm? Con xin chưa trở về quê nhà
tìm cách làm ăn lương thiện để khỏi phụ lòng ưu ái của nhị vị ân nhân.
Nói đoạn, y quỳ mọp dưới đất.
– Quỳ thế có ích lợi chi cho việc ăn năn tội lỗi của ngươi! Ngựa còn dư nhiều ở ngoài tầu, cho ngươi thắng lấy một con dắt ra trước sân
này, lẹ lên!
Tên kia vâng dạ chạy thẳng ra tầu ngựa, giây lát dắt một con ngựa khỏe mạnh vào trước thềm nhà.
Chu Đức Kiệt lấy mấy lượng bạc đưa cho y :
– Cầm tiền này ăn đường. Ta phóng hỏa trang viện rồi cùng đi ngay. Cho ngươi đi trước.
Tên kia mừng rỡ, líu ríu vái chào anh em Chu gia rồi mới lên ngựa đi thẳng.
Chu Đức Kiệt, Lam Y liệng đèn, đuốc vào các đồ bắt hỏa, không
bao lâu, ngọn lửa cháy bùng bùng bắt lên nhà mỗi lúc một lớn… Lam Y bỏ riêng một phần vàng bạc bọc lại đeo lên vai để phát chẩn cho dân nghèo
làng Sơn Phu, đoạn cột chiếc rương nhỏ lên mình ngựa lấy một cái cuốc
gài vào bên chiếc rương.
– Bây giờ hiền muội theo đường cũ tìm nơi kín đáo chôn chiếc
rương này đi rồi về thẳng nhà Củng lão. Ngu huynh còn qua hắc điếm bắt
nốt mấy tên kia để hoàn tất vụ này.
Lam Y lên ngựa đi trước. Lửa gặp gió bắt cháy mau lẹ. Ngọn lửa
lem lém qua các khuôn cửa lớn cửa sổ, tiếng nổ răng rắc, sáng rực cả một góc trời. Chu Đức Kiệt lên ngựa, vòng ra phía sau căn nhà đồ sộ đó,
nhìn qua rồi thúc ngựa băng qua cổng trang nhắm phía hắc điếm tiến
thẳng. Được độ hai dặm đường, Chu Đức Kiệt bỗng rẽ vào khe núi, nhảy
xuống cột ngựa vào gốc cây cẩn thận.
Chàng trở ra phi thân vùn vụt trở về lối ánh lửa đang bốc ngập
trời, vòng sang phía hông trang viện, vượt tường vào trong lầu theo bóng tối bủa các bụm cây, tiến về phía tàu ngựa. Thấy lửa cháy lớn, mấy con
ngựa còn lại khó chịu vì mùi khói đứng không yên, đập móng xuống gạch
cầm cộp, mồm thở phì phào. Chu Đức Kiệt nhảy lên nóc tầu ngựa nằm ép
bụng xuống nhìn qua kẻ ngói.
Bọn người bị trói rên siết, chửi rủa luôn miệng. Chu Đức Kiệt cười thầm :
– Mình sanh phước không giết chúng mà chúng còn oán thù… là
mình đã cản phá không để chúng tiếp tục nghề phi nghĩa đạo tặc! Hừ,
không biết cư xử thế nào cho vừa lòng đủ mọi người được!
Nghĩ vậy, họ Chu vẫn nằm ép mình trên mái, đưa mắt nhìn khắp nơi như có ý chờ một sự gì… Giây lát, quả nhiên có tiếng vó ngựa phi từ
cổng trang vọng vào… Chu Đức Kiệt mỉm cười đắc ý nhìn ra phía trước… Lồng trong ánh lửa cháy sáng rực, một người phi ngựa qua cổng trang
chạy thẳng tới tàu ngựa… Người đó không phải ai xa lạ, chính là tên
gia đinh mà anh em Chu gia đã tha cho đi lúc trước khi phóng hỏa trang
viện. Tên đó nhảy xuống ngựa, chạy vội vào trong tầu, rút con dao trong
đống cỏ, tiến về phía đồng bọn bị trói còng queo nằm trong góc tầu.
Một tên kêu lớn :
– A, anh em ơi, Lương Cửu đã trở lại, chúng ta thoát rồi.
Lương Cửu, tên gia đinh, vôi suỵt miệng :
– Nói nhỏ chứ! Chúng ta phải mau thoát khỏi nơi đây về Kim Lăng thuật lại mọi sự thì sẽ được Vương gia trọng dụng…
Chu Đức Kiệt nghe rõ mồn một, đắc ý là đã lượng đúng tâm lý tên
đạo tặc Lương Cửu. Bởi vậy chàng giả vờ ra đi rồi mới trở lại sau để bắt quả tang tên phản phúc. Quả như vậy, Lương Cửu manh tâm nhờ dịp không
bị kiểm soát trong khi y được phép xuống tàu thắng ngựa, bảo với đồng
bọn là y sẽ trở lại đánh tháo cho mọi người. Lương Cửu núp sau hốc đá
đâu đó, chờ anh em Chu gia đi khỏi mới trở vào trang thi hành ý định…
Tay cầm dao, tay lựa chỗ, Lương Cửu sắp sửa cắt dây, thì bỗng giật nẩy
mình, đờ người ra, trời lạnh mà mồ hôi toát ra như tắm. Một bàn tay vô
hình vừa đặt lên vai y… Bỗng Lương Cửu quay lẹ người lại đâm ngược lại một dao… nhưng cổ tay y đã bị một gọng kềm thép khép chặt lại vặn
nhẹ. Lưỡi dao rớt xuống gạch nghe cộp một tiếng.
Lúc bấy giờ y mới nhận ra người có bàn tay thép kia không phải
ai xa lạ, mà chính là người hiệp khách đã đại phá Xích Hoa viện hồi
nãy…
Lương Cửu vội quỳ xuống nhãn nhó :
– Trăm ngàn lạy hiệp khách, con trót dại phạm…
Nổi giận đùng đùng khi thấy tên phản phúc còn dám leo lẻo van xin, ngụy biện :
– Mi chỉ là một con độc xà chuyên hãm hại người, không bao giờ
cải nổi tánh tình. Để ngươi sống thêm làm chi cho nhơ bẩn cái xã hội
cũng đã đảo điên này!
Dứt lời, Chu Đức Kiệt xách bổng Lương Cửu lên khỏi đầu lao mạnh
vào cột gạch gần đó. Bốp!. Đầu Lương Cửu va trúng cột nát như trứng óp,
óc lẫn máu phun ra tung tóe… Thế là hết đời tên phản phúc.
Chỉ xác Lương Cửu, Chu Đức Kiệt nói :
– Các người coi đó làm gương, nếu muốn theo thằng này thì cứ việc tìm cách trốn về Kim Lăng…
Chưa nói dứt lời, bỗng lẹ như cắt Chu Đức Kiệt tuốt đơn đao quay vụt lại thủ thế.
Chàng vừa thoáng nghe thấy tiếng bước nhẹ trên nóc tàu ngựa.
Một bóng đen từ trên cao nhảy xuống trước cửa tàu ngựa, tiếp theo một chuỗi cười ròn rã.
– Hiền muội trở về đây làm chi? Ngu huynh đã tưởng là mụ Bạch Mẫu Ngô Công trở lại.
Lam Y người vừa nhảy xuống cười dòn :
– Thế hiền huynh cũng đã đi khỏi nơi này rồi mà còn trở lại làm chi? À! Chúng ta đồng ý thiệt đó!
Chu Đức Kiệt tra đao vào vỏ bước ra khỏi tàu ngựa, chỉ xác tên Lương Cửu :
– Ngu huynh trở lại vì tên phản phúc kia kìa!
Trông mặt y không thật, ngu muội cũng nghi ngờ nên sau khi làm
xong… việc kia, ngu muội thắc mắc trở về đây coi động tĩnh thế nào.
– Hiền muội để ngựa ở đâu?
Cách đây một dặm đường.
– Thôi, ta cùng ra chỗ hắc điếm xem sao.
Hai anh em dùng thuật phi hành, chạy ra lối cổng trang. Tới chỗ
buộc ngựa, Lam Y rẽ vào. Chu Đức Kiệt vẫn phi hành như biến đến chỗ sau
phiến đá lớn, dắt ngựa ra ngoài mặt đường, thì Lam Y cũng vừa vặn phi
ngựa tới.
Chỉ tay về phía Xích Hoa viên, Chu Đức Kiệt bảo Lam Y :
– Hiền muội coi kìa, ngọn lửa gặp gió bốc cao quá, Có lẽ ở hắc
điếm và dân làng Sơn Phu mọi người phải ngạc nhiên về vụ hỏa thiêu này.
Đi mau mới kịp!
Lam Y ngoái đầu lại nhìn qua, rồi cùng Chu Đức Kiệt cho ngựa phi nước đại. Không bao lâu, tới gần hắc điếm.
Lam Y nói :
– Để ngựa lại đây kẻo chúng nghe thấy tiếng ngựa phi, chạy trốn mất.
Cột ngựa lại bên đường, anh em Chu gia chạy lén tới hắc điếm
nghe ngóng. Quả nhiên, bốn tên bộ hạ của họ Đới đang đứng ở giữa sân bàn tán. Hai người chạy vòng ra lối sau vượt tường lên nóc nhà lần ra phía
trước nhìn xuống sân.
Một tên nói :
– Quái sao lại có đám cháy lớn thế này! Đúng phía trang viện rồi.
– Anh nói như là trang viện bị hỏa thiêu vậy? Cháy rừng hay sao đó!
Một giọng khàn khàn cất lên :
– Tôi nhập bọn ở đây bảy năm rồi, chưa từng thấy cháy rừng vào mùa này!
– Không phải cháy rừng, chắc có chuyện chi, thú thực tôi thấy nóng ruột lắm ngay từ lúc mới chặp tối.
– Chao ơi! Hay tin nhảm. Muốn đột nhập trang viện không phải là
việc dễ dàng. Ngoài Đới chủ nhân còn có Bạch Mẫu Ngô Công bản lãnh vô
địch và Hắc Sát Thần Ngư cũng là tay kiệt liệt. Người đông hơn, phòng
thủ cẩn mật, lại thêm hai con chó săn lớn. Cặp trai gái hôm qua có đột
nhập cũng còn mệt chớ đừng nói tới việc phóng hỏa trang viện!
– Thôi, để tôi trèo lên cây ở sân nhìn rõ hơn xem sao.
Tên đó thăn thoắt bò lên cây ở sân, giây lâu, nói vọng xuống :
– Đúng cháy ở trang viện anh em ạ. Không còn ngờ nữa! Một người phải về trang viện do thám xem sao.
Tên đó tụt xuống đất nói tiếp :
– Bây giờ, Lý Ngũ phi ngựa về trang xem sao. Nếu sự thực bị cháy nên mau lẹ trở về đây báo cho anh em còn liệu đường rút lui…
Bỗng có tiếng từ trên nóc nhà vọng xuống khiến bốn tên nọ giật mình đứng đờ ra như phỗng đá :
– Trang viện sào huyệt của bọn tặc đạo các ngươi bị phá rồi,
định chạy đâu cho thoát? Biết điều trói tay nạp mình thì còn có cơ sống
sót.
Hai bóng đen từ nóc nhà nhảy xuống sân nhẹ nhàng không một tiếng động nhỏ.
Lam Y cười khanh khách vang trong đêm tối :
– Thế nào! Định chiến hay hàng mà còn đứng sững như vậy?
Như mới sực tỉnh, bốn tên run rẩy quỳ xuống lạy xin tha tội.
Nghĩ tới trận đánh hắc điếm đêm qua, chúng hãy còn ớn cả xương sống?
– Lạy lục chi! Vào cả trong nhà, mau!
Bốn tên riu rít đi vào. Anh em Chu gia theo sau.
Chu Đức Kiệt kiếm dây trói gò tất cả lại, đoạn kiếm bút mực viết lên tường, dưới ký Lam Y nữ hiệp.
Bốn tên lo sợ bị hạ sát, cho tới khi anh em Chu gia ra khỏi cửa
hồi lâu không thấy động tĩnh mới đỡ sợ, nhưng không hiểu họ sẽ hành động thế nào.
Hai người ra khỏi điếm, lấy ngựa phi theo đường cũ về rừng Đại
Lâm. Khi còn cách nhà sàn của họ Củng độ trên một dặm đường, Lam Y rẽ
ngựa vào sau một phiến đá lớn.
– Hiền huynh để ngựa ở đây, lên coi chỗ chôn thùng vàng bạc.
Chu Đức Kiệt theo Lam Y chuyền lên sườn núi, đi tới một chỗ khuất có nhiều cây dương cổ thụ cao lớn.
Lam Y chỉ gốc cây lớn nhất nói :
– Chôn ngay dưới gốc cây kia, dưới phiến đá lớn.
– Hiền muội mới đặt phiến đá vào đó phải không?
– Dạ, đánh dấu cho dễ nhớ. Thôi, ta về nhà Củng lão đi. Thấy anh em ta đi lâu, họ mong lắm.
Về tới nhà sàn, Cha con Củng lão và Trần Nhị còn thức. Nghe chó sủa, ba người chạy ra đón. Chu Đức Kiệt nói :
– Xong việc rồi. Tiếc rằng ở đây khuất không trông thấy ngọn lửa thiêu trọn Xích Hoa viện.
Trần Nhị đỡ dây cương dắt ngựa đi ra phía nhà sau. Lam Y chỉ hai con ngựa nói :
– Tôi lấy đỡ dây cương dắt ngựa đi ra phía nhà sau. Lam y chỉ hai con ngựa nói :
– Tôi lấy về hai con tuấn mã này tặng Củng lão và A Hoành. Nếu ai hỏi chi, cứ nói do Lam Y nữ hiệp tặng.
Củng Thuận nói mấy lời cám ơn. A Hoành nhanh nhẩu :
– Kê cháo nấu sẵn rồi, mời nhị vị thay y phục rồi uống chút rượu cho ấm.
A Hoành và Trần Nhị, hầu hạ rất chu đáo. Thứ gì cũng sẵn sàng…
Trước khi thay áo, anh em Chu gia nhìn kỹ y phục không thấy vết máu nào cả.
Nói đến vấy máu, trong bộ Võ thuật Tùng thư có ghi một đoạn như sau đây :
– “Trong trận chiến đấu, một đấu một hay một đấu với nhiều
người, người có bản lãnh không phải là chỉ cần có trổ tài võ dũng đâm
chém bừa bãi tàn sát đối phương mà thôi. Khi hạ xuống một lát đao, phóng ra một mũi kiếm, ta phải dự liệu trước việc địch thủ khi lãnh đòn ấy,
máu sẽ phun vọt về hướng nào để liệu đường tránh. Kẻ chiến thắng đứng
giữa các thây xác địch thủ vừa hạ xong, quần áo, mặt mũi, chân tay vấy
đầy máu, tất không phải là đã có bản lãnh siêu đẳng.
Trong trận loạn chiến chém văng thủ cấp địch thủ, nhưng xác
không đầu ấy ngả ngay vào hướng mình, máu từ cổ xác chết phun ra như
tưới đầy mặt, đầy ngực mình ta rất có thể bị một hay nhiều địch thủ khác nhân cơ hội ấy nhào tới giết chết ngay mà không kịp trở tay. Không
những thế mà thôi, ra khỏi một trận đấu, máu me bê bết đầy người, hẳn
cũng kém về vấn đề mỹ quan. Không lẽ mỗi lần, sau khi lâm trận là mỗi
lần phải thay y phục, tắm rửa sạch các vấy máu trên người?
Bởi vậy, khi còn theo học, môn đồ cần phải chăm chú nhận xét học hỏi cho tinh vi những phương pháp lánh né, dùng tay gạt hoặc dùng chân
đạp xác địch thủ bị tử thương.
Trên đây nói về bộ chiến.
Về mã chiến thì khác.
Hổ tướng trên yên ngựa, giáp trụ nặng nề, xông xáo giữa đám quân trăm vạn, muôn tên ngàn giáo, đâm chém luôn tay, máu nhuộm ướt chiến
bào từ bắp đùi trở xuống là một sự thông thường. Hơn nữa, viên hổ tướng
chỉ có từ mặt trận trở về doanh trại, vấn đề mỹ quan, tiện hay không
tiện đều gác bỏ ra ngoài. Chỉ cốt sao sát, sát thật nhiều đem lại phần
thắng cho quân nhà.
Nói tóm lại, cùng một chữ “Sát”, mà một Giang hồ Kiếm khách sát
để bảo vệ công lý vẫn không được xao lãng vấn đề mỹ quan về thực tế cũng như về tinh thần, khác hẳn viên tướng lâm trận sát theo tư cách nhà
nghề.
Sau trận lưu huyết, người Kiếm khách đắc thắng, không mang một
vấy máu nhỏ nào trong người, chắc chắn người ấy đã có công phu tập luyện cao siêu”.
Bởi vậy, anh em Chu gia rất thận trọng về phương diện này.
Ngoài trời lạnh, trong nhà lửa ấm, rượu nồng, cháo gà thơm ngon
khói bốc nghi ngút, năm người xúm vào ăn uống thiệt ngon lành. Anh em
Chu gia kể chuyện chiến đấu ở Xích Hoa viện cho mọi người nghe, ai nấy
cũng làm thích thú.
Củng lão nói :
– Thế là từ nay làn Sơn Phu tránh được cái ách tai ương họ Đới.
Như vậy, dân lành mới có cơ làm ăn hàn gắn, gây cho khu vực này một nếp
sống trong thái bình thịnh vượng.
Chu Đức Kiệt hỏi :
– Các hương chức ở đây là ai có khá không?
– Đứng đầu Sơn Phu có Tô Tử Kiện năm nay đã ngoài lục tuần.
– Họ Tô có đức độ, mọi người trong làng ai cũng kính mến.
– Tuy vậy trước đây cũng chẳng quyền hành chi cả vì sự hiện diện đàn áp của Đới Vĩnh Khang từ mấy năm nay. Từ nay trở đi, có lẽ làng này mới được cải tổ sống theo nếp thường được.
– Nhà Tô Tử Kiện ở khu vực nào, tôi muốn tới đó.
– Nếu vậy để A Hoành dẫn hiệp khách tới nơi có tiện hơn không?
– Như thế cũng được. Tôi muốn đi một mình đến đó, cốt ý tránh tiếng cho Củng lão mà thôi!
Lam Y nói :
– Hiền huynh thảo qua mấy lời nhắn Tô Tử Kiện dùng tiền bạc ta
giúp vào việc công ích xây dựng mở mang làng Sơn Phu. Ngu muội đến đó
ngây bây giờ cho tiện việc.
Củng Thuận nói :
– A Hoành dẫn Nữ hiệp đi lối tắt có vài dặm gần lắm.
Dứt lời, Củng Thuận đứng lên đi lấy cây bút lông và thoi mực hãy còn mới nguyên.
– Làm việc lao động không bao giờ cầm tới bút nghiên thành thử mua về từ nhiều năm nay rồi cũng không dùng tới.
Trần Nhị đỡ lấy đi mài mực giây lát cầm lên. Chu Đức Kiệt lấy giấy thảo mấy hàng:
“Gửi Tô Tử Kiện tiên sinh,
Từ nay làng Sơn Phu thoát tay đàn áp của Đới tặc. Yêu cầu tiên
sinh dùng gói bạc này xây dựng mở mang Sơn Phu và một phần ba giúp đỡ
những người nghèo khó trong làng nâng họ lên bậc đủ tư cách tự lực sanh
sống.
Dưới địa huyệt Xích Hoa viện có nhiều khí giới sở dĩ có thể tổ
chức một đoàn Dân quân phòng vệ trong làng. Trong tầu, ngựa tốt còn mười hai con, tiên sinh hãy lấy về dùng vào việc công.
Mong tiên sinh nhất nhất thi hành đúng lời yêu cầu trong thư này.
Lam Y nữ hiệp, đề”.
Chu Đức Kiệt thảo xong bức thư thì Lam Y cũng đai nịt xong. Gài
thư trong bọc bạc đeo trên vai, nàng theo A Hoành đẩy cửa bước ra. Hai
người theo đường tắt băng qua rừng không mấy chốc đã tới nơi. Tiếng chó
sủa ầm ĩ! Thấy bất tiện, Lam Y bảo A Hoành :
– Tô Tử Kiện ở nhà lầu cao nhất làng, mái cong cong kia phải không?
– Dạ, chính phải?
– Nếu vậy phiền đại ca chờ tôi ở ngoài kia. Tôi sẽ trở ra ngay.
A Hoành chưa kịp đáp thì Lam Y đã băng mình trong đêm tối biến đâu mất rồi. Hắn lẩm bẩm :
– Khiếp quá! Người chi mà biến hiện như ma vậy!
Lam Y phi thân qua các nóc nhà vào tới khu nhà lầu cao nhất.
Nhảy lên lan can lầu, nàng tìm nơi cửa chánh, buộc gói bạc và lá thư
lủng lẳng ngay giữa xà nhà.
Đoạn nàng gõ cửa mạnh. Giây lâu có tiếng chân lệt sệt đi bên trong và giọng say ngủ hỏi :
– Đêm hôm thế này, ai gõ cửa ngoài hiên lầu thế?
Lam Y dõng dạc đáp :
– Tôi đây. Mở mau có việc cần.
– Ủa! Ai đó? Vào nhà bằng lối nào mà lại đứng ngoài hiên lầu thế này?
Lam Y bưng miệng nén cười :
– Ta là đồ đệ của Nam Hải Quan Thế Âm từ trên Trời xuống mang gói này lại cho Tô Tử Kiện, vậy mau mau ra mà nhận lấy.
Dứt lời, nàng nhảy xuống vườn, chuyển qua mặt tường, phi thân
lên nóc các nhà khác ra khỏi làng, tiến tới sau lưng A Hoành khẽ nói :
– Xong rồi! Ra về kẻo lạnh!
Tuy mạnh bạo, A Hoành cũng rỡn tóc gáy thốt câu :
– Chao ôi! Giật cả mình!
Lam Y phì cười, cùng A Hoành theo đường cũ về nhà kể chuyện cho mọi người nghe. Ai nấy đều tức cười :
– Củng lão nói :
– Nhị vị hiệp khách nán lại đây vài bữa xem Tô Tử Kiện hành động ra sao rồi sẽ lên đường. Vả lại cũng nên nghỉ ngơi lấy sức, hai đêm nay thức gần suốt sáng rồi. Chờ sáng cho A Hoành đi dò la tin tức.
Chu Đức Kiệt nói :
– Anh em tôi giang hồ bèo nước không có việc gì cần gấp. Chỉ em làm rộn cuộc sống an tĩnh của lão trượng thôi.
– Nhị vị hành hiệp thay mặt Công lý, đem lại an ninh cho thiên
hạ hết năm này sang năm khác còn được nữa là thân già này sống y tĩnh
trong khu rừng hoang vắng thì có gì đáng kể. Trái lại, sự hiện diện của
quý vị ở nơi đây làm hãnh diện cho cha con lão vô cùng.
Hôm sau, anh em Chu gia dậy muộn. Đứng trên hiên nhà nhìn xuống thấy Trần Nhị quẩy một gánh cỏ lớn từ đâu về cho ngựa ăn.
– Nhị vị ân nhân dậy sớm vậy? Con lấy cỏ non ở khe núi đằng kia về cho ngựa ăn chóng mập lắm.
Chu Đức Kiệt hỏi :
– Cha con Củng lão cùng đi ra làng Sơn Phu à?
– Không! A Hoành đi một mình, Củng lão ở nhà mà!
Hai người trở vào trong nhà, bình trà đã pha sẵn, nóng hổi bèn rót uống.
Vừa được một tuần, thì Củng Thuận vác rìu trở về.
– Lão trượng đi đâu về vậy?
– Hồi gần sáng, mấy con ngựa cứ xô nhau và đập chân hoài, tôi e có sự lạ nên vừa rồi vác rìu đi vòng quanh coi.
– Thấy chi lạ không?
Dạ có, ở phía bắc, cách nhà độ mươi trượng có dấu chân lão hổ.
– Có lớn không?
– Khá lớn! Nhưng có điều lạ là tôi nhận xét kỹ chỉ thấy ba vết chân in rõ trên mặt đất ướt còn một vết thì nhẹ quá!…
Lam Y ngắt lời :
– Nếu vậy, con hổ đó thọt hay là bị thương rồi!
– Dạ chắc là thọt. Nếu bị thương ở chân phải có vết máu. Hổ thọt độc lắm. Mời nhị vị ra coi…
Nhân khi vắng Trần Nhị, Lam Y nói :
– Được! Nhưng chúng ta cần nói chuyện riêng này với lão trượng đã.
Dứt lời, nàng lấy ở trong bọc ra hai đỉnh bạc :
– Lão trượng vui lòng nhận số bạc này để mở mang nơi đây.
Có vậy, chuyến sau qua khu Sơn Phu, anh em tôi mới trở lại thăm.
– Biết là từ chối cũng không được, Củng lão nhận bạc nói mấy lời cảm ơn.
Lát sau, Trần Nhị theo ba người ra chỗ có vết chân mãnh thú. Anh em Chu gia nhìn nhận kỹ, dấu chân hổ rành rành, cứ ba vết nặng có một
vết nhẹ trên khoảng đất trống và mất hẳn trên cỏ ở chung quanh :
– Chu Đức Kiệt nói :
– Kỳ cục nhỉ! Sao đây lại có khoảng đất thiệt trống như thế này?
– Từ trước chỗ này vốn vẫn thưa cỏ. Đến lúc cha con tôi dựng nhà ở đây, thường đưa củi ra đây chẻ, nên cỏ bị chà đạp không mọc được nữa. Khu vực này tuy có hươu nai nhưng thú lớn ít về kiếm mồi lắm. Lão hổ
thọt về đây là lần thứ nhất.
Lam Y nói :
– Ở rừng thì không nói thể nào cho cùng được. Loài hổ báo thường từ các nơi xa đến ít lâu sau lại đi nơi khác. Không gì hơn là ta nên
phòng bị. Con hổ thọt này thế nào cũng trở lại. Vậy, một mặt phải đóng
dóng tre vót nhọn chung quanh khu nhà để ngựa, hay là toàn thể khu nhà
sàn thì mới an tâm được.
Chu Đức Kiệt nói :
– Tôi thấy trên nhà có hai cây cung và mấy ống tên rất tốt, chắc lão trượng và A Hoành xạ tiễn khá lắm, phải không?
– Dạ, trước kia tôi là cựu đội trưởng đoàn Xạ Quân dưới trướng
quan Thống đốc lục quân tại Kim Lăng. Sau thấy vị quan đó hùa theo Thuận Vương có ý nghịch lại triều đình, nên tôi chán nản bỏ về đây… Còn
thằng A Hoành có tập võ và bắn cũng tạm được.
– Sáng hôm nọ khi vào đây, gió lùa trong lá phát ra những tiếng
cọt kẹt y hệt tiếng các lóng trên cọ vào nhau, nên đoán là có rừng trên ở gần đây, phải không?
– Hiệp khách đoán trúng. Dưới hốc núi kế bên Đại Lâm quả có một
khoảng mọc nhiêu tre cật… Lấy tre đó về đeo nhọn đóng quanh nhà có lẽ
tốt lắm.
– Chính thế, lão hổ rất sợ tre nứa bén nhọn. Củng lão nên phòng vệ thì hơn.
Từ nãy, Trần Nhị im lặng nghe mọi người nói chuyện, nay nhân dịp bèn nói xen vào :
– Lúc này, ngoài việc về quê, cháu không có việc chi cần gấp,
nếu Củng bá phụ ưng thuận cháu sẽ xin tình nguyện ở lại giúp, chừng nào
rồi việc sẽ lên đường cũng được.
Lam Y cười :
– Trần Nhị có hảo ý ấy, làm gì Củng lão chẳng hoan nghinh!
Củng Thuận đáp :
– Chính tôi cũng đang có ý nhờ Trần điệt nán lại giúp. Hay là nán lại đây bầu bạn cùng A Hoành thì càng hay.
Trần Nhị vui vẻ :
– Họ hàng thân thích chẳng còn ai, bá phụ chấp thuận cháu ở lại
đây ngày ngày theo Củng đại ca vào rừng kiếm củi hay săn bắn cũng được.
Anh em Chu gia cùng Củng Thuận đi loanh quanh trong rừng cây lớn hàng ôm, quằn quèo khúc khuỷu. Nhiều lớp lá dày đặc, ánh sáng chỉ lọt
qua tùy từng nơi, nên bóng rừng âm u đượm màu rùng rợn. Thêm vào khung
cảnh ấy, tiếng vượn hót chim kêu nhắc nhở cho hai người cảnh rừng rậm
núi cao thoát tục hồi theo Đức Võ Thượng Nhân học đạo…
Cảm thấy mối buồn lâng lâng choán tâm hồn mình, Chu Đức Kiệt thở dài :
– Thấm thoát đã bao năm qua rồi! Mỗi chuyến nhàn rỗi ngắm cảnh
núi rừng, ngu huynh không thể nào ngăn nỗi mối u buồn cảm xúc nhớ thời
khắc đã qua!…
Cùng một ý tưởng, Lam Y đôi mắt huyền chìm đắm nhìn thẳng vào
khu rừng âm u… Nàng nhớ lại mới thuở nào còn bé, sống trong khung cảnh êm dịu của gia đình trìu mến… Luyện tập võ nghệ chỉ tưởng để phòng
thân thôi, ai ngờ chính vì thế mà mang lấy nghiệp du hiệp giang hồ bồng
bình trôi nổi, dấn thân trong trường cung kiếm dầu dải phong sương đua
cùng tuế nguyệt!…
Phàm khách hữu tài thường hay đa tình. Trái hẳn với những lúc
hào hùng xông pha trong muôn nguy vạn hiểm, đưa ba thước kiếm thần lấy
đầu cường hào ác bá, cứu khổ phò nguy. Nữ hiệp uy nghi dũng mãnh, biến
ảo không lường như vị thiên thần thay trời hành đạo… Nhưng, lúc này
Lam Y đây là hiện thân của nàng Chu Tú Anh kiều diễm, với một tâm hồn
man mác dào dạt của thiếu nữ đương xuân mơ mộng, được sống trong khung
cảnh dịu dàng của gia đình bên người chồng trìu mến thương yêu, và giữa
bầy trẻ ngây thơ xinh xắn đang u ơ vòi cha nũng mẹ…
Thần người ra nghĩ, bỗng ngước mắt lên thấy Chu Đức Kiệt đang mỉm cười nhìn mình, Lam Y hai má bừng đỏ như cành hoa anh đào.
– Hiền huynh nhìn chi dữ vậy?
Chu Đức Kiệt mỉm cười :
– Ngu huynh nghĩ rằng sao nàng Tú Anh dịu hiền kia lại là một
nhân vật Giang Hồ Kiếm khách mà không là một người vợ ngoan hay người mẹ hiền sống nơi màn buông, trướng rũ, êm ấm biết nhường nào!.
Bị đoán trúng tâm lý, Lam Y nói :
– Tiểu muội đang nghĩ tới trang trại của nhà ta ở Bình Dương
huyện, và tự vấn chừng nào mới được ẵm đứa cháu kháu khỉnh nối nghiệp
dòng họ Chu?.. Hỏi thiệt hiền huynh đã “chịu” đám nào chưa? Kể gặp đã
nhiều thiếu nữ, tài có, sắc có, chẳng lẽ chưa một ai lọt vào mắt xanh
của hiền huynh chăng?
Bất ngờ bị cô em tấn công liên tiếp, Chu Đức Kiệt khen thầm em mình hoạt bát tinh khôn, đủng đỉnh trả lời :
– Một duyên, hai nợ, ba tình, không lẽ gặp người là yêu ngay,
thấy đẹp mà mê “đại” hay sao? Ít nhất cũng phải đủ thì giờ tìm hiểu
nhau, khắc phục lẫn nhau thì sau này tình chồng vợ mới đượm đà nồng ấm
chứ! Bất hiếu hữu tam, cô hậu vĩ đại, ngu huynh không quên đâu.
– Chà! Hiền huynh khó tánh quá thành ra khắc khổ… Rồi đây sẽ
có một người đẹp tài cao khắc phục hiền huynh như khắc phục một tuấn
mã… nhưng bất kham!
Nói đoạn, nàng bưng miệng khúc khích cười rất hồn nhiên.
Chu Đức Kiệt tuy cố nghiêm nét mặt cũng phải phì cười, nói lảng :
– Củng lão và Trần Nhị về từ lúc nào rồi, thôi ta dông dài mãi,
về đi. Có lẽ đêm nay thức nữa phòng mãnh thú đến quấy nhiễu cũng chưa
biết chừng…
Anh em Chu gia lững thững trở về nhà sàn thì vừa vặn gặp Trần Nhị bước xuống thang.
– May quá! Nhị vị trở về vừa kịp. Củng lão sai con ra mời nhị vị về xơi rượu.
Chu Đức Kiệt nói :
– Thơ thẩn trong rừng cây quên cả giờ giấc. A Hoành về chưa?
– Dạ, vừa về xong ạ.
Trong khi uống rượu, A Hoành đem việc tai nghe mắt thấy ở Sơn Phu kể cho mọi người nghe.
Sáng sớm, trong khi chợ đang họp đông. Tô Tử Kiện đánh trống
theo thường lệ mỗi khi có việc quan trọng, họp tất cả mọi người lại kể
chuyện vị Lam Y nữ hiệp treo bọc tiền đêm qua ở hiên lầu, và đọc bức thư gài trong bọc đó cho mọi người trong làng nghe. Ai nấy đều mừng rỡ khi
rõ việc Xích Hoa Xà Đới Vĩnh Khang đã bị hiệp khách diệt trừ, Xích Hoa
viện đã bị hỏa thiêu. Sau đó, các tráng đinh trong làng đều tình nguyện
tụ họp dưới quyền sử dụng của Tô Tử Kiện để áp giải nội bọn họ Đới lên
Huyện. Tô Tử Kiện nhân lúc đông đủ mọi người liền hẹn ngày mời các bô
lão hội họp tai nhà để bàn định về việc sử dụng món tiền do Nữ hiệp giúp vào việc mở mang làng Sơn Phu và trù tính việc phát tiền cho người
nghèo…
Hiện thời, Tô Tử kiện đã cũng các tráng đinh đến Xích Hoa viện
bắt tất cả lũ tặc đạo về giam giữ tại hắc điếm, cắt người canh phòng rất cẩn mật. Các khí giới ở dưới hầm và trên mười con ngựa khỏe đã được đưa về cả trong làng. Hiện thời Xích Hoa viện chỉ là đống tro tàn khói
lạnh. Các tử thi trong viện cháy thành than nhận ra được từng người,
nhưng lạ một điều là không thấy bà Lão phụ và Hoa Cô Nương đâu cả.
Lam Y nói :
– Bạch Mẫu Ngô Công đem Hoa cô nương trốn đi rồi làm sao thấy xác chúng được!
Chu Đức Kiệt tiếp :
– Bọn Đới tặc là người của Thuận Vương, chắc lão phụ đem Hoa cô nương về Kim Lăng rồi.
Củng lão sợ hãi :
– Nếu vậy e Thuận Vương sai về Sơn Phu đàn áp cả làng thì sao?
Chu Đức Kiệt lắc đầu :
– Muốn thế nào, Thuận Vương cũng chưa dám hành động công khai
tới nước ấy. Hiện thời, chúng chỉ hoặc chiêu nạp hoặc sát hại anh tài để chờ dịp tốt khởi binh dấy loạn… Nếu đoán trước việc vị Vương gia ấy
báo thù, chúng tôi đã hành động khác để tránh cho làng Sơn Phu khỏi bị
vạ lây… Công việc thế là ổn rồi. Chúng tôi bình tâm lên đường.
– Nhị vị hiệp khách giúp tôi trừ con ác thú nữa chứ?
A Hoành giật mình hỏi ác thú nào. Củng Thuận nói lại việc tìm
thấy dấu chân lão hổ ở quãng đất trống cho con nghe và nói luôn việc
Trần Nhị tình nguyện ở lại giúp.
Lam Y gật đầu :
– Việc chúng tôi ở nán lại một hai ngày bất thành vấn đề. Trừ
được con mãnh thú này con khác sẽ đến thì tính sao! Ở rừng đã lâu chắc
Củng lão và A Hoành còn rành hơn chúng tôi về vấn đề này. Theo ý riêng
tôi, dùng tên thuốc độc là đắc sách hơn cả.
Củng lão nói :
– Nữ hiệp dạy chí phải. Từ đây xuống chỗ nhà để ngựa vừa tầm
phát tên. Cha con tôi và Trần Nhị thay phiên nhau ngồi ở hàng hiên canh
phòng chờ mãnh thú đến cứ việc xả tên. Trừ ra khi nào mãnh thú hung hãn
làm dữ, nhị vị sẽ ra tay giúp.
– Trúng ý tôi. Thiệt ra tôi cũng muốn xem cách săn lão hổ của quý vị ra sao.
Cơm rượu xong xuôi, cha con Củng Thuận và Trần Nhị vác đao quắm ra khe núi đẵn tre.
Thừa dịp ấy, Lam Y mở hộp vàng lấy viên Tỵ Hỏa châu hai tay cung kính đưa cho Chu Đức Kiệt :
– Ngu muội kính biếu hiền huynh bảo vật vầy.
Chu Đức Kiệt đón lấy sợi dây vàng nạm ngọc xem xét hồi lâu :
– Ngọc này đẹp thật! Sao hiền muội lại vẽ vời thế? Mua ngọc này ở đâu và lúc nào.
Lam Y nghiêm nét mặt :
– Ngu muội nhấn mạnh hai tiếng “bảo vật” tất hạt ngọc đó phải có tánh chất riêng, nếu chỉ “đẹp” không thôi đối với chúng ta cũng bằng
thừa.
Chu Đức Kiệt lật đi lật lại viên ngọc xem xét rồi nhìn Lam Y mỉm cười, nghi ngờ.
– Hiền huynh không tin sao? Coi đây.
Dứt lời này cầm lấy viên ngọc, dắt Chu Đức Kiệt đến bên lò lửa đầy than hồn.
Chu Đức Kiệt chưa hiểu cô em định làm gì thì Lam Y đã cầm đầu
sợi dây vàng thả viên ngọc xuống giữa đống than hông… Chu Đức Kiệt
giật mình vì… lạ thay! Đống than hồng như bị dội nước tắt hết. Lam Y
nhắc hạt ngọc lên đưa cho Chu Đức Kiệt xem. Hạt ngọc vẫn long lanh trong suốt không vẫn một chút bụi nào.
Mừng rỡ, Chu Đức Kiệt hỏi :
– Báu vật này quả là độc nhất vô nhị, trên đời kiếm đâu ra thứ
Tỵ Hỏa châu vô cùng linh nghiệm này! Hiền muội có thể nói rõ cho ngu
huynh biết được không? Nên giữ lấy mà đeo, hạp với hiền muội hơn.
Lẳng lặng, Lam Y đeo hạt ngọc lên cổ Chu Đức Kiệt :
– Hiền huynh chê phải không?
– Ngu huynh đâu dám chê. Nhưng món trang sức quý báu đó hạp với
hiền muội. Nếu có hai hạt, ngu huynh xin vui lòng bái lãnh ngay…
Lam Y kéo Chu Đức Kiệt vào gian phòng xếp để lu nước, tháo ở cổ ra một sợi dây dát hạt Tỵ Thủy châu, nhúng thẳng vào trong lu.
Chu Đức Kiệt thấy nước rẽ hẳn ra chung quanh không vấy vào hạt ngọc mảy may.
Chàng cầm lấy báu vật ngắm nghía khen ngợi luôn miệng.
Lam Y kể lại chuyện vô tình tìm ra hai Tỵ Hỏa, Tỵ Thủy châu tai
Xích Hoa viện cho Chu Đức Kiệt nghe. Nàng đưa luôn cả chiếc hộp bằng
vàng chặm bên trong có mảnh giấy đề tên hai hạt ngọc quý.
Nhờ mấy chữ này, ngu muội mới để ý tới báu vật, nếu không cũng
bỏ qua rồi. Thử luôn viên Tỵ Thủy châu trong bồn nước Xích Hoa viện thấy hiệu nghiệm, ngu muội bèn lấy riêng ra để anh em ta dùng.
Ngẫm nghĩ giây lát, Chu Đức Kiệt nói :
– Cổ thư có nói tới bẩy hạt trân châu truyền từ đời Tống Nhân
Tôn trong đó có hai hột Thủy, Hỏa quý nhất, không hiểu tại sao lại lạc
vào tay Đới Vĩnh Khang? Đó là cả một sự bí mật!
– Dễ hiểu lắm! Xích Hoa Xà vốn là tên tặc đạo, hẳn là y trộm, cướp được ở đâu đó chứ gì!
– Suy luận thế sai. Bảo vật để trong kho tàng của nhà vua cơ mà.
– Hiền huynh nghĩ kỹ xem, từ Tống Nhân Tôn đến nay, thế sự thăng trầm, biến chuyển bao lâu rồi. Giặc Mông Cổ vào cướp phá Trung Quốc lấy của cải kho tàng thiên đô về Yên Kinh. Sau đó, Minh Thái Tổ dấy binh
trải qua mười năm chinh chiến mới thâu phục được giang san Hán tộc, thế
thì chắc gì mấy bảo vật nhỏ bé này vẫn nằm gọn trong kho tàng của triều
đình?
– Chưa dám nói chắc. Nhưng Đới tặc đoạt được cặp trân châu này là cả một sự bí mật.
Anh em Chu gia trở ra nhóm lại lò lửa, Chu Đức Kiệt và Lam Y để ý thấy ngọn lửa cứ bị dạt về một bên mỗi khi Chu Đức Kiệt đến sát bên lò.
Chu Đức Kiệt nói :
– Ngu huynh vẫn phân vân về hạt Tỵ Thủy châu. Không hiểu dưới
trận mưa lớn hiền muội có bị ướt không? Còn khi ở dưới nước, hiền muội
bới lội như cá thì cần chi tới hạt châu này?
Lam Y phản đối :
– Chắc hữu ích chứ! Chừng nào có dịp sẽ thử coi mới xác định được công dụng của báu vật ấy.
Hai anh em phiếm đàm, chẳng mấy chốc trời đã xế chiều. Cha con
Củng lão và Trần Nhị về tới nơi, mỗi người vác một bó tre lớn, Trần Nhị
đèo thêm mớ cỏ non cho ngựa.
Cơm nước xong xuôi thì vừa vặn tới giờ lên đèn. Củng Thuận nói với anh em họ Chu :
– Bọn chúng tôi canh phòng mãnh thú được rồi, nhị vị chẳng cần
thức theo thêm mất sức. Lúc nào có động chúng tôi kêu dậy cũng vừa.
Đêm hôm ấy, Trần Nhị không thạo nghề săn bắn, canh phòng cùng
Củng lão, thay phiên với A Hoành. Ba người trải mền chiếu ngủ ngay tại
hàng hiên, nơi trông thẳng xuống nhà để ngựa. Hai ngọn giáo và cung tên
để sẵn tầm tay.
Trời vẫn lạnh, tối như mực, gió nhè nhẹ thổi run lá cây xào xạc. Thỉnh thoảng, cú rúc từng hồi rợn gáy. Xa xa vọng tiếng thú săn mồi.
Ở nhà dưới, có lẽ năm con ngựa đã ngủ yên nên không đập móng lộp bộp xuống đất nữa. A Hoành trùm mền ngủ say. Củng Thuận và Trần Nhị
thức canh phiên đầu từ canh một tới canh ba. Hai người choàng mền, dựa
lưng vào phên vách. Củng lão thò tay vào phía trong cửa châm đóm lửa
trên ngọn đèn dầu rít một hơi thuốc lào, khoan khoái. Trần Nhị cũng lắp
mồi hút theo.
– Bá phụ à, quá canh hai rồi mà không động tĩnh chi cả.
Đăm nhìn quanh khu nhà dưới, Củng Thuận nói sẽ :
– Chính giờ giấc này mới tới lúc nghiêm trọng, cần phải để ý hơn cả.
Trần Nhị im lặng, đăm chiêu nhìn ngọn đèn dầu lồng kiến treo ở
đầu nhà dưới. Ngọn lửa tuy yếu, nhưng giữa rừng khuya đêm tối, ánh đèn
leo lét ấy cũng đủ sức sáng ra xung quanh…
Soạt!… Soạt!
Trần Nhị giật mình ngơ ngác nhìn quanh. Củng Thuận mỉm cười vỗ vai Trần Nhị :
– Con cầy hay nhím nào đó chạy xen qua bụm cây đó mà! Nếu là lão hổ rình mồi, bước đi không có một tiếng động…
Trần Nhị nín thinh, vớ lấy điếu nhồi thuốc định châm lửa hút nữa… thì bỗng Củng lão gạt tay Trần Nhị bảo đừng hút nữa…
– Coi kìa! Coi kìa?
Ngồi nhích sát vào Củng lão, Trần Nhị hỏi :
– Đâu? Gì thế, hả bá phụ? Đâu?
– Phía hữu kia kìa, hai mắt thù lớn phản chiếu ánh đèn, đúng mắt… nó bỏ rồi!
Cùng lúc ấy ở nhà dưới, tiếng ngựa thở phì phì, xây đi, xây lại
tháo động như sợ hãi tai họa tới bên… Hai bóng mắt vẫn đứng nguyên
chỗ. Củng lão cầm cung khẽ tay A Hoành. Tuy ngủ say, nhưng A Hoành rất
tỉnh, lẹ làng ngồi dậy nghe Củng lão thì thào… Trần Nhị run rẩy, dựng
cả tóc gáy.
Téc!… Téc… Téc…
A Hoành nói nhỏ :
– Đúng lão hổ rồi! Trần ca vào gọi nhị vị hiệp khách, mau!
Một tiếng nhè nhẹ từ trong cửa vọng ra :
– Chúng tôi ngồi đây nãy giờ mà không biết à? Cứ chờ mãnh thú tới gần sẽ bắn, chớ hấp tấp!
Anh em Chu gia bước không một tiếng động ra ngồi cạnh Trần Nhị
khiến Trần Nhị thấy ấm cúng hơn. Hai mắt sáng hồi nãy biến mất, nhưng
lát sau lại mở ra nhìn cách chỗ cũ độ hai trượng gần hơn.
Téc…! Téc… Téc…
Vận dụng thuật nhìn đêm, anh em họ Chu nhìn rõ ràng con lão hổ
cực lớn ngồi bên bụi cây, không rõ màu gì. Thuật nhìn đêm chỉ giúp khách dạ hành nhận ra mọi vật mờ mờ xám, chớ không phân biệt màu sắc rõ ràng
như lúc có ánh sáng đèn hay mặt trời.
Củng Thuận nói khẽ :
– Ác thú thay đổi phương hướng, tới gần đó. Tinh khôn như vậy, chắc nó quen bắt nhiều người và thú vật nuôi trong nhà rồi.
Quả nhiên, mãnh thú lại đổi chỗ tiến tới gần hơn nữa. Ở nhà dưới mấy con ngựa xôn xao sợ hãi thở mạnh, móng đập cũng mạnh.
Cha con Củng Thuận đứng dựa vào lan can, cung lắp tên sẵn sàng.
Giây lâu, cặp mắt sáng biến mất. Họ Củng và Trần Nhị hồi hộp chưa biết
nhìn về phương hướng nào thì con mãnh hổ vằn đen lông cực lớn đã lù lù
xuất hiện ra dưới ánh đèn. Mãnh thú đi có ba chân, một trước, hai sau.
Chân trước bên tả co lên như có tật, tuy vậy nó chuyển động rất lẹ
làng… Đàn ngựa sợ hãi quá xô nhau huỳnh huỵch vào căn nhà, nhưng Củng
lão và A Hoành đã phát luôn hai mũi tên.
Tách!… Tách!… Cả hai mũi tên cùng trúng bả vai lão hổ.
Mãnh thú gầm lên vang vội cả khu rừng xây hẳn mình lại nhìn lên
chỗ mọi người đứng như vừa đánh được hơi người Cha con Củng lão vội vàng lắp tên định bắn loạt thứ hai nữa, nhưng không kịp, mãnh thú đã gầm
lên, chồm tới, chồm tới phía có người.
Củng Thuận, A Hoành sợ hãi, lùi lại bắn nữa, trượt!
Nhưng cùng lúc ấy, một tiếng phập dội lên, lão hổ lăn lộn dưới
đất gầm gừ kinh khủng. Thì ra trong khi mãnh thú chồm tới, Lam Y đã cầm
lấy cây giáo nhằm đúng ngực phóng mạnh. Trúng thương, lão hổ nhào xuống
đất quay cuồng. Dưới sức nặng, cán giáo bị gãy đôi. Tuy vậy, nó vẫn gầm
vang quay đi mấy vòng rồi chuệnh choạng định chạy… Chu Đức Kiệt sợ
mãnh thú chạy, mất công đuổi, bèn nhắm bụng phóng luôn một ngọn giáo
nữa. Ngọn giáo xóc qua bụng mãnh thú sang bên kia. Lần này, vừa bị ngấm
tên độc, vừa bị hai vết tử thương, lão hổ gục xuống, máu chảy lênh láng, cố gượng dậy đi vài bước lại gục xuống.
Tiếng gầm nhẹ dần… và im hẳn.
Củng lão nói :
– Ác thú chết rồi! Trần điệt thắp đuốc mau!
Không thấy trả lời, mọi người quay lại chẳng thấy y đâu cả.
A Hoành gọi lớn :
– Trần ca! Trần ca! Đâu rồi?
Tiếng Trần Nhị run rẩy ở trong nhà nói ra :
– Tôi đây! Mãnh thú đã “dông” chưa.
– Nó chết rồi, còn chạy đi đâu nữa! Đại ca thắp đuốc ra đây, mau.
Mọi người phì cười vì tánh nhát của Trần Nhị. A Hoành cũng vào
châm đuốc cùng Trần Nhị bước ra. Mọi người nhảy cả xuống đất tiến lại
gần xem xác hổ. Mãnh thú lớn bằng con bò. Mùi hôi nồng nặc. Nhận kỹ ra
chân trước bị thọt tự nhiên chớ không phải vì bị thương mà thành tật. A
Hoành đưa đuốc cho cha, rút hai cây giáo ra vấy máu đỏ lòm :
– Thoát một con này, vẫn phải đề phòng con cái. Quý vị và phụ thân đi ngủ đi, để con canh phòng tới sáng cho.
Chu Đức Kiệt nói :
– A Hoành cũng yên tâm đi ngủ được rồi. Hổ thọt không bao giờ đi đôi và có đôi.
Nói đoạn, chàng cầm chân lôi xác hổ ra phía trước nhà sàn để
tránh cho ngựa khỏi sợ suốt đêm. Hôm sau, anh em Chu gia từ tạ Củng
Thuận lên đường. Củng lão cố mời hai người nán lại vài ngày nữa rồi sẽ
khởi hành. Chu Đức Kiệt nói :
– Trên bước giang hồ, bỗng dưng gặp nhau thế này là hữu hạnh lắm rồi. Chúng tôi có hẹn với nhiều bằng hữu ở Kim Lăng, đường còn dài, trì trễ e lỡ nhật kỳ. Vậy xin tam bái biệt, biết đâu chẳng có ngày hậu hội?
Hai anh em bái từ Củng Thuận, A Hoành, Trần Nhị quỳ lạy.
Chu Đức Kiệt đỡ dậy, bảo Trần Nhị :
– Từ nay nên thận trọng, chớ có lầm đường lạc lối như trước nữa nhé!
° ° °
Hai bên đường đi, núi đá lởm chởm, cây cối thưa thớt, không như khu Đại Lâm rừng rậm cây cao. Anh em Chu gia dong ruổi đến xế chiều hôm thứ ba mới gặp con đường chánh đi Kim Lăng. Nhìn quanh không
thấy thôn xóm nào cả, nhưng ở ngay chân núi phía xa có làn khói lam từ
một mái tranh tỏa ra trong nền trời chiều.
Cầm roi ngựa chỉ, Chu Đức Kiệt nói :
– Trời sắp tối, hỏi ngủ nhờ nhà kia vậy.
Hai người bèn thúc ngựa lẹ bước tới đó.
Căn nhà không đến nỗi hẹp lắm như hai người tưởng tượng lúc ban
đầu. Có lẽ vì thấy khách lạ tới nên một người đàn ông trạc ngót năm mươi tuổi đứng ngẩn ra nhìn.
Anh em Chu gia xuống ngựa vái chào :
– Chúng tôi lỡ độ đường, muốn phiền tiên sinh cho ngủ nhờ đêm nay, sáng mai đi sớm.
Người đó vui vẻ chất phác trả lời :
– Tôi rất hân hạnh được viễn khách chiếu cố nơi lều tranh vách là này. Mời tráng sĩ và cô nương vào nhà.
Dứt lời, người ấy gọi lớn :
– Thái Vân con!
Một thiếu niên trạc mười bảy, mười tám tuổi từ trong nhà chay ra vái chào anh em họ Chu.
Quý khách nghỉ lại nhà đêm nay. Con khá dắt ngựa vào nhà sau cho uống nước, ăn cỏ nhé.
Chu Đức Kiệt và Lam Y tháo yên ngựa đem vào nhà. Người chủ nhà
gọi vợ ra chào, bảo làm cơm thết đãi và tự xưng danh là Thái Phong. Mai
lên đường sớm nên mới vào khoảng qua canh một, anh em Chu gia đi nghỉ
ngay, sau khi chuyện vãn với chủ nhà.
Chu Đức Kiệt nằm cạnh cửa sổ gióng tre nhìn ra ngoài trời trăng
sao vằng vặc không vẩn lấy một gợn mây nào. Chàng khoan khoái nghĩ tới
vụ phá hắc điếm và hỏa thêu Xích Hoa viện ở Sơn Phu, rồi tình cờ đoạt
được hai hạt trân châu đặc biệt quý giá… Bỗng có bóng người, một người to lớn sắc mặc xám xanh, râu quai nón đâm tua tủa như rễ tre, mắt lớn
xếch ngược, mũi sư tử, tử xa chạy tót dòm vào cửa sổ nhu có ý tìm kiếm
người nào trong nhà…
Thấy vẻ mặt người ấy dữ tợn Chu Đức Kiệt quát hỏi :
– Ô hay! Người là ai! Dòm ngó vô đây làm chi?
Không trả lời, người mặt xám nhe răng ra cười, dữ tợn vô cùng, có vẻ khiêu khích.
Họ Chu nổi giận đùng đùng quát lớn :
– Đồ vô lễ! Chớ có chạy, coi đao ta đây.
Dứt lời, chàng với tay lấy Thất Tinh đao gối ở đầu giường, đạp tung ống tre nhảy ra ngoài đánh người nọ.
Thấy Chu Đức Kiệt nhảy ra, người ấy chạy lùi lại bảy, tám bước, cau mặt mắng :
– Thằng thất phu này vô lý thiệt! Ta trêu chọc chi nhà ngươi muốn gây lộn? Được có giỏi ra đây! Sợ chi!
Chu Đức Kiệt nhận thấy người ấy là một mãnh hán, vai to ngực lớn vận đoản giáp bằng đồng đen, lưng đeo bảo kiếm thì khen thầm hùng dũng, nhưng nhìn kỹ lại thấy quen mặt không biết đã từng gặp ở đâu rồi…
– Mi tên chi? Chu Đức Kiệt này không thèm giết kẻ vô danh :
– Mãnh hán tuốt kiếm ra, cười ha hả :
– Sơn Đông Đơn Đao Chu Đức Kiệt hả? Được! Đánh một trận đã rồi mới cho biết tên. Ra chỗ rộng này, mau!
Chu Đức Kiệt giựt mình không hiểu tại sao mãnh hán lại biết rõ
danh tánh mình như vậy. Trước sự thách thức của mãnh hán, Chu Đức Kiệt
không nói thêm nữa, đuổi theo hoa đao chém trước. Mãnh hán múa kiếm đỡ
và trả đòn. Nhưng Chu Đức Kiệt đã dồn dập tấn công luôn mấy thế rất
hiểm, đao pháp nhập siêu quần xuất chúng. Mãnh hán hùng dũng chống trả
lại hồi lâu, binh khí va vào nhau chí chát gây nên một trường chiến đấu
vô cùng ác liệt. Nhưng Chu Đức Kiệt lấn đòn khiến gã kia phải dần dần
nhượng bộ lùi mãi ra xa.
Không chịu bỏ, chàng đuổi theo tới một chân núi cao, cây cối rậm rạp, mãnh hán quay lại cười vang :
– Chu Đức Kiệt, ta với người đồng họ mà không nhận ra anh em sao?
Nói đoán, y chạy vụt vào trong rừng cây.
Chu Đức Kiệt tức giận vì lối ỡm ờ của mãnh hán, bèn chạy theo
vào rừng tìm nhưng chẳng thấy chi cả. Gã kia mất hút. Chàng gọi lớn :
– Tráng sĩ nào đó, có giỏi tài ra đây so kiếm phen nữa cùng ta nào!…
Im lặng. Rừng đêm hoàn toàn im lặng.
Sợ mắc mưu kẻ địch, Chu Đức Kiệt quay trở ra. Vừa ra tới rừng
thì trăng sao đã bị mây đen từ đâu ùn ùn kéo đến che lấp cả vòm trời.
Gió lớn nổi lên đùng đùng, bụi cát bay mù. Chu Đức Kiệt đưa tay che mặt
tránh bụi khỏi vào mắt, định phi hành trở về căn nhà tranh thì bỗng có
tiếng vó ngựa lộp cộp từ xa phi tới lẫn với tiếng ngựa leng keng.
Chàng nghĩ thầm :
– Chắc tên giặc vừa rồi dụ ta đến đây để phục binh. Hừ! Gớm
thiệt! Binh trăm vạn ta nào có sợ, thế thì chưa biết Đơn đao họ Chu chút nào cả!
Cầm ngang cây đao Thất Tinh, Chu Đức Kiệt ngạo nghễ chờ khách.
Nhạc ngựa mỗi lúc một gần, từ góc rừng hiện ra một viên tướng dũng mãnh, mặt đỏ như chu sa, râu ba chòm đen lánh, hàm én mày ngài, đầu đội khăn
xanh giáp trụ, nửa văn nửa võ bào lục, chân dận ủng Tây Xuyên. Viên
tướng đó cầm cây long đao yểm nguyệt cưỡi con tuấn mã cao lớn, màu da đỏ tía, cổ rộng, ức rộng vó thon đặc biệt kiêu hùng… Theo sát hai bên
ngựa là hai bộ tướng. Người bên tả mặt đẹp như mặt ngọc, bào hoa chít
đáp da thú màu nâu, tay bưng bọc ấn. Đai lưng gài trường kiếm. Còn người bên hữu thì không phải ai xa lạ, mà chính là gã mãnh hán trêu cợt thách chiến ban nãy. Lúc này y đã gài kiếm vào vỏ hai tay vác cây cờ xanh
nheo đỏ thêu bốn chữ đen kiểu đại tự “Hán Thọ Đình Hầu”.
Chu Đức Kiệt khen thầm viên đại tướng đó uy nghi dũng mãnh. Bộ
ba tiến tới trước mặt Chu Đức Kiệt cách đó hơn một trượng ghìm ngựa lại. Chu Đức Kiệt vẫn đứng nguyên chỗ cũ mắt nhìn trừng trừng.
Cất tiếng vang như chuông đồng, tướng mặt đỏ hỏi :
– Võ Khúc Tinh Quân có biết ta là ai không?
Chợt nhớ ra bốn chữ thêu trên cờ “Hán Thọ Đình Hầu”, Chu Đức
Kiệt giật mình nghĩ đến Quan Vân Trường đứng đầu Ngũ Hổ thời Hậu Hán.
– Phải rồi! Người bên tả là Quan Bình còn viên bộ tướng bên hữu
là Chu Xương! Thảo nào y nhận đồng họ với ta! Nhưng Vân Trường tới đây
làm chi?
Tuy nghĩ vậy, Chu Đức Kiệt cũng cung kính tra đao vào vỏ, cúi đầu vái chào :
– Hán Thọ Hầu có điều chi muốn dạy cho tiểu tử?
– Thấy Tinh Quân và Kim Tinh Nữ qua khu vực ta ngự trị, nên xúc phạm thần oai mới tới đây dự tính một đôi cơ điều…
“Lẽ ra ta chẳng nên dính líu tới việc phàm trần nữa nhưng Tinh
Quân nội điệt có tình bằng hữu, ta đành phạm tội tiết lậu thiên cơ, biết Tinh Quân vài điều chớ có xao lãng”.
“Vận nước loạn ly sắp tới, Tinh Quân và Kim Tinh Nữ còn phải
gian lao một thời gian, vậy trong bước giang hộ gặp sao Hỏa Đức Nữ là
duyên, và trên trường chinh chiến chẳng nên sát hại Nhạc Lan Anh…”
“Còn Kim Tinh Nữ là chất võ, hồn thơ nhưng thôi, tiết lộ đã nhiều!… Hẹn gặp nhau ở Mã Thạch cương. Ta đi đây…”
Dứt lời, Hán Thọ Hầu rẽ Xích Thố quay lại, cả ba cùng phi như bay.
Chu Đức Kiệt không kịp hỏi thêm nữa tức mình đuổi theo, không ngờ trượt chân té ra mặt đất…
Giật mình, Chu Đức Kiệt ngồi dậy ngơ ngác nhìn thì ra là giấc chiêm bao.
Cơn gió lạnh thổi lùa bay tung rèm cửa khiến chàng nhớ lại lúc
lên giường, chàng có đóng chặt cánh cửa gỗ, cài chốt cẩn thận. Chu Đức
Kiệt bèn với tay ra ngoài đóng cửa như cũ, lúc quay lại thì đã thấy Lam Y thức ngồi dậy từ bao giờ ở trên giường bên.
Chàng hỏi nhỏ :
– Hiền muội mở cánh cửa sổ này đó à?
Lam Y lắc đầu, vẫy anh sang ngồi bên :
– Tiểu muội vừa mơ thấy Quan Võ đời Hậu Hán, y hệt trong tranh vẽ thờ.
– Ủa! Ngu huynh cũng vậy, mơ thấy Hán Thọ Đình Hầu, định đuổi theo, trượt chân té trỗi dậy đây.
Chu Đức Kiệt nói nhỏ, kể lại cho Lam Y nghe giấc mộng kỳ lạ ấy.
– Y hệt giấc mơ của tiểu muội, Quan Vân Trường thiêng lắm, tất
phải có lý do chi đây! Cô nào là sao Hỏa Đức Nữ có duyên cùng hiền
huynh. Đẹp hay xấu? Tài hay kém? Thiệt là duyên tiền định nhé!… Còn
Nhạc Lan Anh là ai?.. Khó hiểu quá! Chất vẻ hồn thơ như ngu muội là thế
nào? Hừ! Kỳ quặc!
– Ta nhớ để ngẫm xem sao. Thôi, ngủ đi, mai còn lên đường. giữ sức mới được!
Sớm hôm sau, đóng ngựa xong xuôi, Lam Y đưa tặng Thái Phong mấy lượng bạc.
– Bất quá trọ một đêm đáng là bao, cô nương cho nhiều quá.
– Chúng tôi tặng tiên sinh chớ không phải trả công. Xin vui lòng nhận.
Chu Đức Kiệt hỏi Thái Phong :
– Thái tiên sinh có biết Mã Thạch cương ở đâu không?
– Với sức tuấn mã của tráng sĩ, chiều nay sẽ tới Mã Thạch cương. Chân núi Mã Thạch có Quan gia bảo. Tráng sĩ nghĩ lại đó đêm nay, mai sẽ lên đường.
Nghe nói đến ba tiếng Quan gia bảo, Chu Đức Kiệt đưa mắt nhìn Lam Y, rồi hỏi vội họ Thái :
– Chủ nhân Quan gia bảo là ai vậy?
Nhận thấy thái độ nghi ngờ của anh em Chu gia, Thái Phong đáp :
– Người đó là Kim Đao Quan Long, dòng giống của Quan Vân Trường
thuở trước, gia đình tôi ở khu vực này đã ba đời rồi nên biết rất rõ các vùng lân cận. Vị danh tướng thời Hậu Hán ấy linh thiêng lắm, thường
hiển thánh trên Mã Thạch sơn và các vùng lân cận.
Năm tôi mới ngoài hai chục tuổi, có việc qua lối núi Mã Thạch
cùng gia phụ. Hôm đó trời đang nắng chang chang giữa buổi trưa hè mà
bỗng dưng mây đen kéo đầy trời, gió thổi ào ào. Cha con tôi vội núp dưới gốc cây lớn chờ tránh cơn mưa, thì có tiếng nhạc ngựa vang từ không
trung xuống.
“Nhìn lên, hai cha con tôi cũng nhận ra rõ ràng Ngài cưỡi Xích
Thố, cầm long đao, hai bên có Quan Bình và Chu Xương vác cờ theo hầu.
Hồi lâu, cả ba vì thánh ấy đi xa rồi biến lẫn vào các đám mây đen lớn”.
“Chúng tôi mục kích cảnh tượng ấy nên mới tin việc Hán Thọ Đình
Hầu hiển thánh không phải ngoa truyền. Người trong vùng này nhà nào cũng thờ vị danh tướng hiển linh ấy”.
Gia phụ có nói lại câu chuyện này.
“Cách đây trên bốn mươi năm, hồi đó tôi mới độ chừng sáu, bảy
tuổi, có một bọn thảo khấu bị quan quân rượt chạy trên quãng đường từ
đây đi Mã Thạch cương. Vì trời tối, quan quân không dám hăng hái đuổi lẹ mà bọn thảo khấu cũng khinh thường nên đủng đỉnh đi dưỡng sức”.
“Không ngờ, sau một trận cuồng phong có tiếng nhạc ngựa rung rinh và tiếng chân ngựa phi tới”.
“Tưởng bị quan quân chặn đường, bọn tặc khấu bèn dàn quân định liều mạng sống mất một trận”.
“Nhưng chưa kịp trở tay thì bộ ba Hán Thọ Đình Hầu đã lướt tới
dũng mãnh oai hùng. Mắt hùm xếch ngược, Ngài cầm ngang thanh long đao,
dừng ngựa Xích Thố, đứng chặn giữa đường, oai phong, sát khí khiến bọn
thảo khấu giật mình kinh sợ không dám tiến, cũng chẳng dám lùi”.
“Chúng như bị một sức lực huyền bí gì thâu hút hết cả thần trí nên đâm ra hoang mang chần chờ…”
“Hồi lâu, viên tướng ấy quay ngựa lại phi lẹ như biến vào trong
đêm tối. Bọn thảo khấu vui mừng tưởng được mở đường, bèn sửa soạn tiến
bước”.
“Không ngờ, quan quân đã đuổi kịp bao vây và bắt được toàn bọn”.
“Cũng nhờ oai linh của Hán Thọ Đình Hầu nên bữa ấy quan quân mới lập được kỳ công. Bởi vậy Phủ quan cho dựng nơi đó chiếc bia đá lớn đề
ba chữ “Cầm Thảo Khấu” để kỷ niệm công Ngài hiển linh chận đứng bọn giặc lại cho quan quân tới kịp bắt”.
“Chừng nào qua khu ấy, nhị vị sẽ trông thấy ngay chiếc bia đá đó ở bên đường, dưới gốc một cây đa lớn cành lá um tùm tươi tốt”.
“Các khách thương đi lại buôn bán trên con đường này, xây thêm
một cây hương ở sau bia đá. Mỗi chuyến qua nơi ấy, họ đều dừng bước thắp hương cúng vái cầu cho được đi đến nơi, về đến chốn, làm ăn phát
tài…”
“Nhị vị nên cầm theo bó hương chiêm bái như mọi người cầu bình an tưởng cũng chẳng phải là việc thừa”.
Lam Y nghe đoạn hỏi Thái Phong :
– Nơi đây không có hàng quán chi cả, mua hương ở đâu bây giờ?
– Cô nương khỏi lo! Nhà có sẵn, xin cầm theo một bao.
Nói xong, Thái Phong bắc ghế lấy một bao hương mới trên bàn thờ Quan Vân Trường xuống, đưa cho Lam Y.
Lam Y đón lấy bao hương rồi cùng Chu Đức Kiệt từ tạ gia đình họ Thái lên ngựa ra đi.
Còn sớm lắm, khí núi tỏa ra mờ như lớp phấn lam nhạt. Gió thổi
nhẹ tiết trời vẫn lạnh căm căm se môi người lữ khách. Cảnh vật hai bên
đường rất đẹp, hoa rừng cỏ dại rung rinh lướt theo chiều gió, ngàn cây
xanh bát ngát tận chân trời, hương rừng tản mạn ướp muôn ngàn tiếng hót
của chim muông vừa thức giấc líu lo đồng ca một bản nhạc rừng xanh.
Lam Y nói :
– Cũng rừng, cũng núi mà nơi đây đẹp huyền hoặc như bức thủy mặc của một tay danh họa, trái ngược hẳn với khu Sơn Phu man dại khô khan.
Nghe vậy, Chu Đức Kiệt chỉ mỉm cười không nói gì.
Nhìn anh, Lam Y hỏi :
– Cảnh này không đẹp ý hiền huynh sao mà cười?
Chu Đức Kiệt cười vang :
– Giấc mộng có lẽ đúng thật! Con người chất võ, hồn thơ!
– Trình độ võ nghệ của hiền muội như vậy thiết tưởng khó gặp
được một trang nam tử khả dĩ lọt nổi mắt xanh. Họa chăng phải là một nhà thơ tánh tình khoáng đạt, phong tú tiêu sái, thông việc cổ kim, ngày
ngày chồng ngâm thơ vịnh phú, Chà! Cuộc sống êm đềm hào hiệp của đôi
trai gái tài sắc vẹn toàn đẹp đẽ là dường nào!
Nghe Chu Đức Kiệt nói một thôi dài Lam Y cũng phì cười :
– Văn nhân hào hoa phong nhã vị tất đã so sánh nổi cùng hiền
huynh, lúc tao mặc thì chẳng ai bằng, mà khi xung phong vùng vẫy thì có
kém chi giao long quẫy khúc?
– Nếu ngu muội lấy chồng, người chồng ấy ít nhất phải được như
hiền huynh… Nhưng không! Điều mà ngu muội ước mong hơn cả là có đứa
cháu kháu khỉnh mang họ Chu, nối chí được Cha và Cô nó sau này. Có vậy
mới toại nguyện. Cho nên đã nhiều lần muốn hỏi qua loa hiền huynh về vấn đề hôn nhân… Hôn nhân là vấn đề bất khả ép. Hữu duyên thiên lý ngộ,
nói thế nào trước được! Trên thế gian này có được mấy người phụ nữ kham
nổi cuộc đời Giang Hồ Du Hiệp, cùng ngu huynh kết bạn và cùng anh em ta
vung lưỡi kiếm phong trần hồ hải?
Lam Y phản đối :
– Có chứ! Theo ngu ý thì đã thấy một người…
– Ai đó vậy?
– Hiền huynh bất tất phải hỏi, việc nó tới sẽ tới. Hữu duyên thiên lý ngộ mà!…
Nàng ranh mãnh nhìn anh cười Hai anh em rong ruổi tới khi đã đứng bóng thì ở xa xa phía trước mặt có một cây cao lớn rườm rà.
Cầm roi ngựa chỉ, Lam Y nói :
– Có lẽ cây đa cổ thụ nơi trồng trụ đá kia kìa! Ta thúc ngựa chạy mau tới đó xem.
Lát sau đã tới nơi.
Bia đá cao bằng đầu người, khắc ba chữ triện “Cầm Thảo Khấu” rất vuông vắn rõ ràng.
Cây đa lớn hàng mấy chục ôm, rễ mọc xù sề, bóng lá che khuất hẳn một vùng rộng lớn.
Một đoàn trên một trăm người ngựa, thồ đầy hàng hóa, nán lại đó nghỉ, ăn bữa trưa.
Mấy người ra dáng khách thương cùng với bốn người nữa, vận võ
phục màu vàng khè, võ trang chặt chẽ đang giải tấm vải dầu lớn ra trên
mặt đất, hạ mấy thứ lễ vật vừa chay vừa mặn bày trước bia đá xuống sửa
soạn đánh chén.
Mấy món võ khí trường để dựa cả vào gốc rễ đa gần đó.
Bọn người thấy anh em Chu gia từ xa tới thì chú ý ngưỡng đầu nhìn…
Lam Y nói với Chu Đức Kiệt :
– Bọn tiêu sư này vận đồng phục đồng sắc với màu cây cờ hiệu cắm ở thồ ngựa đầu đoàn kia kìa, hiền huynh coi!
– Ờ, chắc bọn này từ Kim Lăng qua đây đi Dương Châu. Bảo tiêu
cục nào đó lấy màu vàng để diễn tả chữ Kim, phải không? Coi nào, chữ gì
treo trên lá cờ hiệu kia… À, chữ Vân.
– Họ chăm chú nhìn ta quá!
– Lẽ cố nhiên rồi. Nhìn vì trên đường gặp khách lạ ngược chiều.
Nhìn vì anh em ta có cặp tuấn mã khỏe mạnh lại võ trang, nghi ngờ biết
đâu chúng ta không phải tay Hướng Mã. Nhìn vì thiếu nữ xinh đẹp gì mà
lại kềm kiềm đeo cây trường kiếm gớm khiếp ở sau lưng…
Lam Y lẳng lặng mỉm cười. Anh em Chu gia xuống ngựa buộc cương
vào chiếc rễ đa nhỏ. Lam Y rút bao hương ở bọc hành lý ra đánh lửa thắp
lên cắm cả vào bát hương lớn đã đầy hương cháy dở, khói nghi ngút tỏa
theo hướng gió nhẹ. Hai anh em đứng thẳng người trước bia đá cúi đầu lễ
ba lễ. Lúc xoay lưng trở lại thì đã thấy các tiêu sư và mấy khách thương đứng cả gần đó cúi đầu chào rất lễ độ.
Hai người đáp lễ. Một tiêu sư râu quai nón, đeo cây thiết cương tiên, tiến lên mấy bước nói :
– Chúng ta là khách qua đường cả, nếu không nệ hà, xin mời nhị vị dùng bữa đã bày sẵn cho vui.
Chu Đức Kiệt vui vẻ nhận lời ngay. Chàng tự giới thiệu :
– Anh em tôi họ Chu, người Bình Dương huyện bên Sơn Đông…
Liếc nhìn cây đơn đao cán nhô ra trên vai Chu Đức Kiệt, vị tiêu sư tươi hẳn nét mặt nói :
– A! Có phải Chu Đơn Đao, lệnh lang của cố tiêu sư Chu Đức Ván nổi danh đất Bắc với đường đao gia truyền vô địch đó không?
Chu Đức Kiệt khiêm tốn, chỉ Lam Y đáp :
– Túc hạ quá khen! Gia muội Tú Anh đây. Làm sao túc hạ biết gốc tích anh em tôi?
Người đó hớn hở nói :
– Hữu nhãn vô châu tôi quả đắc tội muôn ngàn. Lam Y nữ hiệp đây phải không? Đứng trước Thái Sơn mà không biết.
Tiêu sư đó vái Lam Y. Nàng nghiêm chỉnh đáp lễ.
Tiêu sư nói tiếp :
– … Hiệp danh của nhị vị vang lừng thiên hạ, làm chi chúng tôi trong nghề bảo tiêu mà không biết cho được! Hơn nữa, còn một điều này
nhị vị không ngờ tới. Tôi họ Vân tên Báo, em của gia huynh hiện làm giáo đầu ở Bình Dương huyện Vân Bưu tước hiệu Trại Dực Đức đó.
Chu Đức Kiệt vui vẻ :
– Thiệt không ngờ. Thế ra là anh em nhà cả. Trước đây, trong
những lúc gặp nhau hàn huyên chè chén, Vân giáo đầu thường nói có một
bào đệ hành nghề tiêu sư ở Hoa Nam, ngờ đâu lại gặp đại ca ở nơi đây.
Vân Báo mừng rỡ gọi mấy tiêu sư khác đến giới thiệu từng người một :
– Đây là các tiêu sư giúp việc trong bản tiêu cục ở Kim Lăng,
Tiêu Tấn tước hiệu Kim Đạn Tử, chuyên bắn đạn bách phát bách trúng. Hứa
Thần Lang, hiệu Kim Sang Tướng, sử dụng cây sang rất tài tình. Còn đây
là Hoàng Đầu Sư Tử , Lưu Quới Nguyên, thiện dụng lang nha bổng, gan dạ
vô cùng.
Vân Báo nói với các tiểu sư :
– Nhị vị đây là hai nhân vật hữu danh trong giới Giang Hồ Kiếm
Khách mà đã có lần tôi kể chuyện cho các hiền đệ nghe rồi. Sơn Đông Chu
Đơn Đao và Lam Y nữ hiệp đó.
Các tiêu sư đều giật mình không ngờ lại được diện kiến hai nhân
vật vẫn từng nghe danh. Họ chú ý nhìn tướng mạo phi phàm, cảm phục ra
mặt dáng điệu anh hùng cân quắc của hai người.
Vân Báo nói :
– Nào xin mời nhị vị dùng bữa ăn nguội với chúng tôi.
Mọi người đều xúm vào ăn ăn uống uống rất vui vẻ.
Rượu mạnh ấm lòng, thịt gà, vịt quay kèm xôi nếp đỡ đói, bữa ăn giữa trời tuy võ biền nhưng thân mật ấm cúng vô cùng.
Vân Báo hỏi Chu Đức Kiệt :
– Nhị vị từ đâu qua đây?
– Từ Trấn giang lên Dương Châu, bây giờ đi Kim Lăng.
– Lúc ở Dương Châu, đại ca có nghe thấy chuyện gì về Kim Cương tự không?
– Không. Có chi lạ vậy?
Nghe đồn các đầu đà trong chùa ấy bị một bọn kiếm khách đến hạ
sát hết, trừ ra có một tên thoát khỏi. Vụ này hậu quả lớn lao vì ở Kim
Lãng ai cũng biết các hòa thượng Kim Cương tự là người thân tín của một
vị Vương gia rất thế lực hiện thời. Chuyến này sang Dương Châu, tôi có ý dò la tin tức đó xem thiệt hư thế nào.
Lam Y nói :
– Riêng phần anh em tôi nghe nói bên Kim Lăng sắp có cuộc thi kỵ mã rất hào hứng nên sang đó xem cuộc thi và viếng đô thị luôn thể.
Vân Báo lắc đầu chép miệng :
– Gay go thì có gay go nhưng có một điều…
– … Điều chi?
– Chẳng tránh được thịt nát máu rơi.
– Ủa! Thi kỵ mã mà sao lại có thịt đổ máu rơi?
– Nói ra không hết được. Nữ hiệp sẽ mục kích việc tôi nói trên đấu trường.
Chu Đức Kiệt nói :
– Ở Dương Châu, nếu đại ca có thì giờ nên tìm đến Tào gia trang
kết giao cùng Thiên Lý Mã Tào Chí. Đó là một nhân vật đáng thâm giao.
Luôn thể, anh em tôi có lời hỏi thăm.
– Chu đại ca dạy như vậy tôi rất vui lòng. Quảng giao bao nhiêu
có lợi cho bọn tôi bấy nhiêu. Phiêu cuộc của tôi ở An Hà lộ bên Kim
Lăng, đại ca có dịp quá bộ qua chơi cho tôi thu xếp lên đường.
Vân Báo chờ anh em Chu gia lên ngựa đi khuất nẻo đường mới ra lệnh cho đoàn ngựa tiến bước chỉ nẻo Dương Châu.
Xế chiều hôm ấy, anh em họ Chu đi tới một nơi có ngọn núi khá
cao, chân núi là rừng cây rậm rạp. Thế núi in hẳn trên dòm trời, như
hình con ngựa đang lặn mình trên cỏ biếc.
Lam Y chỉ tay :
– Hiền huynh coi kìa, Mã Thạch cương.
Một dòng suối lớn róc rách chảy, phát xuất từ chân núi, vòng vèo như con rắn bạc khổng lồ bò ra sát bên đường đi. Hai bên bờ suối cỏ dại hoa ngàn màu tím phớt, hồng ngả bóng soi lên trên mặt nước trong veo.
Mấy chú tiều còng lưng dưới bó củi nặng đi hàng một bên đường,
nghe tiếng vó ngựa lộp cộp dằn trên đất đá, củng cố quay đầu lại nhìn
xem người kỵ mã là ai.
Lam Y hỏi :
– Bớ chú tiều, đây có phải là Mã Thạch cương không? Chúng tôi muốn kiếm quán trọ làm ơn chi giúp.
Mấy chú tiểu không ai bảo ai cùng chỉ tay lên ngọn núi :
– Mã Thạch sơn đây. Gần đây, phía này là Quan gia bảo, có tửu quán.
Lam Y cảm ơn thúc ngựa cùng Chu Đức Kiệt tiến nhanh, vượt qua
bọn tiều phu, vòng theo chân núi sang tay tả. Giây lát đi tới một cổng
trang, mái lá, rào hoa, anh em Chu gia thấy một mãnh hán mặt đỏ như gấc, mày ngài xếch ngược, râu ba chòm đen lánh dài tới bụng, cổ lớn, vai to. Chàng ta vận chiếc áo bào màu lục, chân vận ủng võ.
Giật mình, Lam Y nhìn Chu Đức Kiệt nói nhỏ :
– Kìa, Hán Thọ Đình Hầu.
Chu Đức Kiệt nghiêm nét mặt :
– Chúng ta thức chớ có mê đâu! Nhưng kỳ thật! Cháu mà sao từ nét mặt đến khổ người y hệt tổ tiên. Chắc là Kim Đao Quan Long đây…
Mãnh hán mặt đỏ cũng nhìn trừng trừng anh em Chu, tới lúc hai người đi qua trước mặt, bèn chắp tay vái dài :
– Kính mời nhị vị nán lại tệ trang. Trời gần tối rồi…
Đang toan tính làm quen, bỗng được lời mời, Chu Đức Kiệt cả mừng, cùng Lam Y xuống ngựa vái chào đáp lễ :
– Anh em tôi đang tính xin vào bái yết, không ngờ lại gặp Quan
anh hùng đứng hóng mát ngoài cổng trang, thiệt là may mắn vô cùng.
Mãnh hán ngạc nhiên :
– Ủa! Nhị vị Chu đại hiệp biết tiện danh sao? Tôi cốt ý đứng đón nhị vị chớ không phải hóng mát. Đêm qua, tổ phụ tôi báo mộng, vào giờ
này sẽ có nhị vị Chu hiệp đi qua, dạy phải mời về nhà để kết giao. Bởi
vậy, mới được biết tôn tính đại danh.
– Chúng tôi cũng vậy, đêm qua mộng thấy lệnh tổ phụ dẫn đường cho biết Mã Thạch cương để vào kiến anh hùng.
Quan Long cười ha hả :
– Chúng ta là con nhà võ, nhất kiến vi thâm giao, chẳng nên câu
nêu trong sự xưng hô. Ta nên theo thứ tự của tuổi tác mà gọi nhau bằng
anh em. Năm nay tôi ba mươi chẵn.
Chu Đức Kiệt vui vẻ nói :
– … Tôi ba mươi hai, còn gia muội nhỏ tuổi hơn cả.
– Thế thì cho phép tôi kêu bằng Chu đại ca và Chu muội có được không?
– Sao lại không! Quan hiền đệ dạy chí phải.
Quan Long vỗ tay gọi gia nhân ra dắt ngựa vào tầu, và mời anh em Chu gia vào trong trang, lên thảo sảnh. Thảo sảnh rộng rãi, phía trong
cùng, ngay chính giữa, một bức họa vẽ hình Quan Vân Trường đọc thư, có
Quan Bình, Chu Xương đứng hai bên, hình lớn bằng người thật, nét bút rất linh động. Bức họa đó treo ngang trên tường, sau chiếc án thờ rộng lớn
bày trong vòng chạm trổ vàng son chói lọi. Trên án thờ bày một lư hương
bằng đồng đen.
Cây Thanh long yển nguyệt đao, lưỡi đao bọc trong vải xanh, cắm
trong giá kê bên án thờ. Anh em Chu gia tiến đến trước bàn thờ lẩm nhẩm
khấn vái hồi lâu rồi mới ra khách sảnh phân ngôi chủ khách cùng ngồi.
Quan Long nói :
– Tôi đã dành sẵn một căn phòng ở hậu đường, vậy xin mời đại ca
và Chu muội vào thay y phục sửa soạn gọn ghẽ rồi ta sẽ hàn huyên, như
vậy có lẽ dễ chịu hơn.
Chu Đức Kiệt và Lam Y cảm ơn, vác khăn gói theo Quan Long vào trong nhà.
Chỉ hai căn phòng bày biện trang nhã, Quan Long nói :
– Nhị vị cứ tùy tiện như ở nhà. Lát nữa tiện nội sẽ ra mắt.
Nói đoạn chàng đi ra.
Lam Y bảo Chu Đức Kiệt :
– Nếu gặp Quan đại ca cỡi ngựa cầm đao ở giữa đường, chắc chắn ngu muội tưởng là Hán Thọ Đinh Hầu hiển thánh đó!
– Ờ, giống thật, càng nhìn càng thấy y hệt người trong bức
tranh. Hai căn phòng liền vách, có cửa sổ xây cuốn trông ra hoa viên
trồng đầy hoa thơm, cỏ lạ. Sửa soạn xong, hai người trở ra đại sảnh thì
đã thấy Quan Long đang ngồi dựa án thư đọc sách.
Quan Long bảo thị nữ :
– Vào mời phu nhân ra đây!
Lát sau, một thiếu phụ trạc hai mươi lăm, hai mươi sáu nét mặt thùy mị, dắt một tiểu nhi lối năm tuổi, dịu dàng bước ra.
Quan Long chỉ anh em họ Chu, bảo vợ :
– Đây là nhị vị Chu đại hiệp mà Tổ phụ báo trong giấc mộng đêm qua. Và đây là tiện nội và gia nhị Quan Hổ.
Thi lễ xong, bốn người cùng ngồi nói chuyện. Quan phu nhân thấy
anh em Chu gia phong thái khác thường, cử chỉ anh hùng, đĩnh đạc, thì
rất khâm phục, mừng thầm chồng mình có thêm mối hảo giao.
Lam Y bế Quân Hổ đặt ngồi lên đùi rồi nói chuyện với Quan phu nhân.
Chu Đức Kiệt hỏi :
– Quan hiền đệ ở khu Mã Thạch cương này lâu chưa?
– Đã chín đời nay rồi, kể từ đời tổ phụ tôi là Quan Thắng cùng
các vị anh hùng trên Lương Sơn Bạc được triều đình chiêu an. Theo việc
triều chính ít lâu, tổ phụ tôi từ quan đi ngao du.
Khi qua Mã Thạch cương này, thấy cảnh trí u nhã vừa mắt nên
người xây dựng khu Quan gia bảo mướn người trồng trọt, chăn nuôi phá rẩy làm nương.
Lần hồi những người ấy lập gia đình sanh nở mỗi lúc một nhiều,
hết đời nọ sang đời kia. Ngày nay, tại Quan gia bảo có tới trên một ngàn nhân số, sanh cơ lập nghiệp tại chỗ lập nên các tiệm buôn bán, tửu lầu, họp chợ đủ cả.
Các đoàn khách thương qua đây thường nán lại nghỉ ngơi hoặc buôn bán hàng hóa, hoặc mua mấy thứ thổ sảng đem đi. Bởi vậy sơn dã này cũng có phần tấp nập.
Đại ca và Chu muội hãy ở lại đây ít bữa cho tôi được thỏa tình thừa tiếp…
Chu Đức Kiệt đáp :
– Ngu huynh đi Kim Lãng xem cuộc đua kỵ mã có hẹn với nhiều người quen lắm. Cần đi cho kịp hạn kỳ.
– Đúng ngày rầm tháng ba mới khai hội, từ Mã Thạch cương đến Kim Lăng chỉ còn bốn ngày đường, vậy đại ca có thể nán lại tệ trang vài
bữa.
– Hiền đệ không đi Kim Lăng xem hội sao?
– Tiểu đệ biết mặt trái của những kỳ hội do Thuận Vương tổ chức
rồi. Gian vương nhằm mục đích sát hại những ai đương đầu với y. Chứng ta là hạng người có tâm can không chịu khuất tất, trông thấy vậy thêm tức, chi bằng không đi là hơn. Gian vương đã nhiều lần cho người về đây dụ
dỗ tiểu đệ. Lần nào cũng bị chối từ nên y có ý khó chịu. Nếu y cho người đến đây kiếm chuyện, tiểu đệ định tâm sẽ cho chúng một bài học xử thế.
– Tài ba thao lược như hiền đệ không ra giúp triều đình, mai một ở nơi sơn dã này há chẳng phí công học tập hay sao?
– Tiểu đệ cân nhắc kỹ lắm rồi. Vĩnh Lạc hoàng đế nhân từ hiền
hậu, nhưng nhu nhược thành thử chiều lúc gần như bất công, thà rằng ẩn
náu nơi nương lúa vườn rau này còn hơn là xuất thân để mua lấy sự tức
bực!…
Chu Đức Kiệt gật đầu :
– Hiền đệ suy luận chí phải. Nhiều vị anh hùng hiện cũng đợi thời, chờ dịp thuận tiện ra giúp nước…
– Nghĩ đến thân thế lắm khi quả cũng thấy buồn!…
Chỉ Thanh Long đao yển nguyệt cắm trên đá, Quan Long nói tiếp :
– Thanh đao kia đã bao đời nay giúp cha, ông nhà họ Quan lập nên không biết bao nhiêu là công lao hản mã, mà bao năm nay chịu đứng gọn
trong đã kể đáng bực thiệt.
Chu Đức Kiệt hỏi :
– Thanh Long đao ấy từ đời nào?
– Từ Hậu Hán truyền lại. Vẫn còn tốt nguyên.
Nói đoạn Quan Long bước lại đã lấy đao bỏ bao ra đưa cho Chu Đức Kiệt coi.
Đón lấy cây đao, Chu Đức Kiệt thấy cầm rất vừa tay, lưỡi đao sáng loáng như nước, khen ngợi :
– Ngờ đâu ngu huynh được cầm cây long đao của viên danh tướng cầm đầu Ngũ hổ đất Ba Thục bao giờ!
Chu Đức Kiệt đưa đao cho Lam Y coi hồi lâu trả lại cho Quan Long. Gia nhân đã bày xong bữa tối, mời bốn người vào ăn.
Sáng hôm sau, Quan Long mời anh em Chu gia đi xem trong trang.
Nhà cửa bếp nọ, nếp kia rất gọn gàng sạch sẽ. Quan Long sai gia nhân
thắng ngựa để mời họ Chu đi vòng quanh khu Mã Thạch cương và Quan gia
bảo. Thấy con tuấn mã của Quan Long cao lớn ra dáng ngựa trận, màu đỏ
tuyền, bờm đen mà dài. Chu Đức Kiệt hỏi :
– Con ngựa này màu sắc chẳng khác chi Xích Thố tả trong sách, chẳng hay có được khỏe bằng không?
Quan Long vỗ vào cổ ngựa :
– Không biết có khỏe bằng ngựa của Hán Thọ Đinh Hầu không, nhưng ngu đệ đã thử cưỡi nó hàng ngày mà không biết mệt. Đại ca coi đây, vó
cất cao và nhẹ lắm.
Nói đoạn, Quan Long nhảy lên mình ngựa, tay buông lơi dây cương :
– Xích Thố! Đi ta coi!
Như hiểu lời chủ, Xích Thố đi vòng quanh sân, đầu cất, ức dồ, hai vó trước cất cao mà chẳng coi thiệt kiêu hùng.
Quan Long khẽ vỗ tay vào cổ ngựa :
– Phi mau!
Xích Thố phi nước kiệu lẹ như tên bắn êm ru.
Lam Y vỗ tay khen :
– Con tân Xích Thố này hay quá, Quan đại huynh mua được ở đâu?
– Ngu huynh vào tận Tây Xuyên mới mua được con ngựa này. Nó vốn
là ngựa rừng… nhưng lát nữa kể chuyện cũng được. Bây giờ mời đại ca và hiền muội lên ngựa đi xem phong cảnh Mã Thạch cương và Quan gia bảo đã.
Anh em Chu gia lên ngựa, Chu Đức Kiệt đi giữa cùng rong ngựa đi hàng ba ra khỏi cổng trang.
Quan Long nói :
– Hai con Ô Mã và Bạch Tuyết này cũng hay lắm đấy! Giống ngựa Bắc Sơn Đông còn có khi mạnh hơn ngựa Tây Xuyên.
Quan Long dẫn anh em họ Chu đi vòng khắp mọi nơi. Phong cảnh tuyệt đẹp.
Chu Đức Kiệt nói :
– Quan hiền đệ ở đây thật riêng một mình san hà, độc lập và an nhàn, chẳng còn ai dám tới quấy nhiễu nữa!.
Những người gặp trên đường thấy Quan Long đều cung kính vái chào.
Khu Quan gia bảo rất rộng lớn, nhà cửa xây toàn bằng gạch, đường lối vuông vắn khang trang. Tới một khu trồng nhiều cây đề xanh tốt,
Quan Long chỉ lá chiêu bài đề Mã Thạch Quán.
– Anh em ta vào đây uống nước đã.
Chủ quán là Chúc Đạt đến định cư ở đây cũng đã được ba đời rồi. Y có nghề cất rượu tuyệt ngon. Toàn thể khu này ai cũng nghiền rượu do y
cất nên đặt thành tên “Chúc gia tửu” mà Chúc Đạt thì có tước hiệu là Tửu Đại Vương.
Thấy Quan Long cùng hai người khách lạ đẹp ngồn ngộn như đôi hạt trắng tới quán mình, Chúc Đạt từ trong quán chạy ra vái dài chào hỏi
rất đỗi niềm nở :
– Kính mời nhị vị quan nhân và tiểu thơ vào nghỉ chân.
(Thời đó dùng hai chữ Quan Nhân để tỏ ý kính trọng một người
giàu có, hay thế lực trong vùng, chớ không cứ gì làm quan mới có danh từ ấy).
Quan Long vỗ vai Chúc Đạt :
– Tôi bận việc nhà, ít qua thăm, chẳng hay tiên sinh có phát tài không?
– Dạ buôn bán cũng nhĩ nhẵng đủ ăn. Nhị vị đây là khách viễn phương.
Quan Long gật đầu :
– Phải, nhị vị đây từ Hoa Bắc… Có chi nhậu tối không?
– Dạ có thịt heo rừng mới bẫy được đêm qua.
– Lấy ba hồ rượu hảo hạng và vài món ăn chơi.
Lam Y nói :
– Chúc tiên sinh cho hai hồ thôi, tôi uống chung với gia huynh được rồi.
Chúc Đạt vâng dạ quay vào, lát sau tiểu nhị đem rượu và mấy món nhắm ra khói bay nghi ngút, mùi thơm dễ chịu.
Quan Long nâng Lam Y rượu mời.
Lam Y nóng ruột hỏi :
– Việc bắt tân Xích Thố ra sao, Quan đại huynh kể cho chúng tôi nghe với nào.
Quan Long uống một hơi cạn ly rượu, khà một tiếng :
– Rượu thơm quá!… Vâng, tôi xin kể. Việc đó cách đây bốn năm rồi…