Kafka bên bờ biển

Chương 43-44


Bạn đang đọc Kafka bên bờ biển: Chương 43-44


Chương 43
Trút hết hành trang, giờ tôi có thể nhẹ bước dấn sâu thêm vào rừng. Tôi tập trung hoàn toàn vào việc tiến lên phía trước. Không cần phải đánh dấu cây nữa. Không cần phải nhớ đường về. Thậm chí tôi cũng không ngó nhìn xung quanh. Quang cảnh vẫn thế thôi, nhìn ngắm mà làm gì? Một vòm cây cao vút bên trên những bụi dương xỉ rậm rạp, dây lòng thòng, rễ cây nham nhở, những đám lá mục rữa, những vot lột đã khô của nhiều loại côn trùng khác nhau… Những mạng nhện dày, dính nháp. Và cơ man nào là cành – cả một vũ trụ cành cây! Những cành hung tợn, những cành kiên cường chiến đấu giành không gian, những cành khôn khéo giấu mình, những cành cong queo, vẹo vọ, những cành trầm ngâm, những cành héo khô, ngắc ngoải – vẫn cánh cảnh ấy lặp đi lặp lại hoài. Tuy rằng mỗi lần lặp lại như thế, rừng lại sâu thêm một chút.
Miệng mím chặt, tôi tiếp tục theo cái gọi là con đường mòn ấy. Nó đi ngược lên nhưng không dốc lắm, ít nhất là cho đến lúc này. Không đến mức làm tôi thở không ra hơi. Đôi chỗ, con đường mòn đe doạ mất hút trong một biển dương xỉ hoặc bụi gai, nhưng đi một quãng nữa, nó lại hiện ra. Rừng không làm tôi sợ nữa. Nó có những khuôn mẫu và quy tắc riêng của nó, và một khi hết sợ nó, ta sẽ hiểu những khuôn mẫu và quy tắc đó. Một khi đã nắm được quang cảnh lặp đi lặp lại này, tôi biến nó thành một bộ phận của mình.
Giờ đây, tôi đi không. Tôi đã thải chiếc bình xịt sơn vàng, chiếc rìu nhỏ vào lịch sử. Chiếc balô cũng thế. Không bi-đông, không lương thực. Thậm chí không cả la bàn. Tôi lần lượt bỏ lại tất cả. Làm như thế, tôi gửi đến rừng một thông điệp: Ta không sợ nữa. Vì thế ta chọn phương án hoàn toàn đơn độc không có gì bảo vệ. Trút bỏ lớp vỏ cứng, chỉ còn da thịt và xương tôi hướng đến cái lõi của mê cung này, buông mình vào trống rỗng.
Khúc nhạc ban nãy vang trong đầu tôi, giờ đã tắt, để lại thoáng dư âm màu trắng tựa như một tấm drap trắng phẳng phiu căng trên một chiếc giường mênh mông. Tôi sờ tấm drap ấy, lấy đầu ngón tay vuốt ve nó. Màu trắng tiếp tục đến vô tận. Mồ hôi đọng từng giọt ở nách tôi. Thi thoảng, qua những ngọn cây, tôi thấy một mảng trời phủ một lớp mây xám liền mạch không dứt, nhưng xem ra chưa phải là sắp mưa. Mây tĩnh, toàn cảnh không thay đổi. Chim chóc trên những cành cao the thé gọi nhau bằng những tín hiệu ẩn chứa những ý nghĩa bí hiểm. Tiếng côn trùng vo ve trong đám cỏ vang lên như những lời tiên tri của một dàn hợp xướng cổ đại.
Tôi nghĩ đến ngôi nha chúng tôi ở Nakano, giờ đây chắc đóng kín, không người ở. Với tôi, thế cũng chả sao. Cứ để những vệt máu loang trên sàn nhà. Tôi bất cần. Tôi sẽ chẳng bao giờ trở lại đó nữa. Ngay cả trước khi xảy ra sự kiện đẫm máu ấy, nhiều thứ đã chết đi trong ngôi nhà đó. Nói cho đúng hơn, – đã bị giết trong ngôi nhà đó.
Đôi khi, rừng tìm cách đe dọa tôi, lúc từ trên đầu, lúc từ dưới chân. Phà một luồng khí lạnh buốt vào gáy tôi, châm chích nhoi nhói như những mũi kim ngàn mắt. Tìm mọi cách để trục xuất kẻ đột nhập là tôi đây. Nhưng tôi dần dần biết cách tỉnh bơ để cho những đe dọa ấy qua đi. Về cơ bản, khu rừng này là một bộ phận của tôi, chẳng phải thế sao? Đến một lúc nào đó, cách nghĩ đó trụ vững. Tôi đang làm cuộc hành trình bên trong tôi. Giống như máu chảy trong huyết quản, những gì tôi nhìn thấy là nội tâm mình, và những gì có vẻ đe dọchính là tiếng vang của nỗi sợ trong tim tôi. Cái mạng nhện giăng căng như dây đàn kia là mạng nhện ở trong tôi. Lũ chim gọi nhau trên kia là lũ chim tôi đã nuôi trong tâm trí. Những hình ảnh đó nảy ra trong óc tôi và bắt rễ trong đó.
Như thể bị nhịp đập của một trái tim khổng lồ đẩy từ phía sau, tôi tiếp tục xuyên rừng. Con đường dẫn đến một nơi đặc biệt, một nguồn sáng nhả ra bóng tối, nơi xuất phát của những tiếng vang im lặng. Tôi cần phải tận mắt nhìn thấy có cái gì ở đó. Tôi đang mang một bức thư riêng quan trọng, niêm phong kín, một thông điệp bí ẩn cho chính tôi.
Một câu hỏi. Tại sao bà không yêu tôi? Tôi không xứng đáng được mẹ tôi yêu sao?
Bao năm rồi, câu hỏi ấy là một ngọn lửa trắng thiêu đốt tim tôi, ăn mòn tâm hồn tôi. Ắt phải có một sai trái cơ bản nào đó nơi tôi mới khiến mẹ tôi không yêu tôi. Phải chăng lọt lòng, tâm hồn tôi đã bị ô nhiễm? Phải chăng tôi sinh ra đã vậy, khiến mọi người đều phải ngoảnh mặt đi?
Mẹ tôi thậm chí không ôm tôi trước khi ra đi. Bà ngoảnh mặt đi và rời khỏi nhà cùng với chị gái tôi, không nói nửa lời. Bà biến mất như một làn khói câm lặng. Và giờ đây, gương mặt ấy đã biệt tăm mãi mãi.
Lũ chim lại choe chóe trên đầu tôi và tôi ngước lên nhìn bầu trời. Chẳng có gì trên ấy, ngoài lớp mây xám phẳng lì, vô cảm. Không một gợn gió. Tôi lầm lũi tiến. Tôi đang bước đi bên bờ ý thức. Những đợt sóng ý thức cuồn cuộn xô vào rút ra, để lại mấy dòng chữ cũng nhanh như thế, những đợt sóng mới xô vào, xóa đi hết. Tôi cố đọc thật nhanh những chữ đó giữa hai đợt sóng, nhưng thật là khó. Chưa kịp đọc hết thì đợt sóng tiếp theo đã ập vào cuốn sạch bong. Chỉ còn lại những mảnh vụn bí hiểm.
Tâm trí tôi lang bang trở về cái này mẹ tôi ra đi, mang theo chị gáiôi. Tôi đang ngồi ngoài hiên, đăm đăm nhìn ra vườn. Lúc đó là hoàng hôn, đầu mùa hè, bóng cây đổ dài. Chỉ có mình tôi trong nhà. Tôi không hiểu tại sao, nhưng tôi đã biết mình bị bỏ rơi. Ngay vào thời điểm đó, tôi đã hiểu chuyện này sẽ làm thay đổi thế giới của tôi mãi mãi. Không ai mách bảo tôi – đơn giản là tôi biết thế. Ngôi nhà trống không, vắng ngắt, một cái đồn biên phòng heo hút bị bỏ mặc. Tôi nhìn mặt trời lặn ở đằng Tây, những cái bóng từ từ lan khắp bao trùm thế giới. Trong cõi thời gian, chẳng có gì quay trở lại được. Những cái vòi của bóng tối cứ tiến dần, gặm mòn mặt đất, hết điểm này đến điểm khác, cho đến khi gương mặt mẹ tôi – mới rồi còn ở đó – bị nuốt chửng vào cái vùng tối tăm lạnh lẽo ấy. Gương mặt đanh lại ấy ngoảnh đi không nhìn tôi, tự động bứt khỏi và xóa nhòa trong trí nhớ của tôi.
Lúc này, tôi vừa dấn bước vừa nghĩ đến Miss Saeki. Đến gương mặt bà. Nụ cười điềm đạm và mơ hồ, hơi ấm của bàn tay bà. Tôi thử tưởng tượng bà là người mẹ đã bỏ tôi lại khi tôi mới bốn tuổi đầu. Bất giác tôi lắc đầu. Một hình ảnh hoàn toàn trật lấc. Làm sao Miss Saeki có thể làm thế được? Tại sao bà lại phải làm tôi tổn thương, lại phải hủy hoại tôi như vậy? Ắt phải có một lý do tàng ẩn quan trọng, một cái gì sâu kín mà tôi không hiểu nổi.
Tôi ráng đặt mình vào địa vị bà để cảm thấy những gì bà cảm thấy lúc đó và đến gần quan điểm của bà hơn. Điều đó không dễ. Xét cho cùng, tôi là đứa bị bỏ rơi, còn bà là người bỏ rơi tôi. Nhưng được một lúc, tôi xoay ra tự tách mình khỏi bản thân. Hồn tôi trút bỏ y phục cứng nhắc của bản ngã và biến thành một con quạ đen vắt vẻo trên một cành cao của một cây thông trong vườn, nhìn xuống thằng bé bốn tuổi ngồi trước hiên nhà.
Tôi hóa thân thành một con quạ đen sính lý thuyết dông dài.
“Không phải là mẹ cậu không yêu c thằng cu tên là Quạ đi đằng sau tôi nói. “Mẹ cậu yêu cậu vô cùng. Trước hết, cậu phải tin là thế. Đó là điểm xuất phát của cậu.”
“Nhưng mà bà ấy đã bỏ tớ. Bà ấy biến mất, bỏ lại tớ một mình ở một nơi hoàn toàn xa lạ với tớ. Cuối cùng, tớ bắt đầu hiểu ra điều đó đau đớn biết chừng nào. Làm sao bà ấy có thể làm thế nếu bà ấy thực sự yêu tớ?”
“Thực tế là như vậy. Chuyện đó quả đã xảy ra,” cái thằng tên Quạ nói. “Cậu đã bị tổn thương nặng nề và sẽ mang những vết sẹo ấy suốt đời. Tớ ái ngại cho cậu, thực tình vậy. Nhưng hãy nghĩ như thế này: chưa quá muộn để bình phục lại. Cậu còn trẻ và cậu kiên cường. Cậu có khả năng thích nghi với hoàn cảnh. Cậu có thể băng bó những vết thương, ngẩng cao đầu mà tiến tới. Nhưng bà ấy thì không thể làm thế được. Bà chỉ còn nước là tiêu đời thôi. Dù ai đó có phán xét điều đó là tốt hay xấu, cũng không quan trọng – đó không phải là vấn đề. Cậu mới là kẻ có lợi thế. Cậu phải cân nhắc điều đó.”
Tôi không trả lời.
“Tất cả những điều đó đã thực sự xảy ra, vậy nên cậu không thể xóa bỏ được,” Quạ nói. “Lẽ ra bà ấy không nên bỏ cậu lại và lẽ ra cậu không nên bị bỏ lại. Nhưng những chuyện trong quá khứ cứ như một cái đĩa bị đập tan tành. Cậu không tài nào chắp lại như cũ được, phải không nào?”
Tôi gật đầu. Cậu không tài nào chắp lại như cũ được. Nó nói trúng phóc.
“Mẹ cậu,” cái thằng tên là Quạ nói tiếp, “cảm thấy một nỗi giận dữ và sợ hãi đến quặn ruột. Y như cậu lúc này đây. Chính vì thế mà bà ấy đành phải bỏ cậu
“Mặc dù bà ấy yêu tớ?”
“Mặc dù bà ấy yêu ậu, bà ấy vẫn phải bỏ cậu lại. Cậu cần phải hiểu tình cảm của bà ấy lúc đó như thế nào và chấp nhận hành xử của bà. Hiểu nỗi sợ hãi và giận dữ choán ngợp ấy và cảm nhận nó như của chính mình để rồi sẽ không thừa kế nó và lặp lại nó. Điều chủ yếu là thế này: cậu phải tha thứ cho bà ấy. Điều đó sẽ không dễ dàng, tớ biết, nhưng cậu phải làm thế. Đó là chiếc phao cứu sinh duy nhất của cậu. Chẳng có cách nào khác đâu!”
Tôi ngẫm nghĩ về những gì nó nói. Càng nghĩ càng thấy rối trí. Đầu tôi quay cuồng và tôi cảm thấy như da thịt bị xé toạc.
“Liệu Miss Saeki có phải là mẹ tớ không nhỉ?” tôi hỏi.
“Bà ấy chẳng đã nói với cậu rằng về lý thuyết thì vẫn có thể là thế sao?” thằng cu tên là Quạ nói. “Vậy thì xin trả lời: đó là một giả thuyết khả dĩ. Tớ chỉ có thể nói với cậu vậy thôi.”
“Một giả thuyết khả dĩ tồn tại chừng nào chưa có bằng chứng thuyết phục bác bỏ nó?”
“Đúng thế,” Quạ nói.
“Vậy tớ phải theo đuổi giả thuyết này đến cùng?”
“Phải,” Quạ đáp, chắc như đinh đóng cột. “Một lý thuyết chưa có phản chứng vững chắc nào đánh đổ, là một lý thuyết đáng theo đuổi. Và hiện tại, theo đuổi nó là lựa chọn duy nhất của cậu. Ngay cả nếu vì vậy mà phải hy sinh, cậu cũng phải theo đuổi nó đến tận cùng.”
“Hy sinh?” T đó rành là có một âm vang kỳ lạ mà tôi không nắm bắt được.
Không thấy trả lời. Tôi lo lắng ngoảnh lại. Thằng cu tên Quạ vẫn đó, ngay đằng sau tôi, đều nhịp bước.

“Nỗi sợ hãi và giận dữ nào vò xé Miss Saeki lúc đó?” tôi hỏi, lại quay về phía trước và bước tiếp.
“Theo cậu thì đó là nỗi sợ hãi và giận dữ kiểu gì?” cái thằng tên Quạ hỏi vặn lại. “Hãy nghĩ xem. Chính cậu phải tự nghĩ cho ra. Cậu có cái đầu là để dùng vào việc đó mà.”
Thì đó chính là điều tôi đang làm. Tôi cần phải hiểu điều đó, chấp nhận nó trước khi quá muộn. Nhưng tôi vẫn không thể đọc ra những dòng chữ mong manh để lại trên bờ ý thức của tôi. Không đủ thời gian giữa hai đợt sóng.
“Tớ yêu Miss Saeki,” câu nói buột ra rất tự nhiên.
“Tớ biết,” thằng cu tên Quạ nói cộc lốc.
“Trước đó, tớ chưa bao giờ cảm thấy thế,” tôi nói tiếp. “Và đối với tớ, điều đó quan trọng hơn bất cứ cái gì khác tớ từng trải nghiệm.”
“Tất nhiên là thế,” Quạ nói. “Khỏi phải nói. Chính vì thế mà cậu đã đến đây.”
“Nhưng tớ vẫn chưa hiểu. Cậu nói với tớ rằng mẹ tớ rất yêu tó. Tớ rất muốn tin cậu, nhưng nếu đúng là thế, tớ vẫn không hiểu. Tại sao yêu lại có nghĩa là làm cho người mình yêu đau đớn đến thế? Tớ muốn nói nếu lẽ đời là thế, thì yêu làm gì? Tại sao lại phải như thế?”
Tôi đợi câu trả lời. Tôi ngậm miệng một hồi lâu, nhưng không nghe thấy trả lời, nên tôi quay lại. Cái thằng tên là Quạ đã biến mất. Trên cao, một tiếng vỗ cánh.
Mày hoang mang hoàn toàn rồi.
Không lâu sau, hai người lính ấy xuất hiện.
Họ mặc binh phục dã chiến của quân đội Hoàng gia thời xưa. Loại đồng phục mùa hè ngắn tay, ghệt, ba lô. Mũ lưỡi trai chứ không phải mũ sắt, mặt bôi một loại bột ngụy trang màu đen. Cả hai đều còn trẻ. Một người cao, gầy, đeo kính mắt tròn, gọng kim loại. Người kia thấp, vai rộng, lực lưỡng. Cả hai ngồi trên một tảng đá phẳng, chẳng ai có vẻ đang ở tư thế sẵn sàng chiến đấu, hai cây súng trường Arisaka đặt dưới chân. Người cao có vẻ chán ngán, miệng nhấm nháp một cọng cỏ. Nom họ hoàn toàn tự nhiên như thể đây là nơi phù hợp với họ. Họ thản nhiên nhìn tôi lại gần.
Xung quanh họ là một khoảng nhỏ phát quang, bằng phẳng như một chiếu nghỉ trên cầu thang.
“Này,” người lính cao vui vẻ gọi.
“Chào,” anh chàng to con nói, mặt hơi nhăn lại.
“Xin chào,” tôi đáp lại. Tôi biết lẽ ra mình phải ngạc nhiên khi thấy họ, nhưng không hiểu sao tôi lại không coi điều đó là kỳ lạ. Cuộc gặp gỡ này hoàn toàn có thể xảy ra.
“Bọn này vẫn chờ chú em tới,” người cao nói.
“Chờ tôi?” tôi hỏi.
“Dĩ nhiên,” anh ta nói. “Không ai khác tới được đây, đó là cái chắc.”
“Bọn ta chờ đã lâu,” anh chàng to con nó
“Ở đây, thời gian không phải là một nhân tố quan trọng,” người cao nói. “Tuy nhiên, chú em cũng dề dà hơn ta tưởng.”
“Các anh là hai người lính đã mất tích từ rất lâu, rất lâu rồi, phải không?” tôi hỏi. “Trong một cuộc tập trận giả?”
“Chính là bọn ta,” người lính vạm vỡ gật đầu.
“Họ đã tìm các anh khắp nơi,” tôi nói.
“Phải, ta biết,” anh ta nói. “Ta biết họ đã tìm chúng ta. Ta biết mọi sự diễn ra trong khu rừng này. Nhưng dù có tìm riết đến đâu, họ cũng không thể thấy được bọn ta.”
“Thực ra, bọn ta đâu có lạc,” người cao nói. “Bọn ta đã bỏ trốn.”
“Đúng hơn, bọn ta tình cờ tới được chỗ này và quyết định trụ lại đây,” người vạm vỡ nói. “Cái đó khác với bị lạc.”
“Không phải ai cũng tìm được chỗ này,” người cao nói. “Nhưng bọn ta đã tìm được và bây giờ là chú em. Đó là một cú may, ít ra là đối với bọn ta.”
“Nếu bọn ta không tìm được chỗ này thì chắc họ đã tống bọn ta xuống tàu ra nước ngoài rồi,” anh to con giải thích. “Ở bên ấy thì hoặc là giết hoặc là bị giết. Mà bọn ta thì chẳng muốn thế. Ta xuất thân là nông dân, còn anh bạn ta đây vừa tốt nghiệp đại học. Cả hai chúng ta đều không muốn giết ai cả. Mà bị giết thì lại càng tệ hơn. Hiển nhiên là thế, phải không?”
“Còn chú em thì sao?” anh cao hỏi tôi. “Chú em có thích giết hoặc bị giết
Tôi lắc đầu. Không cả hai, dứt khoát không.
“Tất cả mọi người đều thế,” anh cao nói. “Hay ít nhất là đại đa số. Nhưng nếu anh nói Tôi không muốn tham gia chiến tranh thì Nhà nước sẽ không tươi cười gật đầu mà miễn cho anh đâu. Anh lại không thể đào ngũ được. Nước Nhật nhỏ xíu, anh trốn đi đằng nào? Họ sẽ truy đuổi anh riết đến độ làm đầu óc anh quay cuồng. Thế cho nên bọn ta ở lì lại đây. Đây là nơi duy nhất bọn ta có thể ẩn náu. (Anh ta lắc đầu rồi nói tiếp). Và bọn ta đã ở lại đây từ đó đến nay. Như chú em nói, từ rất, rất lâu rồi. Ở đây thời gian không phải là một nhân tố quan trọng. Giữa “bây giờ” và “từ rất, rất lâu rồi” hầu như chẳng có gì khác nhau.”
“Chẳng khác nhau tí nào,” anh to con nói, vẫy tay như xua đi một cái gì.
“Các anh biết là tôi đến?” tôi hỏi.

“Hẳn đi rồi,” anh to con đáp.
“Bọn này đã đứng gác ở đây từ lâu, nên nếu có ai đến là bọn này biết ngay,” anh cao nói. “Bọn này như thể một bộ phận của rừng.”
“Đây là cửa vào,” anh to con nói. “Và bọn ta canh giữ cửa vào.”
“Và bây giờ, tình cờ cửa lại mở,” anh cao giải thích. “Tuy nhiên, chẳng mấy chốc, nó sẽ lại đóng lại. Nếu chú em muốn vào, thì bây giờ là đúng lúc đấy. Nó không mở thường xuyên đâu.”
“Bọn ta sẽ dẫn đường,” anh to con nói. “Đường rất khó đi nên cần có người hướng dẫn.”
“Nếu chú em không n vào, thì hãy trở về nơi xuất phát đi,” anh cao nói. “Đường về không khó tìm lắm đâu, đừng lo. Chú em sẽ tìm được thôi. Rồi chú em sẽ trở về cái thế giới xuất xứ của mình, trở về với cuộc sống mà trước nay chú em vẫn sống. Hoàn toàn tùy chú em lựa chọn. Không ai ép chú em phải làm thế này hay thế kia. Nhưng một khi đã vào rồi thì không dễ trở lui đâu.”
“Hãy đưa em vào,” tôi đáp, không chút do dự.
“Chú em có chắc không?” anh to con hỏi.
“Trong ấy có một người mà em cần gặp,” tôi nói. “Ít nhất là em nghĩ thế…”
Chậm rãi và lặng lẽ, hai người đứng dậy khỏi tảng đá và khoác súng lên vai. Họ đưa mắt nhìn nhau rồi vượt lên phía trước tôi.
“Chắc chú em thấy lạ là bọn ta vẫn tha cái cục thép vừa nặng vừa vô dụng này theo,” anh cao quay lại nói. “Mà có viên đạn nào cho cam.”
“Nhưng nó là một biểu tượng,” anh to con nói, không nhìn tôi. “Biểu tượng của những gì bọn ta để lại sau lưng.”
“Biểu tượng là rất quan trọng,” anh cao bổ sung. “Tình cờ, bọn ta lại mang súng và binh phục, cho nên bọn ta sắm vai lính gác. Phải, đó là vai trò của bọn ta. Biểu tượng đã dẫn chúng ta đến những vai trò đó.”
“Chú em có mang theo cái gì như vậy không?” anh to con hỏi. “Một cái gì có thể là biểu tượng?”
Tôi lắc đầu. “Không, em chả mang theo gì. Ngoại trừ ký ức.”
“Hừm…” anh to con nói. “Ký ức hả?”
“Ô-ê, cái đó không thành vấn đề,” anh cao nói. “Ký ức cũng có thể là một biểu tượng lớn. Dĩ nhiên, ta không biết kỷ niệm có bền hay không, liệu nó đậu được bao lâu.”
“Tốt nhất là một cái gì có hình thù, nếu có thể,” anh to con nói. “Như thế dễ hiểu hơn.”
“Như cây súng trường chẳng hạn,” anh cao nói. “À mà tên chú em là gì nhỉ?”
“Kafka Tamura,” tôi trả lời.
“Kafka Tamura,” cả hai nhắc lại.
“Tên lạ nhỉ,” anh cao nói.
“Ừ, đúng là lạ thật,” anh to con đế thêm.
Sau đó, chúng tôi lặng lẽ đi theo vệt đường mòn.
Chương 44
Họ mang đốt ba tập bản thảo bên bờ một con sông dọc theo xa lộ. Hoshino mua xăng ở một cửa hàng mở cửa 24/24 và rưới lên tất cả trước khi châm lửa. Rồi cùng với Nakata, gã lặng lẽ đứng nhìn ngọn lửa biến từng tờ thành tro. Chỉ thoang thoảng một gợn gió và khói bốc thẳng lên, lẫn vào những đám mây xám thấp lè tè.
“Vậy là chúng ta không được đọc trang nào trong các tập này?” Hoshino hỏi.
“Không, chúng ta không có quyền đọc,” Nakata nói. “Lão đã hứa với Miss Saeki thế và lão có bổn phận phải giữ lời hứa.
“Phải, giữ lời hứa là điều quan trọng,” Hoshino vừa nói vừa lau mồ hôi trán.” nhiên, giá chúng ta có cái máy nghiền giấy thì tốt. Như vậy sẽ dễ hơn nhiều. Các cửa hàng photo có những máy nghiền giấy to tướng, giá phục vụ khá rẻ. Ông đừng hiểu nhầm, cháu đâu có phàn nàn. Có điều vào mùa này, đốt một đống lửa trại như thế này thì khí nóng. Nếu vào mùa đông thì lại khác.”
“Lão xin lỗi, nhưng Nakata này đã hứa với Miss Saeki là sẽ đốt sạch, nên lão phải làm thế.”
“Thôi được. Cháu cũng không vội mà. Nóng một tí cũng chả chết ai. Đó chỉ là một… một gì nhỉ? à phải, một gợi ý thôi.”
Một con mèo đang đi nhởn nhơ dừng lại xem. Một con mèo gầy nhom vằn nâu, đuôi hơi cong ở chỏm. Nom nó có vẻ dễ thương, Nakata rất muốn bắt chuyện nhưng quyết định là không nên vì lão đang đi cùng Hoshino. Mèo chỉ thoải mái khi trò chuyện tay đôi. Với lại, Nakata vẫn chưa hoàn toàn tự tin rằng mình có thể nói chuyện được với mèo như trước kia. Lão tuyệt đối không muốn xổ ra một câu gì lạ tai làm mèo ta sợ. Xem một lúc, mèo ta chán, đứng dậy và bỏ đi.

Hồi lâu sau, khi các tập bản thảo đã cháy hết, Hoshino giậm đi giậm lại đống giấy cháy đen kỳ đến tan thành bụi. Lát nữa, một cơn gió to sẽ tung hê đi tất cả. Lúc này, mặt trời đã sắp lặn và quạ đã bắt đầu bay về tổ.
“Giờ thì chắc chắn sẽ không ai được đọc bản thảo này nữa rồi,” Hoshino nói. “Cháu chẳng biết trong đó viết những gì, nhưng tất cả đã tiêu tan rồi. Một chút hình thù đã biến khỏi thế giới này, gia tăng thêm cõi hư vô.”
“Cậu Hoshino?”
“Gì đấy ông?”
“Lão muốn hỏi một câu.”
“Ông cứ nói.”
“Hư vô cũng có thể gia tăng ư?”
Câu hỏi làm Hoshino bối rối. “Một câu hỏi hóc búa đấy,” gã thừa nhận. “Trở về hư vô tức là thành số không. Mà số không cộng với số không vẫn là số không.”
“Lão không hiểu.”
“Cháu cũng mù mờ lắm. Suy nghĩ về những thứ này bao giờ cũng đau đầu.”
“Vậy có lẽ ta nên thôi, đừng nghĩ về nó nữa.”
“Cháu đồng ý,” Hoshino nói. “Dù sao, bản thảo cũng đã đốt rồi. Bao nhiêu chữ trong đó đã biến hết. Nó đã trở về hư vô – đó là điều cháu muốn nói.”
“Đầu óc lão nhẹ hẳn đi.”
“Vậy là những gì ta cần làm ở đây đã hòm hòm, phải không?” Hoshino hỏi.
“Phải, chúng ta đã gần như hoàn tất những việc cần làm ở đây,” Nakata nói. “Chỉ còn phải đóng phiến đá cửa vào lại thôi.”
“Cái đó quan trọng đấy.”
“Vâng. Cái gì đã mở ra là phải đóng lại.”
“Được, thế thì làm luôn đi. Sắt đang đỏ thì phải rèn ngay.”
“Cậu Hoshino?”
“Chúng ta chưa thể làm ngay bây giờ được.”
“Tại sao?”
“Vì chưa đến lúc,” Nakata nói. “Chúng ta phải chờ đúng lúc mới đóng phiến đá cửa vào được. Trước đó, lão phải ngủ một chút. Nakata buồn ngủ lắm rồi.”
Hoshino nhìn ông già.
“Khoan đ… Ông lại sắp sửa đánh một giấc liền tù tì mấy ngày đấy, phải không?”
“Lão chưa biết, nhưng có thể thế.”
“Liệu chúng ta có thể lo liệu xong mọi việc trước khi ông quay ra ngủ tít thò lò không? Bởi vì một khi ông bấm nút “ngủ” thì mọi sự đều ngưng lại.”
“Cậu Hoshino?”
“Còn gì nữa?”
“Lão rất muốn đóng phiến đá cửa vào trước nhất. Được như thế thì tuyệt. Cơ mà Nakata này phải ngủ một chút trước đã. Mắt lão cứ díp lại không mở ra được nữa.”
“Như thể hết pin ấy à?”
“Đại khái thế. Làm những việc cần làm mất nhiều thời gian hơn lão tưởng. Lão kiệt sức rồi. Cậu có vui lòng đưa lão về chỗ nào để Nakata này có thể ngủ một chút không?”
“Dễ ợt. Ta sẽ bắt một cái taxi về thẳng căn hộ. Rồi ông có thể lăn ra ngủ như khúc gỗ nếu ông thích.”
Vừa ngồi vào taxi, Nakata đã bắt đầu ngủ gà ngủ gật.
“Chịu khó một tí nào, về đến nhà thì tha hồ cho ông muốn ngủ bao lâu thì ngủ,” Hoshino nói.
“Cậu Hoshino?”
“Dạ.”
“Lão xin lỗi đã gây bao nhiêu phiền phức cho cậu,” Nakata nói, giọng ngái ngủ.
“Phải, chắc chắn thế,” Hoshino thừa nhận. “Nhưng đâu ai yêu cầu cháu – cháu tự nguyện đi theo ông đấy chứ. Như người ta tình nguyện đi xúc tuyết ấy. Cho nên ông khỏi phải băn khoăn.”
“Nếu không có cậu giúp, Nakata này ắt chẳng biết xoay xở ra sao. Hẳn lão đã chẳng hoàn thành một nửa số công việc đã làm.”

“Nếu ông đã nói vậy thì cháu nghĩ công sức cháu bỏ ra cũng bõ bèn.”
“Lão rất biết ơn cậu.”
“Nhưng ông biết sao không?”
“Sao?”
“Cháu cũng phải cảm ơn ông rất nhiều, ông Nakata ạ.”
“Thật không?”
“Ông cháu mình đi với nhau đã được mươi hôm và suốt thời gian ấy, cháu đã bỏ việc,” Hoshino nói. “Mấy ngày đầu, cháu có liên lạc với sếp xin nghỉ phép đàng hoàng, nhưng bây giờ thì coi như là vắng mặt không xin phép. Có lẽ cháu sẽ mất việc thôi. Nếu cháu quỳ gối xin lỗi, có thể họ sẽ tha thứ cũng nên. Nhưng cái đó không quan trọng. Không phải khoe mẽ chứ với cháu, tìm một chỗ làm mới không khó – cháu là một lái xe cự phách, lại cần cù nữa. Cho nên về chuyện ấy, cháu chả lo và ông cũng khỏi lo. Điều cháu muốn nói là: cháu không hề tiếc vì đã đi với ông. Mười ngày qua, có bao điều kỳ lạ diễn ra. Đỉa từ trên trời rơi xuống; không biết từ đâu tòi ra một ông Đại tá Sanders; làm tình nóng hổi với một em xinh đẹp chết mê, lại là sinh viên triết học nữa chứ; đánh xoáy phiến đá cửa vào từ một miếu đường… Những trải nghiệm kỳ lạ đủ cho cả một đời người dồn lại trong mười ngày. Như thể mình đang làm những pha chạy thí nghiệm trên một đoàn tàu kinh dị vậy.”
Hoshino dừng lại, nghĩ xem nên nói tiếp thế nào. “Nhưng ông biết sao không, nội?”
“Dạ?”
“Trong tất cả những cái đó, chính ông mới là điều kỳ lạ nhất, Ông Nakata ạ. Ông đã thay đổi đời cháu. Trong mười ngày, nói thế nào nhỉ… bây giờ, cháu nhìn sự vật với một con mắt khác. Những thứ mà trước kia cháu không thèm để mắt đến lần thứ hai, giờ đây xem ra khác hẳn. Chẳng hạn như âm nhạc – trước đây cháu vẫn cho nhạc cổ điển là chán ốm, thì nay nó đi thẳng vào tim cháu. Cháu cảm thấy rất muốn nói với ai đó về điều này, với một người nào đó thấu hiểu những gì cháu đã nếm trải. Trước đây, cháu chưa từng cảm thấy cái gì như thế. Và tất cả là nhờ có ông. Cháu đã bắt đầu nhìn thế giới qua con mắt của ông. Dĩ nhiên không phải tất cả mọi thứ. Cháu thích cái cách ông nhìn đời, chính vì thế mà cháu đi theo ông. Chính vì thế mà cháu sát cánh cùng ông bất chấp mọi khó khăn, trở ngại và không thể bỏ ông. Đó là một trong những thời điểm có ý nghĩa nhất trong đời cháu. Cho nên ông khỏi cần cảm ơn cháu – không phải cháu lấy thế làm phiền đâu. Chính cháu mới phải cảm ơn ông. Cháu chỉ muốn nói là ông đã làm cho cháu bao nhiêu điều tốt, ông Nakata. Ông có hiểu cháu nói gì không?”
Nhưng Nakataồn nghe nữa. Mắt nhắm, hơi thở đều đặn, lão đã ngủ.
“Con người mới vô lo làm sao!” Hoshino nói và thở dài.
Hoshino bế ông già lên phòng và đặt lão vào giường. Gã tháo giày cho Nakata nhưng vẫn để nguyên quần áo và đắp lên người lão một tấm mền nhẹ. Nakata cựa quậy một chút, rồi nằm im phăng phắc trong tư thế ngửa mặt lên trần như mọi khi, nhịp thở nhẹ nhàng.
Dám chắc đây là một cuộc ngủ ma-ra-tông ba ngày liền nữa, Hoshino nghĩ thầm.
Nhưng hóa ra lại không phải thế. Hôm sau, thứ Tư, vào lúc trưa, Nakata chết. Lão chết yên bình trong giấc ngủ. Mặt lão vẫn bình thản như mọi khi, nom chỉ như đang ngủ – có điều không thở nữa. Hoshino lay vai ông già, gọi tên Nakata, nhưng không còn nghi ngờ gì nữa, lão đất chết. Hoshino kiểm tra mạch – không thấy gì. Đặt một chiếc gương trước miệng: gương không nhòa. Lão đã ngừng thở hoàn toàn. Lão không bao giờ thứ dậy nữa, ít nhất là trên thế gian này.
Một mình trong căn phòng với cái xác, Hoshino nhận thấy mọi âm thanh cứ tuần tự theo nhau biến mất. Những tiếng động thật quanh gã dần dà mất tính thực tồn của chúng. Những tiếng động có ý nghĩa đều lịm chìm vào im lặng. Và im lặng mỗi lúc một sâu thêm, tựa như lớp bùn dưới đáy đại dương. Nó tích tụ dưới chân gã, dâng lên ngang thắt lưng rồi tới ngực. Gã theo dõi lớp bùn – im lặng ấy dâng lên mỗi lúc một cao. Gã ngồi xuống sofa, trân trân nhìn vào mặt Nakata, cố làm quen với cái thực tế là lão đã ra đi thật. Phải mất một hồi lâu, gã mới chịu chấp nhận sự thật ấy. Trong khi đó, không khí xung quanh gã trở nên nặng nề lạ lùng đến nỗi gã không còn xác định nổi những ý nghĩ và cảm giác ấy có đúng là của mình hay không nữa. Nhưng có một số điều gã bắt đầu hiểu ra.
Có thể cái chết sẽ phục hồi con người Nakata lại như trước kia. Khi còn sống lão luôn là ông già Nakata đôn hậu, một ông già “chẳng thông minh sáng láng gì” nhưng lại biết nói chuyện với mèo. Có thể, cái chết là con đường duy nhất đưa lão trở lại thành ông già “Nakata bình thường” mà lão thường ước muốn.
“Ông nội à,” Hoshino gọi, “nói với ông bây giờ cũng bằng thừa, nhưng quả là ông đi như thế này đâu có đến nỗi tệ.”
Nakata đã qua đời êm đềm trong giấc ngủ, chắc hẳn không nghĩ ngợi gì hết. Mặt lão thanh tĩnh, không tỏ vẻ gì là đau đớn, tiếc nuối hay bối rối. Rất chi là Nakata, Hoshino kết luận. Nhưng ý nghĩa thực sự của đời lão là thế nào, thì Hoshino không biết. Đâu phải đời ai cũng có ý nghĩa rõ ràng hơn. Điều thực sự quan trọng đối với một con người, điều thực sự nói lên chân giá trị, là chết như thế nào. So với cách chết, gã nghĩ, cách sống chả mấy đáng kể. Tuy nhiên, cách sống lại quyết định cách chết. Những ý nghĩ đó chợt đến trong đầu Hoshino trong khi gã trân trân nhìn vào mặt ông già vừa giã từ cõi đời.
Nhưng vẫn còn một vấn đề then chốt: phải có ai đóng lại phiến đá cửa vào. Nakata đã hoàn tất mọi nhiệm vũ lão phải làm trừ việc này. Phiến đá ở ngay đó, dưới chân Hoshino và gã biết vào đúng lúc thích hợp, gã sẽ phải lật nó lại để đóng cửa vào. Nhưng Nakata đã cảnh báo gã rằng nếu sẩy tay, phiến đá có thể rất nguy hiểm. Ắt phải có một phương pháp lật phiến đá cho đúng các, – nhưng có cách đúng thì cũng có cách sai. Nếu chỉ dùng sức mà lật thì không chừng đảo lộn cả thế giới cũng nên.
“Ông nội, ông chết rồi, chẳng cách chi thay đổi được, nhưng ông để cháu lại trong một cái ngõ cụt thực sự đây này,” Hoshino nói với cái xác nằm đấy và tất nhiên, không nhận được câu trả lời nào.
Lại còn vấn đề xử lý cái nữa. Bình thường ra thì chỉ việc gọi điện thoại cho cảnh sát hoặc bệnh viện đến mang đi. Chín mươi chín phần trăm dân số thế giới ắt làm đúng như thế và Hoshino cũng muốn làm thế. Nhưng cảnh sát đang truy tìm Nakata vì những tình tiết có liên quan đến vụ ám sát và tiếp xúc với nhà chức trách vào thời điểm này dứt khoát sẽ đặt Hoshino vào một tình thế gay go. Cảnh sát sẽ lôi cổ gã đi và quay cho tới số hàng giờ liền. Gã hoàn toàn không muốn khai những gì đã xảy ra, hơn nữa, gã vốn chẳng hâm mộ gì những người thừa hành pháp luật. Tốt nhất là tránh đừng có dây gì với cảnh sát.
Cả cái căn hộ này nữa chứ, giải thích thế quái nào đây?
Giả dụ mình khai: một ông già trang phục y như Đại tá Sanders cho chúng tôi mượn. Ông ta bảo chỗ này được chuẩn bị đặc biệt dành cho chúng tôi và chúng tôi có thể sử dụng bao lâu tùy thích. Liệu cảnh sát có tin không? Đại tá Sanders ư? Trong quân đội Mỹ à? Không, cái tay… ừm… trên các tấm quảng cáo của hệ thống nhà hàng Kentucky Fried Chicken ấy, ông biết không, ông thanh tra cảnh sát? Vâng, đúng thế: đeo kính, râu cằm bạc trắng… Ông ta là tay dắt gái hành nghề ở các ngõ hẻm của Takamatsu. Ông ta đã kiếm cho tôi một em. Khai những thứ lăng nhăng như thế, cảnh sát sẽ gọi mình là thằng ngố và thoi ột cú vào mặt. Cớm chẳng qua là lũ găngxtơ ăn lương Nhà nước, Hoshino kết luận. không phải là lần đầu.
Gã thở dài đánh thượt.
Điều cần làm bây giờ là phải ra khỏi đây ngay, phắn càng xa càng tốt, gã nghĩ. Mình có thể phôn một cú nặc danh cho cảnh sát từ một máy điện thoại công cộng ở nhà ga. Cho họ địa chỉ, ở đây, nói là có người chết. Rồi nhảy lên một chuyến tàu về Nagoya. Họ sẽ không kết nối mình với vụ việc. Đó là một cái chết tự nhiên, do đó cảnh sát sẽ không mở cuộc điều tra. Họ sẽ trao trả thi thể cho gia đình ông già và sẽ có một đám tang, thế là hết chuyện. Rồi mình sẽ đến công ty, khấu đầu trước sếp: Em xin thề sẽ không bao giờ tái phạm. Từ giờ em sẽ tận tụy làm việc. Hứa bất cứ cái gì có thể được việc làm cũ.
Gã bắt đầu sửa soạn hành lý, nhét một bộ đồ thay đổi vào túi dết. Đội chiếc mũ Chunichi Dragons, kéo món tóc đuôi ngựa ra sau lưng, đeo đôi kính râm mắt xanh sẫm. Lấy một lon Pepsi Diet trong tủ lạnh ra uống cho đỡ khát. Trong khi dựa lưng vào tủ lạnh, uống, gã thấy phiến đá tròn cạnh sofa. Gã vào phòng ngủ, nhìn thi thể Nakata một lần nữa. Nom lão vẫn không ra người chết, mà vẫn như đang thở nhẹ nhàng, và Hoshino gần như chờ đợi lão đột nhiên ngồi dậy, nói: Cậu Hoshino, đây là một sự nhầm lẫn. Nakata này chưa chết thật đâu! Nhưng không có chuyện ấy. Nakata chết hẳn rồi. Làm gì có phép lạ. Ông già đã sang bờ bên kia rồi.
Lon Pepsi trong tay, Hoshino đứng đó lắc đầu. Mình không thể cứ thế đi, bỏ phiến đá lại, gã nghĩ. Nếu mình làm thế, ông Nakata sẽ không thể an nghỉ thật sự. Ông vốn là con người rất có lương tâm, bao giờ cũng lo bảo đảm ọi sự chu toàn. Ông ắt đã hoàn tất nốt nhiệm vụ cuối cùng này nếu ắc-quy của ông không hết điện. Hoshino bóp bẹp chiếc lon không, vứt vào sọt rác. Vẫn chưa hết khát, gã trở và bếp, bật nắp một lon Pepsi khác.
Ông Nakata nói với mình là ông xiết bao mong muốn biết đọc, dù chỉ một lần, Hoshino nhớ lại. Ông nói ông muốn đến một thư viện và có thể chọn và đọc bất kỳ một cuốn sách nào. Nhưng ông đã chết trước khi thực hiện được ước mơ đó. Có thể bây giờ chết rồi, sang một thế giới khác, ông sẽ trở thành một ông Nakata bình thường và biết đọc. Nhưng suốt cuộc đời trên dương thế này, ông đã không thể như thế. Thực tế, hành động cuối cùng của ông trên cõi trần lại là một đối nghịch hoàn toàn: đốt chữ. Tung hê toàn bộ chữ viết trên các trang giấy vào hư không. Ngẫm ra thật mỉa mai. Tuy nhiên, đã vậy thì mình càng cần phải thực hiện ước nguyện cuối cùng của ông. Mình phải đóng phiến đá cửa vào. Mình đã không thể đưa ông đi xem phim hoặc đến viện hải dương học, vậy đây là điều tối thiểu mình phải làm vì ông, sau khi ông đã ra đi.
Gã uống cạn lon Pepsi thứ hai, đi đến sofa, cúi xuống, thử nhấc phiến đá. Không đến nỗi nặng lắm, cũng chẳng nhẹ, nhưng có thể nhấc lên không mấy tốn sức. Cũng chỉ nặng như khi gã và Đại tá Sanders lấy trộm nó khỏi miếu đường. Nặng cỡ một hòn đá thường dùng để nén dưa. Có nghĩa là lúc này nó chỉ là một phiến đá, Hoshino nghĩ thầm. Khi nào nó đóng vai trò cửa vào thì mới nặng tới mức vận dụng công lực gần chết mới lật được. Nhưng khi nhẹ như thế này, nó chỉ là một phiến đá bình thường. Phải có một cái gì phi thường xảy đến trước đã, như cơn cuồng nộ sấm sét đùng đùng hôm nọ chẳng hạn, nó mới trở nên nặng chết người và lại biến thành cửa vào.
Hoshino ra cửa sổ, kéo rèm, nhìn lên trời. Vẫn đầy mây xám ảm đạm như hôm trước. Nhưng không có vẻ gì là sắp mưa, lại càng ít khả năng là sẽ có sấm. Gã dỏng tai nghe và hít hít không khí, nhưng mọi thứ đều hoàn toàn bình thường như hôm trước. Có vẻ như chủ đề hôm nay của thế giới là: Không có gì đặc biệt.
“Ông nội à,” gã nói to với ông già vừa qua đời, “cháu đoán là cháu phải ở đây cùng ông đợi một cái gì khác thường xảy đến. Nó là cái gì và bao giờ thì nó diễn ra, cháu hoàn toàn mù tịt. Hơn nữa, bây giờ là tháng Sáu, chẳng mấy chốc thi thể ông sẽ rữa và bốc mùi. Cháu biết ông không muốn nghe những điều như thế, nhưng đó là lẽ tự nhiên. Và càng để lâu, càng chậm báo cảnh sát thì càng gay go cho cháu. Cháu muốn nói cháu sẽ làm bất kỳ cái gì trong tầm khả năng của cháu, nhưng cháu muốn ông biết tình thế là như vậy, Ô-kê?”
Tất nhiên không có câu trả lời.
Hoshino lượn lờ quanh phòng. À, phải rồi! Có thể Đại tá Sanders sắp bắt liên lạc! Ông ta ắt biết xử trí với phiến đá như thế nào. Đó là người mà ta bao giờ cũng có thể trông cậy khi cần một lời khuyên vừa nhiệt tình vừa thực tế. Nhưng tha hồ cho gã trân trân ngó cái máy điện thoại, nó cứ trơ trơ ra đó, câm lặng, trầm ngâm hướng nội một cách không cần thiết. Không ai gõ cửa, không lá thư nào đến. Và không có gì khác thường xảy ra. Thời tiết vẫn như cũ và gã chẳng nảy ra sáng kiến nào. Phút nọ nối phút kia, lạnh lùng vô cảm. Trưa đến rồi qua, chiều lặng lẽ trôi vào hoàng hôn. Những chiếc kim của chiếc đồng hồ điện treo tường nhẹ lướt trên bề mặt thời gian và trên tường, ông già Nakata vẫn nằm chết cứng. Hoshino không hề thấy đói. Gã uống lon Pepsi thứ ba và nhai mấy chiếc bánh quy giòn cho qua bữa.
Đến sáu giờ, gã ngồi xuống sofa, cầm cái điều khiển từ xa lên, bật tivi. Gã xem bản tin chiều của NHK, nhưng chẳng có gì khiến gã chú ý. Đúng là một ngày bình thường không có tin gì đặc biệt. Giọng người phát thanh viên bắt đầu làm gã khó chịu và khi chương trình chấm dứt, gã bèn tắt tivi. Bên ngoài, trời đã tối hơn rồi đêm xuống phủ khắp. Một tịch lặng sâu thẳm bao trùm căn phòng.
“Ông nội ạ,” Hoshino nói với Nakata, “ông có thể trở dậy vài phút thôi được không? Cháu chẳng biết làm thế nào bây giờ. Và cháu nhớ cái giọng ông.”
Dĩ nhiên là Nakata không đáp. Lão vẫn ở bờ bên kia. Một mực không lời, nhất định chết. Im lặng mỗi lúc một sâu, đến nỗi lắng tai thật chăm chú, Hoshino ngỡ nghe thấy tiếng trái đất quay trên trục của nó.
Hoshino trở ra phòng khách và bật chiếc đĩa tam tấu Archduke. Mới nghe chủ đề thứ nhất, nước mắt đã dâng lên và rồi tuôn trào như tháo cống. Chao, lần cuối cùng mình khóc là bao giờ nhỉ? Gã không nhớ nổi.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.