Bạn đang đọc Kafka bên bờ biển: Chương 41-42
Chương 41
Lần này vào trong rừng, tôi tự trang bị ình tất cả những gì có thể cần đến: la bàn, dao, bi-đông, một số lương thực phòng khi bất trắc, găng tay lao động, một bình xịt sơn vàng và chiếc rìu trước đây tôi đã dùng. Tôi nhét tất cả vào một chiếc ba lô nilông nhỏ cũng lấy ở trong kho chứa dụng cụ và tiến vào rừng. Tôi mặc một chiếc sơ mi dài tay, cổ quấn một chiếc khăn, đội chiếc mũ Oshima cho và xịt thuốc xua côn trùng lên khắp mọi chỗ còn hở trên người. Trời đầy mây và nóng, nồm tựa như có thể mưa bất cứ lúc nào, nên tôi bỏ phòng sẵn một chiếc áo mưa trùm vào ba lô cho yên trí. Một đàn chim vừa gọi nhau choe chóe vừa bay qua bầu trời thấp, nặng như chì.
Tôi dễ dàng tới được quãng phát quang trong rừng. Kiểm tra la bàn để đảm bảo thường xuyên nhắm hướng Bắc, tôi dấn sâu vào rừng. Lần này, tôi xịt sơn vàng đánh dấu các thân cây trên dọc đường. Khác với những mảnh vụn bánh mì của Hansel và Gretel, loại sơn xịt này chẳng sợ làm mồi cho lũ chim đói.
Chuẩn bị t hơn, nên tôi không sợ. Cố nhiên, tôi vẫn căng thẳng, nhưng tim tôi không đánh trống làng. Óc tò mò là động cơ thúc đẩy tôi. Tôi muốn biết những gì nằm dọc con đường này. Ngay cả nếu không có gì, tôi cũng muốn biết chắc là không có gì. Tôi cần phải biết. Ghi nhớ trong đầu cảnh quan đã đi qua, tôi kiên quyết và thận trọng tiến từng bước, từng bước.
Thi thoảng, một âm thanh kỳ lạ vang lên – tiếng thịch như vật gì rơi xuống đất, tiếng kẽo kẹt như ván sàn rên lên dưới sức nặng, và những tiếng khác mà tôi không biết mô tả như thế nào. Tôi không tài nào xác định được đó là những tiếng gì, cũng như chúng phát ra từ đâu. Lúc thì nghe xa xa, khi lại ngay kề bên – tựa như khái niệm về khoảng cách hết mở rộng lại co vào. Tiếng chim vỗ cánh trên đầu tôi vang to khác thường như được khuyếch đại. Mỗi lần nghe thấy thế, tôi đều dừng lại dỏng tai, nín thở, chờ một điều gì xảy đến. Chẳng có gì và tôi lại bước tiếp.
Ngoài những âm thanh đột ngột, bất ngờ ấy, mọi thứ khác đều im ắng. Không gió, không xào xạc lá trên ngọn cây, chỉ có tiếng chân tôi bước trên cỏ, mỗi khi giẫm lên một nhành cây rơi, tiếng rắc lại vang động không trung.
Tôi nắm chặt cán chiếc rìu vừa mài sắc, cảm thấy nó ram ráp trong lòng bàn tay trần. Cho đến lúc này, chưa phải dùng đến nó, nhưng sức nặng của nó khiến tôi yên tâm và cảm thấy được che chở. Nhưng che chở chống lại cái gì? Trong rừng không có gấu hay sói. Có lẽ chỉ có mấy con rắn độc. Hẳn chính tôi mới là sinh vật nguy hiểm nhất ở đây. Vậy có lẽ thần hồn nát thần tính, tôi đã sợ cái bóng của chính mình.
Tuy nhiên, trong khi đi tiếp, tôi có cảm giác như một cái gì đang nấp ở một chỗ nào đó, lẩn vào các bụi cây, nín thở theo dõi, nghe ngóng tôi, quan sát từng động tác của tôi. Đâu đó, từ xa, một cái gì đang nghe ngóng từng tiếng động do tôi phát ra, cố đoán xem tôi định đi đâu và tại sao. Tôi ráng không nghĩ về nó. Càng nghĩ về những ảnh, nó càng phình to ra và hiện hình rõ nét, không còn là ảo ảnh nữa.
Để lấp đầy im lặng, tôi thử huýt sáo bắt chước giai điệu kèn saxophone soprano của Coltrane[34] trong My Favourite Things. Tất nhiên, tiếng huýt sáo khó có thể gọi là chuẩn của tôi còn cách xa nguyên bản phức hợp và nhanh như ánh chớp hàng ki-lô-mét. Tôi chỉ chắp vá những chỗ tôi nhớ được, cho nó ang áng thôi. Còn hơn là chẳng có gì, tôi nghĩ thế. Tôi nhìn đồng hồ: mười giờ ba mươi. Oshima hẳn đã chuẩn bị xong xuôi mọi thứ để mở cửa thư viện. Hôm nay là… thứ Tư. Tôi hình dung anh tưới nước trong vườn, lau bàn, đun nước và pha cà phê. Tất cả những công việc mà bình thường tôi vẫn làm. Nhưng bây giờ tôi đang ở đây, tận trong rừng, mỗi lúc một dấn sâu thêm. Không ai biết là tôi đang ở đây. Chỉ mình tôi và chúng biết.
Tôi tiếp tục đi theo con đường mòn trước mặt. Gọi là đường cũng khí hơi quá. Đó chỉ như một vệt trũng tự nhiên, nước chảy qua lâu ngày khoét thành rãnh. Khi có mưa lớn trong rừng, nước chảy mạnh dần hõm đất, cuốn băng cỏ, làm trơ ra những rễ cây, gặp đá tảng lớn thì chảy men theo rìa. Khi tạnh mưa, ta thaasy hiện ra một lòng sông cạn giống như một đường mòn. Cái gọi là đường ấy phủ đầy dương xỉ và cỏ xanh, nếu lãng đi không chú ý là chẳng thấy đâu nữa. Thỉnh thoảng lại dốc đứng, tôi phải bám vào các thân cây và leo lên.
Giai điệu saxophone soprano của Coltrane chấm dứt từ quãng nào không biết, và bây giờ vang lên trong tai tôi bản độc tấu piano của McCoy Tyner, tay trái chạy một tiết tấu lặp đi lặp lại trong khi tay phải rải những hòa âm đậm đặc, u ám. Như trong một cảnh huyền thoại, nhạc mô tả quá khứ u tối của một ai đó không tên, không diện mạo, với tất cả các chi tiết được bày ra rõ ràng như những khúc ruột lôi ra từ bóng tối. Ít nhất đó cũng là cách hiểu của tôi khi nghe nó. Khúc nhạc kiên nhẫn lặp đi lặp lại, dần dần đập vỡ thực tại, rồi chắp những mảnh vỡ lại. Nó có một mùi thôi miên nguy hiểm như khu rừng này.
Tôi tiếp tục dấn bước, vừa đi vừa xịt sơn đánh dấu các thân cây, thỉnh thoảng ngoái lại để kiểm tra cho chắc là những dấu màu vàng ấy vẫn rõ. Tốt – những dấu chỉ đường về cho tôi giống như một dãy phao đều tăm tắp chạy dài trên biển. Để bảo đảm chắc chắn gấp đôi, chốc chốc tôi lại lấy rìu khía hình chữ V trên một thân cây. Chiếc rìu nhỏ của tôi không được sắc lắp nên tôi chọn những thân cây nhỏ trông có vẻ mềm hơn để khắc. Đám cây lặng lẽ đón nhận những nhát rìu đó.
Những con muỗi đen to tướng vo ve quanh tôi như những tốp thám báo, nhè những khoảng da hở quanh mắt và tấn công. Khi nghe thấy chúng vo ve, tôi vung tay đập hoặc xua chúng đi. Đập trúng con nào, nó kêu đánh bép, bụng đã mọng những máu nó hút của tôi. Phải một lát sau mới thấy ngứa. Tôi chùi tay vào chiếc khăn quấn quanh cổ cho sạch máu.
Những người lính hành quân qua khu rừng này, nếu vào mùa hè, chắc cũng bị muỗi quấy rầy như thế. Toàn bộ trang bị chiến đấu nặng bao nhiêu nhỉ? Những cây súng trường kiểu cổ tựa như một cục sắt, thắt lưng bao đạn, lưỡi lê, mũ sắt, một cặp lựu đạn, lương thực và khẩu phần (tất nhiên rồi), càmèn, xẻng đào hố cá nhân… Tất cả cộng lại chắc phải đến trên hai chục ký. Nặng thấy mồ, hơn cái ba lô nhỏ của tôi nhiều. Tôi có cảm giác rõ ràng là mình sắp đâm sầm vào những người lính ấy ở chỗ ngoặt tới, mặc dù họ đã biến mất từ hơn sáu mươi năm trước.
Tôi nhớ đến đạo quân của Napoléon tiến vào nước Nga mùa hè năm 1812. Chắc hẳn họ cũng đã bị muỗi hành suốt chặng đường dài đến Mátxcơva. Dĩ nhiên, muỗi không phải là vấn đề duy nhất. Để sống còn, họ đã phải vật lộn với đủ mọi thứ khác nữa: đói, khát, đường sá lầy lội, bệnh truyền nhiễm, cái nóng nung người, những đội biệt động Côzắc tấn công tuyến hậuần mong manh của họ, thiếu thuốc men, đó là chưa kể những trận giáp chiến lớn với quân đội chính quy Nga. Cuối cùng, khi lực lượng Pháp thất thểu vào một thành phố Mátxcơva vắng tanh, thì quân số từ 500.000 đã giảm xuống chỉ còn 100.000.
Tôi dừng lại uống một ngụm nước từ bi-đông. Đồng hồ tôi chỉ đúng mười một giờ. Đến giờ thư viện mở cửa. Oshima đang mở khóa cửa vào, ngồi vào chỗ quen thuộc của mình sau quầy, một mớ bút chì dài vót nhọn để trên bàn. Anh cầm một chiếc lên xoay xoay trong tay, khẽ ấn đầu có gắn tẩy vào thái dương. Tôi có thể thấy cảnh đó rõ mồn một. Nhưng nơi đó mới xa làm sao!
Mình không bao giờ có kinh nguyệt, Oshima đã nói thế. Mình sinh hoạt tình dục bằng hậu môn, không bao giờ làm tình bằng âm hộ. m hạch của mình nhạy cảm nhưng vú thì không.
Tôi nhớ lúc Oshima ngủ trên giường trong căn nhà gỗ, quay mặt vào tường. Và những dư ảnh anh/chị để lại. Thế rồi tôi nằm ngủ luôn trên chiếc giường ấy, với những dư ảnh ấy bao quanh mình.
Tôi thôi không nghĩ đến chuyện ấy nữa. Thay vào đó, tôi nghĩ về chiến tranh. Những cuộc chiến Napoléon, cuộc chiến tranh mà những người lính Nhật Bản đã phải tham gia. Tôi cảm thấy sức nặng của chiếc rìu trong tay. Cái lưỡi rìu sắc lấp lánh trắng khiến tôi quay mắt đi không dám nhìn nữa. Tại sao người ta phải tiến hành chiến tranh nhỉ? Tại sao hàng trăm nghìn, thậm chí hàng triệu người lại tập hợp để tiêu diệt lẫn nhau như thế? Người ta phát động chiến tranh vì phẫn nộ hay vì sợ? Hay phẫn nộ và sợ hãi chỉ là hai khía cạnh của cùng một tinh thần?
Tôi đẽo một dấu V nữa bằng rìu trên một thân cây. Nó thốt lên một tiếng kêu câm lặng, ứa ra những giọt máu vô hình. Tôi vẫn hì hụi đi. Giai điệu saxophone soprano của Coltrane lại cất lên. Một lần nữa, tiết tấu điệp làm vỡ vụn thực tại, rồi lại chắp những mảnh v
Chẳng mấy chốc, tâm trí tôi lang bang vào miền mộng mơ. Rất lặng lẽ, những giấc mơ trở lại. Tôi đang ôm Sakura. Sakura trong vòng tay tôi và tôi nhận sâu trong Sakura. Tôi không muốn phụ thuộc vào những yếu tố bên ngoài nữa, không muốn bị ném vào thế hoang mang bối rối bởi những sự vật tôi không kiểm soát nổi. Tôi đã giết cha tôi và cưỡng hiếp mẹ tôi và giờ đây tôi đang nhận sâu trong chị gái tôi. Nếu có một lời nguyền trong toàn bộ chuyện này, tôi muốn trực diện đương đầu với nó và hoàn tất cái phận đã được hoạch định của mình. Cất cái gánh nặng khỏi vai và sống đúng là mình chứ không bị mắc kẹt trong những kế hoạch của một người nào khác. Đó là điều tôi thực sự muốn. Và tôi xuất tinh bên trong Sakura.
“Ngay cả trong mơ, cậu cũng không nên làm thế,” cái thằng tên là Quạ nói. Nó đi ngay sau tôi, trong rừng. “Tớ đã cố hết sức ngăn cậu. Tớ muốn cậu hiểu ra. Cậu có nghe thấy, nhưng cậu không nghe theo. Cậu cứ thế dấn tới.”
Tôi không trả lời, cũng chẳng ngoái lại, chỉ lặng lẽ bước tiếp.
“Mày tưởng bằng cách ấy, mày có thể hóa giải được lời nguyền, hở? Nhưng có được không?” Quạ hỏi.
Nhưng có được không? Mày đã giết cái người là cha mày, cưỡng hiếp mẹ mày và bây giờ đến chị gái mày. Mày tưởng làm thế sẽ dứt điểm được với lời nguyền mà cha mày yểm vào mày, cho nên mày làm tất cả những gì được dự báo về mày. Nhưng chẳng có gì thực sự chấm dứt. Mày chẳng hóa giải được gì hết. Lời nguyền đó đã được khắc dấu bằng sắt nung đỏ lên hồn mày, thậm chí còn sâu hơn trước. Giờ đây, mày nên nhận chân ra điều đó: rằng lời nguyền nằm trong gien của mày. Nó thoát ra bằng hơi thở của mày và gió cuốn nó đi bốn phương trời, nhưng hỗn độn t tăm vẫn ở lại bên trong mày. Nỗi sợ hãi, phẫn nộ, khắc khoải nơi mày không hề biến mất. Chúng vẫn ở trong mày, vẫn hành hạ mày.
“Nghe đây, không có cuộc chiến nào chấm dứt mọi cuộc chiến,” Quạ bảo tôi. “Chiến tranh nuôi chiến tranh. Bạo lực làm đổ bao nhiêu máu, nó cũng liếm hết, thức ăn của nó là da thịt đầy thương tích. Chiến tranh là một sinh vật tự tạo hoàn hảo. Mày cần hiểu điều đó.”
“Sakura… chị gái tớ,” tôi thốt lên. Lẽ ra tôi không nên hiếp chị ấy. Ngay cả trong mơ. “Tớ nên làm gì đây?” tôi hỏi to, mắt nhìn trân trân xuống đất phía trước mặt.
“Mày phải vượt lên nỗi sợ hãi và phẫn nộ bên trong mày,” cái thằng tên Quạ nói. “Hãy để ột luồng sáng rực rỡ rọi vào tim mày, làm tan băng giá trong đó. Chính vì thế nên mày mới phải luyện trí kiên cường. Hãy làm thế và mày sẽ thực sự trở thành trang thiếu niên mười lăm tuổi kiên cường nhất hành tinh. Mày có nghe thấy không? Vẫn còn kịp. Mày vẫn có thể vãn hồi bản ngã của mày. Hãy vận dụng cái đầu của mày. Nghĩ xem mày cần phải làm gì. Mày đâu phải là thằng đần. Mày ắt có thể nghĩ ra.”
“Có thật là tớ đã giết cha tớ không?” tôi hỏi.
Không có câu trả lời. Tôi quay ngoắt lại, nhưng cái thằng tên Quạ đã biến mất, chỉ có im lặng nuốt chửng câu hỏi của tôi.
Trơ trọi một mình trong rừng sâu, cái thằng tôi này cảm thấy trống rỗng, phải, trống rỗng kinh khủng. Oshima có lần dùng cụm từ những con người rỗng. Ờ, đích xác là tôi đã trở nên như thế đó. Có một khoảng trống trong tôi nó cứ bành trướng dần, nuốt hết những gì còn lại từ con người vốn là tôi. Tôi có thể nghe thấy điều ấy đang diễn ra. Tôi đi tong hoàn toàn rồi, mất tiêu bản sắc. Nơi tôi đang ở không có phương hướng, không có bầu trời, không có mặt đất. Tôi nghĩ đến Miss Saeki, đến Sakura, đến Oshima, nhưng họ ở cách xa tôi hàng năm-ánh-sáng. Như thể tôi nhìn ngược đầu một cái ống nhòm vậy. Dù có vươn tay ra xa đến mấy, tôi cũng không thể chạm tới họ. Tôi hoàn toàn đơn độc trong một mê cung tối om. Hãy lắng nghe gió, Oshima đã bảo tôi. Tôi lắng nghe, nhưng không có ngọn gió nào thổi qua. Ngay cả cái thằng tên là Quạ cũng đã biến mất tăm.
Hãy vận dụng cái đầu của mày. Nghĩ xem mày cần phải làm gì.
Nhưng tôi không thể nghĩ được nữa. Bất kể tôi cố gắng đến đâu, chung cuộc tôi vẫn tắc nghẽn trong mê cung. Cái gì trong tôi tạo nên tôi vậy? Nó có đủ sức đương đầu với khoảng trống kia không?
Giá như tôi có thể xóa bỏ cái thằng tôi đây, ngay tại chỗ và ngay bây giờ! Tôi xem xét ý tưởng này một cách nghiêm túc. Giữa bức tường-cây dày đặc này, trên con đường không ra đường này, nếu tôi ngừng thở, tôi sẽ lặng lẽ chôn vùi ý thức của mình vào bóng tối, dòng máu đen màu bạo lực của tôi sẽ rỉ ra đến giọt cuối cùng, gien của tôi sẽ rữa nát giữa đám cỏ dại. Lúc đó, cuộc chiến của tôi sẽ kết thúc. Bằng không, tôi sẽ mãi mãi tiếp tục giết cha tôi, cưỡng hiếp mẹ tôi, cưỡng hiếp chị gái tôi, mãi mãi, quất roi vào thế giới. Tôi nhắm mắt lại và cố tìm trung tâm của mình. Bóng tối phủ lên nó, xù xì và lởm chởm. Có một khoảng trống giữa những đám mây đen, tựa như nhìn qua cửa sổ thấy đám lá sơn thù du lấp lánh như hàng ngàn lưỡi dao dưới ánh trăng.
Đúng lúc ấy, tôi cảm thấy một cái gì đang tái tụ lại dưới làn da và nghe thấy một tiếng lanh tanh trong đầu. Tôi mở mắt ra và hít một hơi thật sâu. Tôi ném bình xịt sơn, chiếc rìu và la bàn đi. Tôi nghe thấy chúng rơi xuống đất, tiếng lách cách như vọng lại từ rất xa. Tôi cảm thấy mình nhẹ bỗng. Tôi trút ba lô khỏi vai và vứt sang bên. Xúc giác của tôi đột nhiên nhạy bén hẳn lên. Không khí quanh tôi trở nên trong ơn. Tôi cảm nhận sự hiện diện của rừng mạnh mẽ hơn. Khúc độc tấu ngoắt ngoéo như mê cung của Coltrane lại vang lên bất tận trong tai tôi.
Nghĩ đi nghĩ lại, tôi thọc tay vào ba lô lấy ra con dao săn và bỏ vào túi. Con dao sắc như lưỡi dao cạo tôi lấy trộm ở bàn giấy của cha tôi. Nếu cần, tôi có thể dùng nó để rạch cổ tay cho từng giọt máu trong tôi nhỏ xuống đất. Như thế sẽ hủy được cái cơ chế đó.
Tôi hướng vào tim của khu rừng – một con người rỗng, cái khoảng trống nuốt tiêu tất cả những gì là thể chất. Không còn gì để mà sợ nữa. Tuyệt đối không.
Và tôi hướng thẳng vào tim của khu rừng.
Chương 42
Khi chỉ còn hai người với nhau, Miss Saeki chỉ một chiếc ghế mời Nakata ngồi. Lão nghĩ một lúc trước khi ngồi xuống. Họ ngồi đó im lặng hồi lâu, nhìn nhau qua mặt bàn. Nakata đặt chiếc mũ giang hồ lên đùi và vò tới vò lui mái tóc húi cua. Miss Saeki đặt hai tay lên bàn, bình tĩnh quan sát mọi động tác của lão.
“Nếu tôi không lầm thì hình như tôi vẫn chờ bác tới,” bà nói.
“Lão tin là thế,” lão đáp. “Nhưng phải mất một thời gian, Nakata này mới tìm được tới đây. Hy vọng là đã không để bà chờ quá lâu. Lão đã cố hết sức để tới đây nhanh nhất.”
Miss Saeki lắc đầu. “Không, không sao cả. Nếu bác đến sớm hơn, hay muộn hơn một chút, có khi tôi lại thấy bối rối hơn cơ đấy. Đối với tôi, bây giờ là đúng lúc nhất.”
Cậu Hoshino đã rất tốt vớ lão và giúp đỡ lão rất nhiều. Nếu chỉ có mình lão, ắt còn phải lâu hơn nhiều. Chả là Nakata này không biết đọc mà.”
Hoshino là bạn bác?”
Vâng,” Nakata gật đầu đáp, “lão nghĩ thế. Cơ mà, nói thật tình, lão cũng không dám chắc lắm. Ngoài mèo ra, cả đời lão chả có ai khả dĩ có thể gọi là bạn.”
Tôi cũng vậy, đã lâu tôi không có ai là bạn,” Miss Saeki nói. “Ngoại trừ trong ký ức.”
Bà Saeki?”
Dạ?” bà đáp.
Thực ra, lão cũng chẳng có ký ức gì. Bà thấy đấy, lão vốn đần độn, vậy bà có thể giảng cho lão biết ký ức là thế nào không?”
Miss Saeki đăm đăm nhìn hai bàn tay mình trên bàn rồi lại ngước lên nhìn Nakata. “Ký ức làm ấm lòng ta từ bên trong, đồng thời nó cũng xé nát tim ta.”
Nakata lắc đầu. “Rắc rối lắm, Nakata này vẫn không hiểu. Lão chỉ hiểu độc một cái, đó là hiện tại.”
“Tôi thì hoàn toàn ngược lại,” Miss Saeki nói.
Im lặng sâu thẳm trùm lên căn phòng.
Nakata là người đầu tiên phá vỡ im lặng. Lão khẽ hắng giọng. “Bà Saeki?”
“Dạ?”
“Bà biết về phiến đá cửa vào chứ?”
“Vâng, tôi có biết,” bà nói và lướt ngón tay lên chiếc bút máy Mont Blanc trên bàn. “Cách đâu lắm rồi, tôi đã tình cờ gặp nó. Giá như tôi đừng bao giờ biết đến nó thì có lẽ lại tốt hơn. Nhưng trong chuyện này, tôi không có lựa chọn.”
Cách đây mấy hôm, Nakata này lại mở nó một lần nữa. Cái buổi chiều sấm chớp đùng đùng ấy. Cơ man nào là sét trút xuống thành phố. Một mình lão không mở nổi, cậu Hoshino đã giúp lão. Bà có biết lão nhắc đến ngày nào không?”
Miss Saeki gật đầu. “Có, tôi có nhớ.”
Lão mở nó là vì lão có bổn phận phải làm thế.”
“Tôi biết. Bác làm thế để sự vật lại đâu hoàn đấy.”
Đến lượt Nakata gật đầu. “Chính thế.”
“Và bác có quyền làm thế.”
“Cái ấy thì Nakata này không biết. Dù sao đi nữa, đó cũng không phải là lựa chọn của lão. Lão phải nói để bà biết: lão đã giết một người ở Nakano. Lão đâu có muốn giết ai, cơ mà Johnnie Walker đã buộc lão và lão đã thế chỗ cái cậu bé mười lăm tuổi đáng lẽ phải làm điều đó và lão đã giết. Nakata này buộc phải làm thế.”
Miss Saeki nhắm mắt lại rồi lại mở ra, nhìn thẳng vào mặt lão.
“Có phải mọi điều đó xảy ra chỉ vì bao năm trước đây, tôi đã mở phiến đá cửa vào? Có phải hành động đó của tôi đến giờ vẫn còn khiến mọi việc lộn tùng phèo?”
Nakata lắc đầu. “Bà Saeki?”
“Dạ?” bà đáp.
“Chuyấy, Nakata này không biết. Nhiệm vụ của lão là làm sao để sự vật trở lại đúng cách của nó. Vì thế nên lão mới rời Nakano, đi qua một cái cầu to tướng để đến Shikoku. Và như lão dám chắc bà đã biết, bà không thể ở đây nữa.”
Miss Saeki mỉm cười. “Tôi biết,” bà nói. “Đó là điều tôi đã mong muốn từ lâu, bác Nakata ạ. Điều mà trong quá khứ tôi đã ao ước, và bây giờ cũng vẫn đang ao ước. Tuy nhiên, bất kể tôi đã cố gắng đến đâu, tôi cũng không đạt được. Tôi chỉ còn biết ngồi chờ cho giờ phút đó đến – nói cách khác là lúc này đây. Sự chờ đợi ấy thật chả dễ dàng gì, nhưng đau khổ là điều tôi phải chấp nhận thôi.”
“Miss Saeki,” Nakata nói, “lão chỉ có nửa cái bóng thôi. Bà cũng thế.”
“Tôi biết.”
“Nakata mất nửa bóng kia trong thời kỳ chiến tranh. Lão không biết tại sao điều đó lại xảy ra và tại sao lại nhằm vào lão… Dù sao, biết bao thời gian đã qua đi kể từ đó. Và đã sắp đến lúc chúng ta phải rời khỏi đây.”
“Tôi hiểu.”
“Nakata này đã sống quá lâu rồi, nhưng như lão nói, lão chẳng có ký ức gì hết. Cho nên lão không chắc có hiểu đúng cái đau khổ bà vừa nhắc đến. Cơ mà lão nghĩ thế này: bất kể bà có phải đau khổ đến đâu, bà cũng không muốn rời bỏ những ký ức ấy.”
“Đúng thế,” Miss Saeki nói. “Càng níu giữ càng đau, nhưng tôi chẳng bao giờ muốn rời bỏ nó, chừng nào còn sống. Đó đã từng là lý do duy nhất khiến tôi tiếp tục sống, là điều duy nhất chứng tỏ tôi còn sống.”
Nakata lặng lẽ gật đầu.
“S lâu hơn mức cần thiết chỉ gây hại cho nhiều người và nhiều sự vật,” bà nói tiếp. “Mới đây, tôi đã có quan hệ tình dục với cậu bé mười lăm tuổi mà bác vừa nhắc tới. Trong căn phòng ấy, tôi lại trở thành cô gái mười lăm tuổi khi xưa và làm tình với cậu ta. Tôi không biết làm thế là đúng hay sai, nhưng tôi không đừng được. Dù sao những hành động ấy chắc chắn đã phá hại một cái gì khác. Đó là điều duy nhất khiến tôi hối tiếc.”
“Nakata này không biết gì về tình dục. Cũng như lão không có ký ức, lão không hề có khao khát tình dục. Cho nên lão không phân biệt được đúng, sai trong chuyện ấy. Cơ mà cái gì đã xảy ra là đã xảy ra. Lão chấp nhận tất cả những gì đã xảy ra, dù đúng hay sai, và chính như thế, lão mới ra con người như thế này.”
“Bác Nakata?”
“Dạ.”
“Tôi muốn xin bác ra ân ột điều,” Miss Saeki nhấc cái túi xắc dưới chân, lấy một chiếc chìa khóa nhỏ, mở một ngăn kéo bàn giấy, rồi rút ra mấy tập hồ sơ dày đặt lên bàn.
“Từ ngày trở về thành phố này,” bà nói, “tôi đã viết cái này. Một bản ghi về đời tôi. Tôi sinh ra ở gần đây và tôi đã yêu sâu sắc một người con trai sống trong ngôi nhà này. Tôi đã yêu đến mức tột cùng và anh ấy cũng yêu tôi sâu sắc. Chúng tôi sống trong một thứ vòng tròn khép kín hoàn hảo, ở đó mọi thứ đều trọn vẹn. Tất nhiên, điều đó không thể tiếp diễn mãi mãi. Chúng tôi lớn lên và thời thế đổi thay. Từng mảng của cái vòng tròn khép kín ấy đổ vỡ, thế giới bên ngoài tràn vào cái thiên đường riêng của chúng tôi và một số thứ trong đó thoát ra ngoài. Tôi nghĩ điều đó là hoàn toàn tự nhiên thôi, nhưng hồi đó, tôi không thể chấp nhận được. Và vì thế nên tôi mở phiến đá cửa vào để giữ cho cái thế giới riêng tư hoàn hảo của chúng tôi khỏi sụp đổ. Giờ tôi không nhớ nổi là mình đã làm cách nào để mở được, nhưng, lúc đó tôi đã quyết định phải mở n bằng mọi giá – cốt sao tôi khỏi mất anh ấy, sao cho những thứ từ bên ngoài không phá hủy được thế giới của chúng tôi. Hồi đó, tôi không biết được hậu quả của nó. Và đương nhiên, tôi đã bị trừng phạt.”
Bà dừng lại, cầm cây bút máy lên và nhắm mắt lại. “Cuộc đời tôi chấm dứt ở tuổi hai mươi. Từ đó trở đi, nó chỉ là một chuỗi bất tận những hồi tưởng, một cái hành lang tối mịt, ngoằn ngoèo chẳng dẫn tới đâu cả. Mặc dù thế, tôi vẫn phải sống tiếp, lay lắt từng ngày trống rỗng, tiễn từng ngày trống rỗng ra đi. Trong những ngày đó, tôi phạm biết bao sai lầm. Không, nói vậy chưa đúng – đôi khi tôi có cảm giác là mình chỉ làm độc có một việc: phạm sai lầm. Tôi cảm thấy như mình đang sống dưới đáy một cái giếng sâu, hoàn toàn khép kín trong bản thân mình, nguyền rủa số phận, căm ghét mọi thứ ở bên ngoài. Thỉnh thoảng, tôi mạo hiểm ra khỏi giếng, ra cái điều ta đây còn sống. Chấp nhận bất kỳ cái gì đến, đi qua cuộc đời một cách vô cảm. Tôi ngủ với nhiều đàn ông, có lúc đã gần như sống vợ chồng với ai đó, nhưng tất cả những cái đó đều vô ích. Mọi thứ qua đi trong khoảnh khắc, chẳng để lại gì ngoài những vết sẹo trên những thứ tôi làm tổn thương và khinh rẻ.
Bà đặt tay lên ba tập hồ sơ để trên bàn. “Tất cả các chi tiết đều ở trong này. Tôi viết cái này để sắp xếp lại đâu vào đấy, để một lần nữa xác định về cuộc đời mình đã sống. Tôi chỉ có thể tự trách mình thôi, nhưng đây quả là một quá trình đau đớn quặn ruột quặn gan. Và tôi đã hoàn tất nó. Tôi đã viết tất cả những gì cần được viết ra. Giờ tôi không cần nó nữa và tôi cũng chẳng muốn ai khác đọc nó. Nếu một người nào khác tình cờ để mắt đến nó, có thể nó sẽ lại gây hại nữa cũng nên. Cho nên tôi muốn đốt hết đi, đến trang cuối cùng, không sót lại chút gì. Nếu bác không quản ngại, tôi muốn bác làm hộ việc đó. Bác là người duy nhất tôi có thể nhờ cậy, bác Nakata. Tôi xin lỗi đã quấy rầy bác, nhưng liệu bác có vui lòng giúp tôi
“Nakata đã hiểu,” lão gật đầu nói, nghiêm túc. “Nếu bà muốn thế, bà Saeki, tôi rất vui lòng đốt hết cho bà. Bà yên tâm đi.”
“Cám ơn bác,” Miss Saeki nói.
“Viết ra những thứ này là một việc quan trọng, phải không?”
“Vâng. Quá trình viết mới là quan trọng. Ngay cả nếu thành phẩm hoàn toàn vô nghĩa.”
“Lão không biết đọc biết viết, nên không làm được việc đó. Nakata này giống như mèo vậy.”
“Bác Nakata?”
“Dạ, thưa bà?”
“Tôi có cảm giác như đã biết bác hàng thế kỷ rồi,” Miss Saeki nói. “Không hiểu bác có ở trong bức tranh ấy không nhỉ? Một bóng người in trên nền biển, phải chăng là bác? Ống quần trắng xắn lên, lội xuống nước?”
Nakata lặng lẽ đứng lên và đến trước mặt Miss Saeki. Lão đặt đôi bàn tay rắn rỏi, rám nắng của mình lên bàn tay bà trên chồng bản thảo. Và như thể chăm chú lắng nghe một cái gì đó, lão cảm thấy hơi ấm truyền từ tay bà sang tay lão. “Bà Saeki?”
“Dạ?”
“Lão nghĩ giờ lão đã hiểu được một chút.”
“Về cái gì?”
“Về ký ức là gì. Lão có thể cảm thấy nó, qua bàn tay bà.”
Bà mỉm cười. “Tôi rất sung sướng.”
Nakata giữ tay mình trên tay ồi lâu. Cuối cùng, bà nhắm mắt lại, lặng lẽ thả mình vào ký ức. Nỗi đau không còn ở trong đó nữa, như thể đã được ai đó hút kiệt đi mãi mãi. Vòng tròn khép kín trở lại nguyên vẹn. Bà mở cửa một căn buồng xa xưa và thấy hai hợp âm đẹp mang hình con thằn lằn ngủ trên tường. Bà khẽ khàng sờ vào chúng và cảm nhận thấy giấc ngủ bình yên của chúng. Một làn gió nhẹ thổi, thi thoảng làm sột soạt tấm rèm cũ. Tiếng sột soạt đầy ý nghĩa, như một dụ ngôn. Bà mặc chiếc áo dài màu xanh lơ. Chiếc áo bà đã mặc ở đâu đó, lâu lắm rồi. Tà áo khẽ lao xao theo nhịp bước của bà. Có thể nhìn thấy bờ biển bên ngoài cửa sổ. Và có thể nghe thấy tiếng sóng và tiếng một người nào đó. Trong gió thoang thoảng mùi biển. Và đây là mùa hè. Bao giờ cũng là mùa hè. Những đám mây trắng nhỏ in rõ nét như khắc trên nền trời xanh thẳm.
Nakata mang ba tập bản thảo dày xuống cầu thang. Oshima đang nói chuyện với một người khách ở quầy. Trông thấy Nakata, anh cười toét miệng. Nakata lễ phép cúi chào đáp lại và Oshima trở lại với cuộc trò chuyện. Suốt thời gian qua, Hoshino ở trong phòng đọc, chúi đầu vào một cuốn sách.
“Cậu Hoshino?” Nakata gọi.
Hoshino đặt sách xuống và ngước lên. “Chà, chuyện trò gì mà lâu thế. Xong rồi chứ?”
“Vâng, Nakata này xong việc ở đây rồi. Nếu cậu đồng ý, lão nghĩ ta có thể đi khỏi đây bây giờ.”
“Được thôi. Cháu đọc gần hết rồi. Beethoven vừa chết, đoạn này tả tang lễ. Chà, đám tang mới to làm sao! Hai mươi lăm nghìn dân thành Viên đi đưa, các trường học đều đóng cửa.”
“Cậu Hoshino?”
“Gì vậy ô”Lão muốn xin cậu một điều nữa.”
“Ông cứ nói.”
“Lão cần đốt cái này ở một nơi nào đó.”
Hoshino nhìn mấy tập bản thảo trên tay ông già. “Hừm, khối giấy đấy. Không thể đốt ở bất cứ chỗ nào. Phải tìm một lòng sông cạn hay nơi nào đại loại như thế.”
“Cậu Hoshino?”
“Dạ?”
“Vậy ta đi tìm một nơi như thế đi.”
“Có thể đây là một câu hỏi ngớ ngẩn, nhưng việc này có thực sự quan trọng đến thế không? Ta không thể ném quách nó vào một xó xỉnh nào được ư?”
“Phải, việc này rất quan trọng và chúng ta phải đốt kỳ hết cho nó thành khói bay lên trời. Và ta phải nhìn tận mắt, bảo đảm thấy nó cháy hết.”
Hoshino đứng dậy, vươn vai. “Ô-kê. Ta hãy đi tìm một lòng sông lớn. Cháu chưa biết cụ thể ở đâu, nhưng chắc chắn vùng Shikoku phải có một nơi như thế, nếu ta cất công tìm.”
Buổi chiều hôm ấy bận rộn hơn thường lệ. Rất đông độc giả đến thư viện, nhiều người đặt những câu hỏi chi tiết, đi sâu vào chuyên môn. Oshima ra sức trả lời, chạy ngược chạy xuôi tìm những tư liệu họ yêu cầu. Nhiều mục phải truy cập trên máy tính. Bình thường, anh có thể nhờ Miss Saeki giúp, nhưng hôm nay thì có vẻ không được. Nhiều việc linh tinh khiến anh phải rời khỏi quầy, thậm chí Nakata đi lúc nào anh cũng không biết. Khi đã vãn vãn được một lúc, anh nhìn quanh nhưng chẳng thấy bộ đôi kỳ dị ấy đâu. Oshima lên gác đến thư phòng Miss Saeki. Lạ thay, cửa vẫn đóng. Anh gõ hai lần và chờ, nhưng không thấy trả lời. Anh lại gõ lần nữa. “Miss Saeki?” anh gọi từ bên ngoài vào. “Cô không sao chứ?”
Anh khẽ xoay quả đấm. Cửa không khóa. Oshima mở hé một tí, nhòm vào. Và thấy Miss Saeki gục mặt xuống bàn. Tóc bà xõa xuống phía trước, che kín mặt. Anh không biết làm thế nào. Có thể bà chỉ mệt và ngủ thiếp đi thôi. Nhưng anh chưa một lần thấy bà ngủ chợp mắt như thế. Bà không bao giờ ngủ quên trong khi làm việc. Anh bước vào phòng, đi tới bên bàn. Cúi xuống và ghé tai bà khẽ gọi, nhưng không thấy trả lời. Sờ vai bà rồi nắm cổ tay và ấn ngón tay lên đó. Không thấy mạch. Da bà vẫn còn hơi âm ấm, nhưng chút hơi ấm ấy đã bắt đầu tan dần.
Anh vén mớ tóc lên nhìn kỹ mặt bà. Cả hai mắt đều he hé. Kiểu như bà đang có một giấc mơ thú vị, nhưng không phải thế. Bà đã chết. Vẫn còn thoáng chút dấu vết một nụ cười trên môi bà. Ngay cả trong cái chết, bà vẫn duyên dáng và quyền quý, Oshima nghĩ thầm. Anh buông mớ tóc bà xuống và nhấc máy điện thoại lên bàn.
Anh đã đành lòng chấp nhận cái thực tế là ngày này sớm muộn rồi cũng đến, nhưng giờ đây khi nó đến và chỉ có mình anh trong căn phòng lặng lẽ với một Miss Saeki đã chết, thì anh lại hoang mang không biết làm gì. Anh cảm thấy trái tim mình đã khô quắt lại. Mình cần Miss Saeki, anh nghĩ thầm. Mình cần một người như bà để lấp đầy khoảng trống bên trong mình. Nhưng mình đã không thể lấp đầy khoảng trống bên trong bà. Cho đến phút cuối cùng, sự trống rỗng bên trong bà vẫn chỉ là của mình bà thôi.
Có người gọi tên anh từ dưới nhà. Ít nhất là anh cũng cảm thấy thế. Anh đã để cửa mở rộng và có thể nghe thấy tiếng người lao xao dưới đó. Chuông điện thoại reo ở tầng một. Anh mặc kệ. Anh ngồi xuống và trân trân nhìn Miss Saeki. Ai muốn gọi tên tôi ư, thì cứ việc gọi, anh nghĩ. Ai muốn gọi điện thoại ư, xin mời. Cuối cùng, Oshima nghe thấy tiếng còi cứu đến gần. Lát nữa thôi, người ta sẽ ào lên gác để mang bà đi – mãi mãi. Anh giơ tay trái lên xem đồng hồ: 4g35. Bốn giờ ba mươi lăm phút một chiều thứ Ba. Mình phải nhớ ngày giờ này, anh nghĩ. Mình phải nhớ ngày này, buổi chiều này, mãi mãi.
“Kafka Tamura,” anh thì thầm, đăm đăm nhìn bức tường, “anh sẽ kể cho em nghe điều gì vừa xảy ra. Nếu như em chưa biết.”