Kafka bên bờ biển

Chương 35-36


Bạn đang đọc Kafka bên bờ biển: Chương 35-36


Chương 35
Khi chuông điện thoại réo vào lúc bảy giờ sáng, tôi vẫn còn ngủ say. Trong giấc mơ, tôi đang ở tít dưới một cái hang, lom khom trong bóng tối, tay cầm đèn pin soi tìm một cái gì đó. Tôi nghe thấy tiếng ai gọi tên mình văng vẳng từ tít tận cửa hang. Tôi gào lên trả lời, nhưng người đó hình như không nghe thấy và cứ tiếp tục gọi tên tôi. Cực chẳng đã, tôi đứng thẳng dậy và bắt đầu đi ra phía cửa hang. Chỉ một chút nữa thôi là mình đã có thể vớ được vật đang tìm kiếm, tôi tiếc rẻ nghĩ thầm. Nhưng đồng thời, tôi cũng thở phào nhẹ nhõm vì đã không tìm thấy nó. Chính lúc đó, tôi choàng tỉnh dậy. Tôi nhìn quanh, cố gom những mảnh ý thức vương vãi, định thần lại và nhận ra là chuông điện thoại đang reo từ quầy tiếp tân của thư viện. Ánh mặt trời rực rỡ chiếu qua rèm cửa sổ và Miss Saeki không còn bên tôi nữa. Chỉ trơ một mình tôi trên giường.
Tôi nhảy ra khỏi giường, mặc vội áo phông, quần đùi và chạy tới nghe điện thoại. Phải mất một lúc tôi mới tới được đó, nhưng chuông vẫn còn reo.
“Alô?”
“Cậu đang ngủ à?” Oshima hỏi.
“Vâng.”
“Xin lỗi đã đánh thức cậu sớm thế vào một ngày nghỉ, nhưng chúng ta đang có vấn đề.”
“Có vấn đề?”
“Mình sẽ cho cậu biết sau, nhưng tốt nhất là cậu nên lánh khỏi đây một thời gian. Ta phải đi sớm, nên cậu hãy chuẩn bị sẵn sàng đ. Khi mình tới, cậu cứ ra bãi đỗ xe và vào thẳng xe mình, đừng hỏi han gì. Ô-kê?”
“Ô-kê,” tôi đáp.
Tôi trở về phòng và gói ghém hành lý. Không việc gì phải hấp tấp vì chỉ cần năm phút là đã xong xuôi. Tôi lấy các đồ giặt phơi trong buồng tắm, nhét dụng cụ vệ sinh, sách và nhật ký vào ba lô, rồi mặc quần áo và soạn lại giường gọn gàng – kéo drap cho phẳng phiu, vỗ mặt gối cho căng đều trở lại, gấp chăn mền cho ngay ngắn, xóa mọi dấu vết của những gì diễn ra đêm qua. Rồi ngồi xuống ghế và nghĩ về Miss Saeki mới cách đây mấy giờ còn ở bên tôi.
Tôi còn thì giờ để điểm tâm một bát bánh đa ngô. Rửa bát, thìa và cất đi. Đánh răng, rửa mặt. Đang soi gương thì nghe thấy tiếng chiếc Miata vào bãi đỗ.
Mặc dù trời rất đẹp, Oshima vẫn kéo mui xe lên. Tôi khoác ba lô lên vai, bước tới chỗ xe đậu, leo vào ghế cạnhh tay lái. Như lần trước, Oshima cột chặt ba lô của tôi ở phía sau. Anh đeo kính râm kiểu Armani, mặc một chiếc sơ mi lanh kẻ sọc bên ngoài áo phông trắng cổ chữ V, quần jeans trắng và đi giày Corverse All-Stars cổ thấp màu xanh nước biển.
Anh đưa tôi một chiếc mũ lưỡi trai màu xanh nước biển mang logo North Face. “Bữa nọ cậu nói là đã đánh mất mũ, phải không? Hãy dùng tạm cái này, nó sẽ che bớt mặt cậu đi một chút.”
“Cám ơn,” tôi nói và kéo sụp chiếc mũ xuống.
Oshima duyệt lại hình ảnh tôi dưới chiếc mũ và gật đầu phê chuẩn. “Cậu có kính râm chứ?”
Tôi gật đầu, rút từ trong túi ra cặp kính Revos màu xanh da trời và đeo lên mắt.
“Rất bảnh,” anh nói. “Cậu thử quay ngược mũ ra đằng sau xem nào.”
Tôi làm theo lời anh, xoay mũ ra đằng sau.
Oshima lại gật đầu. “Tuyệt. Nom cậu như một ca sĩ rap con nhà tử tế.” Anh sang số một, từ từ dận ga và nhả phanh.
“Chúng ta đi đâu? tôi hỏi.
“Vẫn chỗ cũ lần trước.”
“Vùng núi Kochi?”
Oshima gật đầu. “Phải. Lại một cuốc xe dài.” Anh bật máy nghe nhạc. Một bản Mozart vui tươi tôi đã từng nghe. Hình như là Posthorn Serenade thì phải.
“Cậu đã chán vùng núi chưa?”
“Không, em thích chỗ ấy. Yên tĩnh và có thể tha hồ đọc.”
“Tốt,” Oshima nói.
“Vậy vấn đề anh nhắc tới lúc nãy là thế nào?”
Oshima phóng một cái nhìn nhăn nhó vào kính chiếu hậu, liếc về phía tôi rồi lại quay mặt về phía trước. “Thứ nhất là cảnh sát lại sờ đến mình. Đêm qua, họ phôn ình. Nghe như họ thực sự bắt tay vào truy tìm cậu. Xem ra họ làm rất ráo riết.”
“Nhưng em có chứng cứ ngoại phạm cơ mà?”
“Phải, một chứng cứ ngoại phạm rất vững. Ngày hôm xảy ra vụ án mạng, cậu đang ở Shikoku. Họ không nghi ngờ điều đó. Họ nghĩ là có thể cậu đã âm mưu với một người nào khác.”
“m mưu
“Có thể cậu có một đồng lõa.”
“Đồng lõa?” tôi lắc đầu. “Họ mọi đâu ra cái ý ấy?”
“Họ rất kín miệng về chuyện này. Khi thẩm vấn thì họ dồn ép người ta, nhưng khi người ta hỏi lại thì họ làm lơ. Cho nên cả đêm mình lướt mạng, tải xuống những thông tin về vụ này. Cậu có biết họ đã lập vào website về nó không? Cậu đã trở nên nổi tiếng. Chàng hoàng tử phiêu lãng nắm giữ chìa khóa của bí mật!”
Tôi khẽ nhún vai. Hoàng tử phiêu lãng?
“Với những thông tin trên mạng, thật khó tách biệt sự việc thật với suy diễn do ước muốn, nhưng ta có thể tóm tắt như sau: Cảnh sát hiện đang tìm kiếm một người khoảng gần bảy mươi tuổi. Đêm xảy ra vụ án mạng, ông ta xuất hiện ở một trạm cảnh sát gần khu phố buôn bán Nogata và thú nhận là vừa giết một ai đó trong vùng. Nói là đã dùng dao đâm người kia. Nhưng ông ta cũng tuôn ra đủ các chuyện chẳng ra đâu vào đâu đến nỗi viên cảnh sát trẻ trực đêm tưởng ông ta điên dại nên tống khứ ông đi mà không nghe hết đầu đuôi câu chuyện. Cố nhiên, khi vụ án mạng được phát hiện, viên cảnh sát mới biết là mình đã sai lầm. Anh ta thậm chí đã không buồn ghi tên hoặc địa chỉ của ông già, chuyện này nếu cấp trên biết thì lôi thôi to, thế nên anh ta giấu nhẹm đi không nói gì. Nhưng một chuyện gì đó đã xảy ra – mình không biết cụ thể là chuyện gì – và tất cả vỡ lở. Tất nhiên, viên cảnh sát bị kỷ luật. Tội nghiệp, có lẽ anh ta sẽ không bao giờ nguôi hối tiếc.”
Oshima giảm số, vượt một chiếc Toyota Tercel màu trắng rồi lại lẹ làng trở về làn đường của mình. “Cảnh sát huy động tổng lực và có thể tìm ra ông già. Họ không nắm được lai lịch cụ thể của ông ta, nhưng hình như đó là một người thiểu năng trí tụê. Không hẳn là ngây dại nhưng hơi tàng tàng. Ông ta sống một mình ằng trợ cấp cứu tế xã hội và sự giúp đỡ của một số bà con. Nhưng rồi ông bỗng biến mát khỏi nhà. Cảnh sát dò theo dấu vết của ông và nghĩ rằng ông đã đi nhờ xe từng chặng theo hướng Shikoku. Một tay lái xe buýt liên tỉnh ngờ ngợ rằng một người có đặc điểm nhận dạng như thế đã đáp xe anh ta ở Kobe. Sở dĩ anh ta nhớ là vì ông lão có cách nói chuyện khác thường và kể những điều kỳ dị. Hình như ông đi cùng với một thanh niên trạc hai lăm hai sáu tuổi. Hai người xuống xe ở ga Tokushima. Cảnh sát tìm ra lữ quán họ đã trọ và, theo một bà nội trợ, họ đã đáp tàu đi Takamatsu. Hành trình của ông già và của cậu y hệt nhau. Cả hai cùng rời Nogota thuộc quận Nakano và hướng thẳng tới Takamatsu. Một sự trùng hợp hơi quá khớp để có thể coi là ngẫu nhiên, cho nên đương nhiên là cánh át ngờ răng hai người đã cùng nhau vạch ra toàn bộ kế hoạch. Thậm chí Cục Cảnh sát Quốc gia cũng vào cuộc và hiện họ đang rà soát thành phố này. Không thể giấu cậu ở thư viện được nữa, nên mình quyết định đưa cậu về lánh ở vùng núi.”
“Một ông già thiểu năng trí tụê ở Nakano?”
“Có khiến cậu nhớ ra điều gì không?”
Tôi lắc đầu. “Không.”
“Địa chỉ của ông ta cách nhà cậu không xa. Đi bộ mất khoảng mươi lăm phút.”
“Nhưng có biết bao nhiêu người ở Nakano. Em thậm chí không biết ai ở cạnh nhà mình.”
“Còn điều này nữa,” Oshima nói và liếc nhìn tôi. “Ông ta là người đã làm cho cá thu và cá mòi từ trên trời rơi xuống khu phố buôn bán Nogata. Ít nhất thì ông cũng cảnh báo điều đó cho viên cảnh sát trẻ một hôm trước khi sự việc xảy ra.”
“Thật kỳ lạ.”
“Phải không?” Oshima nói. “Và cùng ngày, vào buổối,một khối lượng lớn đỉa trút xuống trạm dừng nghỉ Jujigawa trên xa lộ Tomei. Cậu nhớ không?”
“Vâng, em có nhớ.”
“Tất nhiên, không một sự việc nào trong số này lọt khỏi mắt cảnh sát. Họ đoán hẳn phải có một mối liên hệ nào đó giữa những sự kiện này và con người bí hiểm họ đang truy tìm. Vì tất cả đều diễn ra trên đường đi của ông.”
Khúc nhạc Mozart kết thúc và một bản khác bắt đầu.
Tay đặt trên vô lăng, Oshima lắc đầu mấy lần liền. “Một loạt diễn biến thật lạ lùng. Bắt đầu đã kỳ quặc và càng ngày càng kỳ quặc. Không thể tiên đoán được điều gì sẽ xảy ra tiếp theo. Tuy nhiên có một điều chắc chắn là: tất cả dường như đều hội tụ về đây. Đường đi của ông già và của cậu tất phải giao nhau.”
Tôi nhắm mắt lại, lắng nghe tiếng động cơ ro ro. “Có lẽ em nên đến một thành phố nào khác,” tôi nói với anh. “Ngoại trừ mọi cái khác, em không muốn gây thêm rắc róố cho anh hoặc Miss Saeki.”
“Nhưng cậu sẽ đi đâu?”
“Em chưa biết. Nhưng em sẽ nghĩ ra nếu anh đưa em đến nhà ga. Điều đó không thực sự quan trọng.”
Oshima thở dài. “Mình không nghĩ đó là một ý hay. Nhà ga ắt nhan nhản những cớm truy lùng một thiếu niên mười lăm tuổi bảnh trai, cao lớn, đeo một cái ba lô và một mớ ám ảnh.”
“Thế thì cho em tới một ga nào xa xa không có cảnh sát lùng sục.”
“Cũng vậy thôi. Trước sau, họ cũng tìm ra Tôi lặng thinh.

“Nghe này, hiện họ chưa có lệnh bắt giữ cậu. Cậu chưa ở trong danh sách bị truy nã khẩn cấp, rõ không?”
Tôi gật đầu.
“Có nghĩa là cậu còn tự do. Cho nên tôi có thể đưa cậu đến bất kỳ nơi nào tôi muốn mà không cần phải xin phép ai. Tôi không vi phạm pháp luật. Thậm chí đến tên thật của cậu tôi cũng không biết, Kafka. Bởi vậy đừng có lo cho tôi. Tôi là người rất thận trọng. Chẳng ai tóm được tôi dễ dàng thế đâu.”
“Anh Oshima!”
“Gì vậy?”
“Em không bày mưu tính kế với ai cả. Nếu em định giết cha em, em ắt không nhờ ai làm hộ.”
“Mình biết.”
Anh dừng xe trước một đèn đỏ, chỉnh lại kính chiếu hậu, ngậm một viên kẹo chanh và mời tôi một viên.
Tôi bỏ tọt viên kẹo vào mồm. “Rồi sao nữa?”
“Cái gì sao nữa?”
“Lúc nãy, anh nói thứ nhất là – lý do khiến em phải lánh về vùng núi. Nếu có thứ nhất thì phải có thứ hai chứ.”
Oshima trừng trừng nhìn cái đèn đỏ nhưng nó vẫn chưa chịu chuyển màu. “So với điểm thứ nhất, thì điểm thứ hai không quan trọng.”
“Dù sao em vẫn muốn nghe.”
“Đó là về Miss Saeki,” Oshima nói. Cuối cùng, đèn cũng chuyển xanh và anh dậ. “Cậu đã ngủ với bà ấy phải không?”
Tôi không biết trả lời ra sao.
“Đừng lo, mình không trách cứ cậu đâu. Mình chỉ linh cảm thế thôi. Bà là một con người tuyệt vời, một phụ nữ rất hấp dẫn. Bà rất… đặc biệt, theo mọi cách. Dĩ nhiên, bà lớn tuổi hơn cậu nhiều, nhưng có sao? Mình hiểu được sức hút của bà đối với cậu. Cậu muốn làm tình với bà, tại sao không? Bà muốn làm tình với cậu? Thì cứ việc. Chẳng bận gì đến mình. Nếu hai người ngon lành, mình cũng thấy tốt thôi.” Oshima xoay viên kẹo chanh lòng vòng trong mồm. “Nhưng mình nghĩ tốt nhất hai người nên giữ khoảng cách trong một thời gian. Và mình nói vậy không phải là vì cái chuyện rắc rối chết tiệt ở Nakano.”
“Vậy thì tại sao?”
“Bà ấy đang ở một tình thế rất mong manh.”
“Như thế nào?”
“Miss Saeki…” anh mào đầu, rồi tìm chữ. “Mình muốn nói là bà đang chết. Mình cảm thấy điều đó từ lâu rồi.”
Tôi nhấc cặp kính râm lên và nhìn anh thật kỹ. Anh đang nhìn thẳng phía trước, tay cầm lái. Xe vừa vào xa lộ đi Koichi. Lần này, lạ lùng thay, anh chạy trong vòng giới hạn tốc độ. Một chiếc Toyota Supra lao đánh vèo vượt qua chúng tôi.
“Khi anh nói bà đang chết..” tôi ấp úng. “Có nghãi là bà mắc bệnh nan y? Ung thư hay máu trắng hay gì đó tương tự?”
Oshima lắc đầu. “Có thể. Mình không biết đích xác về tình trạng sức khỏe của bà. Có thể bà mắc một bệnh thuộc loại ấy. Nhưng mình nghĩ nó thiên về tâm lý hơn. Liên quan đến ý chí sống – đại lo
“Anh muốn nói là bà không muốn sống nữa?”
“Mình nghĩ thế. Mất ý chí muốn tiếp tục sống.”
“Anh có nghĩ bà sẽ tự tử không?”
“Không, mình không nghĩ thế,” Oshima đáp. “Chỉ đơn giản là bà đang đi đến cái chết, rất từ từ nhưng rất chắc chắn.”
“Như một đoàn tàu hướng tới ga?”
“Đại loại như thế,” Oshima nói, rồi dừng bặt, môi mím chặt. “Thế rồi, Kafka,” anh nói tiếp, “bỗng nhiên cậu xuất hiện, ngon lành như trái dưa tươi và bí hiểm như chàng Kafka thật. Hai người bị hút vào nhau và bắt đầu – cho phép mình dùng cái từ cổ lỗ này – dan díu với nhau.”
“Thế rồi sao?”
Oshima buông cả hai tay khỏi vô lăng một thoáng. “Thế rồi thế đấy.”
Tôi chậm rãi lắc đầu. “Em dám chắc anh đang nghĩ em chính là đoàn tàu.”
Hồi lâu, Oshima không nói gì. “Chính xác,” cuối cùng, anh bật ra. “Có thế thật, chính xác.”
“Nghĩa là em mang cái chết đến với bà?”
“Cậu nên nhớ là mình không trách cậu về chuyện ấy. Thực tế, thế mà lại tốt cơ đấy.”
“Tại sao?”
Anh không trả lời. Cậu phải tự tìm ra câu trả lời, sự im lặng của anh nhủ tôi vậy. Hoặc có thể là: Cái đó quá hiển nhiên, việc gì phải nghĩ.
Tôi ngả người vào lưng ghế, nhắm mắt lại và thả lỏng người. “Anh Oshima!”
“Em chẳng còn biết làm gì nữa. Thậm chí em không biết mình đang hướng tới đâu. Cái gì là đúng, cái gì là sai, nên tiếp tục tiến tới hay nên quay lui – em vô cùng hoang mang.”
Oshima lặng thinh, không trả lời.
“Anh phải giúp em. Em phải làm gì bây giờ?” tôi hỏi anh.
“Cậu chẳng phải làm gì hết,” anh đáp gọn lỏn.
“Không làm gì hết?”
Anh gật đầu. “Vì thế nên tôi mới đưa cậu về lại vùng núi.”
“Nhưng em nên làm gì khí tới đó?”
“Chỉ việc nghe gió thôi,” anh nói. “Xưa nay mình vẫn làm thế mà.”
Tôi ngẫm nghĩ về điều đó.
Anh dịu dàng đặt tay lên tay tôi. “Có biết bao điều không phải lỗi tại cậu. Cũng chẳng phải lỗi tại mình. Chẳng phải tại những tiên đoán hay những lời nguyền. Chẳng phải tại gien, cũng chẳng phải tại sự phi lý. Chẳng phải tại chủ nghĩa cấu trúc hay cuộc cách mạng công nghiệp thứ ba. Tất cả chúng ta đều sẽ chết và biến mất, nhưng đó là vì thế giới vốn dựa trên một cơ chế của hủy diệt và tiêu vong. Cuộc đời chúng ta chỉ là những cái bóng của cái nguyên lý chủ đạo ấy. Chẳng hạn như gió thổi. Đó có thể là một cơn gió mạnh, dữ dội hay một làn gió nhẹ. Nhưng rốt cuộc, mọi kiểu gió rồi cũng tắt và biến mất. Gió không có hình dạng. Nó chỉ là sự chuyển động của không khí. Cậu nên lắng nghe thật kỹ, rồi cậu sẽ hiểu ẩn dụ đó.”
Tôi siết chặt tay anh. Bàn tay mềm và ấm. Bàn tay mượt mà, sang nhã, phi giới tính. “Vậy theo anh, ngay lúc này, em nên tạm tách xa Miss Saeki thì tốt hơn, đúng không?”
“Mình nghĩ thế đấy, Kafka ạ. Ngay bây giờ đó là điều tối ưu. Chúng ta nên để bà một mình. Bà là người thông minh và kiên cường. Bà đã chịu đựng được sự cô đơn khủng khiếp trong một thời gian dài đằng đẵng với bao ký ức đau đớn. Bà có thể tự quyết định bất cứ điều gì cần cho bản thân.”
“Vậy ra em chỉ là một thằng nhóc nhiễu sự?”
“Mình không có ý ấy,” Oshima nhẹ nhàng nói. “Hoàn toàn không phải thế. Cậu đã làm những gì cậu phải làm. Những điều có ý nghĩa đối với cậu cũng như với Miss Saeki. Hãy để bà lo nốt phần còn lại. Nói thế này nghe có vẻ phũ phàng, nhưng hiện giờ, cậu không thể làm gì cho bà đâu. Cậu cần đi về miền núi và làm việc riêng của mình. Với cậu, bây giờ là đúng lúc.”
“Làm việc riêng của mình?”
“Hãy dỏng tai lên, Kafka,” Oshima đáp. “Hãy lắng nghe. Hãy tưởng tượng mình là một con nghêu hay con sò.”
Chương 36
Khi trở về nhà trọ, Hoshino thấy Nakata vẫn ngủ miết – chả có gì là lạ. Chiếc túi đựng bánh mì và nước cam gã để cạnh lão vẫn nguyên đó, chưa được đụng đến. Ông già không mảy may thay đổi tư thế, có lẽ suốt thời gian qua, không hề thức giấc lấy một lần. Hoshino nhẩm tính: Nakata ngủ từ hai giờ chiều hôm trươc, vậy là đẫy ba mươi tiếng. Nhưng hôm nay là ngày thứ mấy rồi nhỉ? Hoshino tự hỏi. Gã đã hoàn toàn quên trình tự thời gian. Gã lấy cuốn sổ ghi nhớ ra để kiểm tra. Xem nào, gã tự nhủ, hai ông con đến Tokushima trên chuyến xe buýt từ Kobe hôm thứ Bảy, rồi ông Nakata ngủ đến thứ Hai. Rời Tokushima đi Takamatsu cũn vào hôm thứ Hai. Thứ Năm là ngày náo động với cuộc vận lộn lật phiến đá giữa sấm chớp đùng đùng, và chiều hôm ấy, ông lão bắt đầu ngủ. Đã qua một đêm, vậy hôm nay đã là… là thứ Sáu. Cứ như là ông lão đến Shikoku để dự một Festival Ngủ vậy.

Cũng như đêm trước, sau khi tắm, Hoshino xem tivi một lúc rồi ngả lưng trên tấm nệm futon. Nakata vẫn thở bình yên trong giấc ngủ say. Thôi kệ, đến đâu thì đến, Hoshino nghĩ. Cứ để ông lão ngủ cho đã. Khỏi cần phải lo chuyện ấy. Và chính gã cũng ngủ thiếp đi lúc mười rưỡi.
Năm giờ sáng hôm sau, chuông điện thoại di động trong túi dết làm gã choàng thức. Nakata vẫn say sưa giấc nồng.
Hoshino vớ lấy điện thoại. “Alô.”
“Cậu Hoshino?” Một giọng đàn ông.
“Đại tá Sanders?” Hoshino nhận ra giọng ông ta.
“Chính ta đây. Thế nào, khỏe mạnh chứ?”
“Cũng khá… Nhưng làm sao ông biết được số điện thoại này. Tôi có cho ông đâu, mà tôi luôn luôn tắt máy để cho cái bọn nhăng nhố cùng xường khỏi quấy rầy tôi. Vậy làm thế nào mà ông gọi được tôi? Như kiểu ông theo dõi tôi vậy.”
“Thì như ta đã nói với cậu, ta không phải là thần, phật mà cũng chẳng là người. Ta là một cái gì khác – một khái niệm. Cho nên làm cho điện thoại di động của cậu đổ chuông là chuyện dễ như bỡn. Trò trở hay tắt máy cũng thế thôi, chả khác một mảy, anh bạn ạ. Đừng ngạc nhiên vì những cái vặt vãnh như vậy, Ô-kê? Lẽ ra ta có thể chạy đến và ngồi ngay cạnh cậu lúc cậu thức giấc, nhưng ta nghĩ làm thế ắt sẽ khiến cậu bị sốc.”
“Khỏi phải nói.”
“Cho nên ta mới phôn trước. Dù sao ta cũng là người lịch sự.”
“Cám ơn,” Hoshino nói. “Vậy chúng ta phải làm gì với phiến đá đây? Ông Nakata và tôi đã lật được nó, vậy là cửa vào đã mở. Ngoài trời sấm chớp như điên và phiến đá nặng đến cả tấn. À, phải… tôi quên chưa nói với ông về Nakata. Đó là ông già cùng đi với tôi.”
“Ta biết mọi chuyện về Nakata, khỏi phải giải thích,” Đại tá Sanders nói.
“Thế ư?” Hoshino nói. “Ô-kê… Sau đó, Nakata đã chìm vào giấc “ngủ đông” và phiến đá vẫn nằm đây. Ông có nghĩ là ta nên mang trả nó về miếu đường không? Ta có thể bị thánh vật vì đã mang nó đi mà không được phép.”
“Cậu không bỏ cái ý nghĩ đó đi được à? Đã bao lần ta bảo cậu là chả có thành nào vật cả,” Đại tá Sanders ngán ngẩm nói. “Cứ tạm giữ phiến đá ở đó. Các người đã mở nó và cuối cùng các người sẽ phải đóng nó lại. Rồi thì cậu có thể mang nó trả về chỗ cũ. Nhưng bây giờ thì chưa phải lúc. Hiểu chưa? Ô-kê?”
“Ô-kê, tôi hiểu,” Hoshino nói. “Cái gì đã mở ra thì phải đóng lại. Mượn cái gì, lúc trả lại phải nguyên như thế. Được rồi. Dù sao, tôi cũng đã quyết định không nghĩ ngợi lôi thôi nữa. Tôi sẽ nghe theo bất kỳ cái gì ông muốn, cho dù nó có vẻ điên khùng đến đâu chăng nữa. Đêm qua, tôi ngộ ra một điều: coi những cái điên khùng là thực, quả là… thực sự lãng phí thời gian.
“Một kết luận rất chi là khôn ngoan. Tục ngữ có câu: Suy nghĩ vô bổ còn tệ hại hơn là chẳng suy nghĩ gì.”
“Tôi thích câu ấy.”
“Rất chí lý, phải không?”
“Ông đã bao giờ nghe câu tục ngữ: Đồi trọc lóc nhóc tóc tiên bóc cọc quả cóc lăn lóc chưa?”
“Thế nghĩa là cái cóc khô gì?”
“Một câu làm líu lưỡi. Tôi bịa ra.”
“Cậu có chủ ý gì?”
“Chả chủ ý gì cả. Tôi chỉ bỗng dưng thích xướng nó lên thôi.”
“Cậu có thôi trò dấm dớ đi không? Ta không mấy kiên nhẫn với những trò ngớ ngẩn. Nếu cậu tiếp tục thì ta phát điên mất.”
“Xin lỗi,” Hoshino nói. “Nhưng rốt cuộc, ông gọi tôi có việc gì đấy? Chắc ông phải có lý do gì mới gọi sớm thế chứ?”
“Phải, ta quên bẵng đi mất,” Đại tá Sanders nói. “Thế này nhé, ta muốn cậu rời nhà trọ ngay lập tức. Không ăn sáng nữa. Đánh thức ông Nakata dậy, ẵm phiến đá lên và đi luôn. Kiếm một chiếc taxi, nhưng đừng để nhà trọ gọi. Ra phố chính mà vẫy. Rồi đưa địa chỉ này cho lái xe. Có bút ghi không?”
“Có, đợi một giây,” Hoshino đáp và vớ lấy một cây bút và cuốn sổ tay từ túi đeo. “Chổi và xẻng hót rác đã sẵn sàng!”
“Xin đủ những câu đùa ấm ớ của cậu!” Đ Sanders quát lên trong máy. “Ta đang nói chuyện nghiêm túc đây. Đâu có phút nào để phí phạm.”
“Ô-kê, ô-kê. Đọc đi.”
Đại tá Sanders đọc địa chỉ và Hoshino ghi rồi nhắc lại để kiểm tra cho chắc ăn: “3-16-5, căn hộ 308, Takamatsu Park Heights. Đúng chưa?”
“Tốt,” Đại tá Sanders đáp. “Cậu sẽ thấy chìa khoá dưới giá để ở ô cửa trước. Mở khóa vào nhà, ở lại đó bao lâu tùy thích. Ở đó, sẵn có đồ ăn thức uống dự trữ cùng các vật dụng, nên tạm thời các người không cần phải ra ngoài.”
“Đó là chỗ ở của ông?”
“Quả vậy. Nhưng ta không phải là chủ sở hữu, ta thuê cho các người dùng. Vậy nên cứ thoải mái nhé.”
“Đại tá?”
“Gì?”
“Ông bảo ông không phải là thần, phật mà cũng chẳng phải là người?”
“Đúng.”
“Vậy tôi đồ rằng ông không thuộc thế giới này.”
“Cậu hiểu ra rồi đấy.”
“Vậy làm sao ông thuê được một căn hộ? Ông không phải là người, do đó không có các giấy tờ cần thiết, phải không nào? Sổ gia đình, đăng ký hộ tịch, chứng từ thu nhập có dán tem, đóng dấu và đủ thứ linh tinh. Nếu không có những thứ ấy, chẳng ai cho ông thuê nhà. Ông có lừa họ không? Chẳng hạn làm ảo thuật biến tờ giấy trắng thành văn bản chính thức có dấu má hẳn hoi? Đã khá những chuyện khu tất rồi, tôi không muốn dính líu thêm nữa.”
“Cậu chẳng hiểu gì cả!” Đại tá Sanders tặc lưỡi, nói. “Cậu đúng là chúa ngốc, đã óc bã đậu lại không cảnh sát xương sống. Giấy trắng? Cậu nghĩ ta là gì, một tên ảo thuật gia bú dù à? Ta là một khái niệm, hiểu không? K-h-á-i n-i-ệ-m! Khái niệm với bú dù khác xa nhau. Thật đần độn… Cậu thực sự nghĩ là ta đã đến gặp nhân viên nhà đất, điền vào các tờ khai, mặc cả với họ để giảm bớt giá tiền thuê nhà sao? Lố bịch! Ta có một cô thư ký lo liệu các chuyện trần thế. Thư ký của ta chuẩn bị tất cả các tài liệu cần thiết. Chứ cậu tưởng thế nào?”
“À… hóa ra ông có một cô thư ký.”
“Hẳn nhiên rồi. Chứ cậu nghĩ ta là ai? Cậu trật quá xa rồi đấy. Ta là một người bận rộn, vậy tại sao ta lạ không có thư ký riêng?”
“Ô-kê, ô-kê, đừng nổi đóa nữa. Tôi chỉ đùa ông thôi mà. Nhưng tại sao chúng tôi lại phải rời đi cấp tốc thế? Không thể ăn sáng một chút trước khi đi à? Tôi đang đói meo và ông Nakata thì ngủ say như chết, lay thế nào cũng không dậy.”
“Nghe này, không phải chuyện đùa đâu. Cảnh sát đang lùng sục khắp thành phố tìm các người. Sáng nay, việc đầu tiên là họ kiểm tra các khách sạn và nhà trọ, lục vấn từng người. Họ đã có chi tiết nhận dạng của cả hai người. Cho nên một khi họ đã bắt đầu rà soát thì chỉ còn là vấn đề thời gian thôi. Hai ông con nhà cậu thì rành là nổi bật không trộn vào đâu được, phải thừa nhận thế. Không thể để mất thêm phút nào đâu.”
“Cảnh sát ư?” Hoshino kêu lên. “Xin đủ nhé! Chúng tôi chả làm điều gì sai trái. Đành rằng hồi học trung học, tôi có cuỗm vài chiếc xe máy. Chỉ cốt chạy nhông cho vui, chứ đâu có để bán. Mà bao giờ tôi cũng đem trả về chỗ cũ. Từ đó đến nay, tôi chưa hề làm điều gì phạm pháp. Mang phiến đá này ra khỏi miếu đường là điều tệ hại nhất tôi từng làm. Mà là do ông bảo tôi làm.”
“Việc này không liên quan gì đến phiến đá,” Đại tá Sanders nói sổ toẹt. “Đôi khi cậu thật ngớ ngẩn. Hãy quên phiến đá đi. Cảnh sát không hay biết gì về phiến đá, mà có biết cũng cóc cần. Họ ắt không dậy từ tinh mơ gõ cửa từng nhà vì một phiến đá nào đó. Ta đang nói về một vụ nghiêm trọng hơn nhiều.”
“Nghĩa là thế nào?”
“Cảnh sát đang truy lùng ông Nakata vì vụ này.”
“Tôi không hiểu. Không ai có thể tưởng tượng ông Nakata phạm tội được. Là loại tội gì? Và làm sao ông ấy lại liên quan?”
“Không có thì giờ giải thích đâu. Cậu phải đưa ông ta ra khỏi đó. Mọi sự tùy thuộc vào cậu đấy. Rõ chưa?”
“Tôi không hiểu,” Hoshino lắc đầu nhắc lại. “Chẳng ra sao cả. Vậy họ sẽ bắt luôn cả tôi với tư cách là tòng phạm ư?”
“Không, nhưng ta dám chắc họ sẽ tra vấn cậu. Cậu đang lãng phí thời gian đấy. Đừng có thắc mắc nữa, cứ làm như ta bảo.”
“Này, ông nên biết là tôi rất ghét cớm. Chúng còn tệ hơn cả bọn yakuza hay LLTV nữa… những điều chúng làm thật kinh hoàng. Nghênh ngang, chẳng thích gì hơn là hành hạ kẻ yếu. Hồi còn đi học và cả dạo mới bắt đầu làm tài xế, tôi đã nhiều lần đụng bọn cớm, nên tôi tránh nhất là có chuyện với chúng. Không bao giờ thắng được chúng, hơn nữa sau đó, chúng cứ bám như đỉa chẳng cách nào rũ bỏ được. Ông hiểu ý tôi chứ? Trời đất, làm sao tôi lại dính vào chuyện này chứ? Ông thấy đấy, điều tô

Điện thoại vụt tắt.
“Chao!” Hoshino thở dài đánh thượt và ném chiếc điện thoại di động vào rút rết, rồi cố đánh thức Nakata dậy.
“Ông ơi! Ông Nakata! Cháy! Lũ lụt! Động đất! Cách mạng! Godzilla[32] đến! Dậy đi!”
Phải mất một lúc Nakata mới dậy.
“Lão vừa bào xong,” lão nói. “Phoi bào để nhóm bếp. Không, mèo đâu có tắm. Chỉ có lão tắm thôi.”
Rõ ràng lão đang ở trong cái thế giới nhỏ bé của riêng mình.
Hoshino lay vai ông già, véo mũi, véo tai lão và cuối cùng, kéo được lão trở về cõi trần thế.
“Cậu đấy à, cậu Hoshino?” lão đáp.
“Vâng, cháu đây,” Hoshino đáp. “Xin lỗi đã đánh thức ông.”
“Không sao. Dù gì thì Nakata này cũng sắp dậy. Đừng bận tâm. Lão đã lo xong thứ nhóm lửa rồi.”
“Tốt. Nhưng có chuyện không hay xảy ra, ông con mình phải đi khỏi đây ngay lập tức.”
“Có phải liên quan đến Johnnie Walker không?”
“Cái đó thì cháu không biết. Cháu có nguồn tin riêng cảnh báo rằng tốt hơn hết là chúng ta nên lánh đi. Cảnh sát đang truy lùng chúng ta.”
“Thật không?”
“Họ bảo cháu thế. Nhưng có chuyện gì giữa ông và tay Johnnie Walker ấy?”
“Nakata này chưa kể với cậu à?”
“Chưa, ông chưa kể.”
“Tuy nhên, hình như lão đã kể rồi thì phải.”
“Ông chưa kể phần quan trọng nhất.”
“À, thế này… Nakata này đã giết ông ta.”
“Ông nói đùa!”
“Không, lão đâu có đùa.”
“Chu cha!” Hoshino lẩm bẩm.
Hoshino ném đồ vào túi dết và lại gói phiến đá vào tấm vải bọc. Nó đã trở lại trọng lượng lúc ban đầu. Không nhẹ, nhưng ít nhất thì cũng vừa sức gã. Nakata bỏ đồ của mình vào cái túi bạt. Hoshino đến quầy tiếp tân, nói họ có việc đột xuất phải đi khỏi và trả phòng. Vì gã đã trả tiền trước nên cũng nhanh thôi. Nakata còn hơi chệch choạng, nhưng vẫn đi được.
“Lão đã ngủ bao lâu?” lão hỏi.
“Để xem,” Hoshino nói và tính nhẩm. “Khoảng bốn mươi tiếng.”
“Lão cảm thấy mình đã ngủ tốt.”
“Có gì là lạ. Nếu ông không cảm thấy sảng khoái sau giấc ngủ phá mọi kỷ lục ấy, thì ngủ còn có nghĩa lý gì nữa. Này, ông có đói không?”
“Cói lắm.”
“Ông có thể nhịn thêm một lúc được không? Trước hết, ta phải ra khỏi đây càng sớm càng tốt. Rồi ta sẽ ăn sau.”
“Cũng được. Lão có thể chờ.”
Hoshino đỡ lão ra phố chính và vẫy một chiếc taxi. Gã nói địa chỉ, người lái gật đầu và phóng xe đi. Chiếc xe rời thành phố, theo một quốc lộ rồi đi vào một khu ngoại ô. Khu này sang trọng và yên tĩnh trái ngược hẳn với khu phố ồn ào gần ga mà họ đã trọ. Cuốc xe mất độ hai mươi lăm phút.
Họ dừng lại trước một cư xá năm tầng khang trang. Tấm biển ghi “Takamatsu Park Heights” (Đồi Công viên Takamatsu) mặc dù nó nằm trên một bãi đất phẳng và quanh đó chẳng thấy công viên nào. Họ đi thang máy lên tầng bốn, ở đó, đúng theo chỉ dẫn, Hoshino tìm thấy chìa khóa dưới giá để ô. Đó là một căn hộ tiêu chuẩn gồm hai phòng ngủ, một phòng ăn kiêm bếp, một phòng khách và một buồng tắm. Nơi này nom có vẻ mới toanh, đồ đạc hầu như chưa dùng tới. Phòng khách có tivi màn ảnh rộng, một dàn âm thanh stereo, một sofa và một ghế bành. Mỗi phòng có một giường được soạn trải tươm tất. Bếp được trang bị đồ nấu nướng thông thường, các ngăn giá xếp đầy bát đĩa cốc chén. Tường treo những tranh in đóng khung trang nhã. Toàn bộ có vẻ như một căn hộ mẫu mà nhà kinh doanh nhà đất dùng để quảng cáo với khách hàng mới.
“Không tồi chút nào,” Hoshino nhận xét. “Không có tính cách lắm, song ít ra cũng sạch sẽ.”
“Rất xinh xắn,” Nakata bổ sung.
Chiếc tủ lạnh sơn màu trắng ngà chất đầy đồ ăn. Lẩm bẩm một mình, Nakata kiểm lại mọi thứ, cuối cùng lấy ra mấy quả trứng, hạt tiêu xanh và bơ. Sau đó đập trứng vào bát, lấy đũa đánh bồng lên, và đổ vào chảo, làm hai suất ốp-lết tiêu xanh, một cách thiện nghệ. Lão cho ra đĩa, đặt bánh mì nướng lên trên rồi mang ra bàn ăn cùng với trà nóng.
“Ông làm bếp nghệ nhỉ,” Hoshino nói. “Cháu phục đấy.”
“Lão chuyên sống một mình, chuyện ấy đã thành quen.”
“Cháu cũng sống một mình, nhưng đừng ai bảo cháu nấu nướng cái gì.”
“Nakata này ối thì giờ rảnh và chẳng có việc gì khác để làm.”
Hai ông con ăn bánh mì nướng với trứng ốp-lết. Ăn xong vẫn còn đói, nên Nakata lại quay vào bếp, rán ít thịt xông khói với rau dền, mỗi người đả thêm hai lát bánh mì nướng nữa. Bắt đầu cảm thấy trở lại thành người, họ ngồi ngả người thoải mái trên sofa, uống thêm tách trà.
“Vậy là ông đã giết ai đó?” Hoshino hỏi.
“Phải,” Nakata đáp và kể tỉ mỉ chuyện lão đã đâm chết Johnny Walker như thế nào.
“Chu cha!” Hoshino nói khi lão kể xong. “Chuyện lạ kỳ! Cảnh sát ắt chẳng đời nào chịu tin chuyện đó, cho dù ông có thành thực đến mấy đi nữa. Cháu muốn nói bây giờ thì cháu tin ông, nhưng nếu ông kể với cháu một tuần trước thì hẳn cháu đã sút ông đi rồi.”
“Chính lão cũng không hiểu nữa.”
“Dù gì thì cũng đã có người bị giết, mà giết người đâu phải là chuyện có thể nhẹ nhàng gạt đi bằng một cái nhún vai được. Cảnh sát rất quan tâm đến vụ này, nếu không họ đã chả lần theo dấu vết của ông đến tận Shikoku.”
“Nakata này lấy làm tiếc đã để cậu liên lụy.”
“Ông có định ra tự thú không?”
“Không,” Nakata nói với một vẻ cương quyết hiếm thấy ở gã. “Lão đã thử làm thế, nhưng bây giờ lão không muốn lặp lại nữa. Nakata này hiện có việc khác phải hoàn thành. Bằng không, bao nhiêu công sức đi đến tận đây hóa ra vô ích sao.”
“Giờ ông phải đóng phiến đá cửa vào này lại.”
“Đúng. Cái gì đã mở ra thì phải đóng lại. Rồi sau đó, lão sẽ trở lại bình thường. Cơ mà có vài việc lão phải lo liệu trước đã.”
“Đại tá Sanders, người đã đưa cháu đến chỗ phiến đá, đang giúp ta có chỗ ẩn náu,” Hoshino nói. “Nhưng tại sao ông ta lại làm thế? LIệu có mối liên hệ gì giữa ông ta và Johnnie Walker không?”
Nhưng càng cố gỡ rối, Hoshino càng thấy tù mù hơn. Tốt hơn là đừng cố tìm hiểu ý nghĩa của cái chẳng có ý nghĩa gì, gã quyết định “Suy nghĩ vô bổ còn tệ hơn là chẳng suy nghĩ gì,” gã kết luận, nói to lên thành tiếng, hai tay khoanh lại.
“Cậu Hoshino?” Nakata gọi.
“Có chuyện gì?”
“Lão ngửi thấy mùi biển.”
Hoshino đi tới mở cửa sổ, bước ra ban công và hít một hơi thật sâu. Gã chẳng hề thấy biển. Xa xa, những đám mây trắng bồng bềnh trên một rừng thông.
“Cháu chẳng ngửi thấy gì,” gã nói
Nakata đến bên cạnh gã, bắt đầu hít hít, cánh mũi nhó nhoáy như con sóc nhỏ.
“Lão có ngửi thấy biển. Biển ở ngay đằng kia.”
Lão chỉ về phía cánh rừng.
“Mũi ông thính thật đấy,” Hoshino nói. “Xưa nay, cháu vẫn hơi bị viêm xoan, nên mũi thường ngạt tí chút.”
“Cậu Hoshino, ta đi dạo bờ biển tí chăng?”
Hoshino nghĩ một thoáng. Đi dạo trên bãi biển một tí thì hại gì nhỉ “Ô-kê, ta đi nào.”
“Nakata này phải bỏ bom một bãi trước đã, nếu cậu không phiền.”

“Ông cứ tự nhiên.”
Trong khi Nakata ở trong toa-lét, Hoshino đi khắp căn hộ, kiểm tra suốt lượt. Như Đại tá Sanders đã nói, ở đây có mọi thứ họ cần. Băng dính cứu thương, kéo cắt móng tay. Tất cả các loại nhu yếu phẩm. Cả bàn là cùng cầu để là quần áo. Ông ta thật chu đáo, Hoshino nghĩ, nhưng mình chắc do cô thư ký lo liệu cả. Không quên một thứ gì.
Gã mở tủ, thấy đầy quần áo và đồ lót mới. Dở cái là không có chiếc sơ mi Hawai nào, toàn sơ mi polo và sơ mi kẻ sọc thông thường gắn nhãn Tommy Hilfigers mới toanh. “Thế mà mình đã vội nghĩ là Đại tá Sanders nắm bắt nhanh,” Hoshino phàn nàn một mình. “Lẽ ra ông ta phải hiểu ra là mình chỉ mặc một loại sơ mi Hawai. Nếu ông ta đã cất công đến thế, chí ít ông ta cũng có thể mua ình một chiếc.” Nhận thấy chiếc áo mình đang mặc đã hôi hôi, gã cởi luôn ra và thay vào một chiếc sơ mi polo. Vừa khít.
Hai ông con thả bộ qua rừ, leo qua một con đê chắn sóng rồi xuống bãi biển. Biển yên tĩnh. Họ ngồi bên nhau trên cát, hồi lâu không nói gì, ngắm những con sóng dựng lên như tấm ga trải giường rồi lại đổ ụp xuống với một tiếng rào rào nhỏ nhẹ. Có thể nhìn thấy mấy hòn đảo nhỏ ngoài khơi. Cả hai đều ít có dịp đến với biển và họ thoải mái ngắm cho sướng mắt.
“Cậu Hoshino?” Nakata là người phá vỡ im lặng.
“Ông bảo gì?”
“Biển thật tuyệt, phải không?”
“Vâng. Nó khiến lòng ta an tĩnh.”
“Tại sao lại thế nhỉ?”
“Có lẽ vì nó mênh mông, lại không có gì bên trên, Hoshino vừa nói vừa chỉ ra mặt biển. Ông sẽ không cảm thấy an tĩnh như thế nếu chỗ kia có một tòa trung tâm thương mại hay một siêu thị Seiyu, phải không? Hoặc một phòng chơi pachinko hay một tiệm cầm đồ Yoshikawa? Nhưng phóng hết tầm mắt, vẫn chẳng thấy gì, điều đó thật dễ chịu.”
“Lão nghĩ cậu có lý,” Nakata nói sau một thoáng suy nghĩ. “Cậu Hoshino?”
“Gì vậy?”
“Lão muốn hỏi về một chuyện khác.”
“Hỏi đi.”
“Có gì ở dưới đáy biển?”
“Ở dưới ấy là một thế giới khác, đủ các loại cá, trai, sò, ốc, rong rêu biển và mọi thứ linh tinh. Ông cha bao giờ đến một viện hải dương học à?”
“Chưa bao giờ. Ở Matsumoto, nơiã sống một thời gian dài, không có thứ ấy.”
“Phải, cháu nghĩ thế,” Hoshino nói. “Cháu đoán một tỉnh miền núi như thế may lắm cũng chỉ có được một bảo tàng nấm là cùng. Dù sao đi nữa, dưới đáy biển cũng đủ thứ, mà sinh vật dưới đó khác với chúng ta, chúng hấp thụ oxy từ trong nước và không cần không khí để thở. Có những loài rất đẹp, những loài ăn cực ngon, lại có những loài rất nguy hiểm. Và có những loài khiến ta sởn da gà. Thật khó giải thích cho ai chưa được thực mắt nhìn thấy, nhưng tựu chung, nó hoàn toàn khác hẳn với những gì ta quen thấy ở trên này. Dưới đó tối mù mịt, và có một số sinh vật gớm ghiếc ông chưa từng thấy… Bao giờ mọi chuyện xong xuôi, cháu sẽ đưa ông đi thăm một viện hải dương học, ông thấy thế nào? Thú vị lắm, ông ạ, và đã lâu cháu chưa đi xem lại. Cháu chắc thành phố này thể nào cũng có một viện kiểu ấy.”
“Vâng, lão rất thích đến một nơi như thế.”
“Có một điều cháu muốn hỏi ông.”
“Điều gì?”
“Bữa nọ, chúng ta đã lật phiến đá và mở cửa vào, phải không?”
“Phải, hai chúng ta đã mở cửa vào. Sau đó, Nakata này lăn ra ngủ miết.”
“Điều cháu muốn biết là: có chuyện gì diễn ra vì chúng ta đã mở cửa vào không?”
“Có,” Nakata gật đầu đáp.
“Nhưng ông không biết đó là chuyện gì?”
Nakata lắc đầu một cách kiên quyết.
“Không, Nakata này chưa b
“Vậy có thể là nó đang diễn ra ở một nơi nào khác, vào chính lúc này đây?”
“Phải, lão nghĩ đúng thế. Như cậu nói, nó đang diễn ra. Và lão đang chờ nó kết thúc.”
“Và một khi cái đó kết thúc, mọi sự sẽ tự khắc đâu vào đấy?”
Lại một cái lắc đầu kiên quyết. “Điều đó thì Nakata này không biết. Lão làm điều mình đang làm, bởi vì đó là bổn phận của lão. Nhưng lão không biết kết quả sẽ ra sao. Lão không được thông minh sáng láng cho lắm, nên suy nghĩ là chuyện khó đối với lão. Lão không biết điều gì sẽ xảy ra sau đó.”
“Dù sao đi nữa, cũng cần chút thời gian cho cái đó kết thúc để đi đến một kết cục nào đó, phải không?”
“Đúng thế.”
“Và trong khi chờ đợi, phải làm sao đừng để bọn cớm tóm được, vì chúng ta còn có việc phải làm, đúng không?”
“Đúng. Lão không ngán gặp cảnh sát. Lão sẵn sàng làm theo lời ngài Tỉnh trưởng. Nhưng bây giờ không phải lúc.”
“Ông biết không? Nếu bọn cớm nghe câu chuyện điên rồ của ông, chúng sẽ nhổ toẹt và thay vào đó một lời tự thú hợp lý ai cũng tin được. Đại loại như ông vào nhà định ăn trộm, nghe thấy có người, thế là ông vớ lấy con dao trong bếp và đâm người ấy. Chúng bất cần sự việc thật là thế nào hoặc thế nào là đúng. Chúng tỉnh bơ dựng lên một tội phạm cốt để tăng hiệu suất bắt giữ. Sau đó, chúng ném ông vào nhà đá hay vào một nhà thương điên nào cực kỳ an toàn. Chúng khóa chặt buồng giam và vứt chìa đi. Ông không đủ tiền thuê một luật sư giỏi, nên chúng sẽ chỉ định cho ông một tên thầy cãi bất cần phải, trái ra sao có thể thấy trước kết cục sẽ như thế nào.”
“Lão nghe chưa thủng.”
“Cháu nói để ông biết bản chất bọn cớm như cháu biết thôi, hãy tin cháu,” Hoshino nói. “Cho nên cháu thực sự không muốn dây với chúng, ông hiểu không? Cớm và Hoshino không sực được nhau.”
“Lão lấy làm tiếc đã gây nhiều rắc rối cho cậu.”
Hoshino thở dài đánh thượt.
“Tuy nhiên, tục ngữ có câu: Uống thuốc độc cả đĩa.”
“Nghĩa là thế nào?”
“Là: một khi ông đã quyết uống thuốc độc thì có ăn luôn cả cái đĩa đựng thuốc cũng vậy thôi.”
“Cơ mà ăn đĩa thì chết. Mà lại hại răng, đau họng nữa.”
“Ờ, nghe cũng có lý,” Hoshino bối rối nói. “Ừ… tại sao lại phải ăn cả đĩa nhỉ?”
“Lão kém thông minh, nên quả thật không biết giải đáp ra sao. Nhưng ngoại trừ thuốc độc, đĩa thì quá rắn.”
“Ừm, ông nói phải. Cháu cũng bắt đầu hoang mang. Cháu cũng vốn không phải là người làm việc trí óc. Điều cháu muốn nói là: cháu đã đồng hành cùng ông đến bước này, thì cháu sẽ đi tới cùng đảm bảo cho ông thoát. Cháu không thể tin là ông đã làm điều gì xấu và cháu sẽ không bỏ ông giữa đường đâu. Cháu phải trọng danh dự chứ.”
“Đa tạ. Nakata này biết cảm ơn cậu thế nào cho vừa. Tuy nhiên, lão vẫn phải lạm dụng cậu, xin thêm một ân huệ
“Ông cứ nói.”
“Chúng ta cần một chiếc xe hơi.”
“Một chiếc xe thuê có được không?”
“Nakata này thật sự không biết xe thuê là thế nào, nhưng bất cứ loại gì cũng được. To hay nhỏ đều được tất, miễn là xe hơi.”
“Không thành vấn đề. Đúng vào chuyên ngành của cháu. Lát nữa, cháu sẽ đi kiếm một cái. Vậy chúng ta sẽ đi đến một nơi nào hả?”
“Lão nghĩ thế. Có lẽ chúng ta sẽ đến một nơi nào đó.”
“Ông Nakata, ông đã biết một điều gì, phải không?”
“Phải.”
“Đi với ông chả bao giờ buồn chán. Đủ các thứ chuyện kỳ quặc điên rồ xảy ra, nhưng có thể nói: đi với ông không bao giờ buồn chán, đó là cái chắc.”
“Cám ơn cậu đã nói thế. Lão nghe mà hả lòng hả dạ. Cơ mà cậu Hoshino này.”
“Có chuyện gì vậy?”
“Lão thực sự không dám chắc lão có hiểu đúng nghĩa chữ buồn chán.”
“Trước nay ông chưa bao giờ buồn chán ư?”
“Chưa, chưa một lần nào.”
“Ông ạ, cháu cũng nghĩ thế.”


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.