Bạn đang đọc Hà Thần – Thủy quái dưới cầu: Chương 19
Một
Đầu những năm năm mươi, nước Trung Quốc mới vừa mới được thành lập không lâu, xã hội vẫn còn trong thời kỳ quá độ quân quản, công tác phụ trách an ninh do quân đội phụ trách. Mặc dù có cục công an, nhưng phần lớn công an viên điều tra viên đều xuất thân từ quân ngũ. Ví dụ như lão Lương chẳng hạn, ông này cũng trở thành cán bộ theo cách như vậy, cho nên không đủ quen thuộc tình hình phá án và bắt giam trong nội thành. Khi loáng thoáng nghe thấy vài lời bình luận của người ta về Quách sư phụ, ông này cảm thấy vấn đề đó không hề nhỏ, rốt ráo tìm Quách sư phụ để nói về chuyện này. Thế nhưng, cách nghĩ của hai người không giống nhau, có nói như thế nào cũng thống nhất được ý kiến.
Lão Lương là người cứng nhắc, liên tục nhấn mạnh, bản án trạm điện đài ngầm dưới sông được phá nhanh chóng như vậy, nguyên nhân tiên quyết là bởi tình hình trong nước sau cách mạng đã bước vào thời kỳ tốt đẹp, tiếp theo là cấp trên lãnh đạo chỉ huy có phương pháp, cuối cùng là cơ quan công an đã dốc hết khả năng làm việc, nhưng tuyệt đối không có một câu nào nhắc đến nguyên nhân mê tín nhân quả báo ứng, còn bảo cái biệt hiệu “Thần sông” này chẳng ra làm sao.
Quách sư phó đâu có muốn người khác gọi mình là “Thần sông”, bởi cứ mỗi lần nhắc tới danh hiệu này là y như rằng lại gặp vận rủi, cứ như là đã ăn vào số mệnh vậy, nhưng làm thế nào để bịt kín được hết miệng cả bàn dân thiên hạ. Không có biện pháp nào giải thích với lão Lương, ông ta đành phải nghe tai nọ lọt tai kia, thầm nhủ: “Ông nói cái gì tôi cũng nghe, đến khi ông nói xong việc tôi tôi làm.”
Khi lão Lương kết thúc bài thuyết giáo đã là hơn bảy giờ tối. Vào mùa hạ, trời tối rất muộn, lúc bấy giờ trời vẫn còn sáng, ăn cơm tối lúc đó là vừa hợp lý. Quách sư phó và Đinh Mão đã ngồi lỳ canh ở dưới cầu đường sắt liên tiếp vài ngày, đã phải chịu không ít cực hình bởi việc chẳng liên quan gì đến mình, vất vả lắm mới phá được án, định đi ăn một bữa dạ dày bung coi như là khao thưởng, bởi vậy mới không đến căn tin ăn cơm tập thể. Cái món dạ dày bung này được làm bằng dạ dày dê, là một món ăn vặt, dân chúng bình dân rất thích ăn, có thể ăn thay cơm. Người ta chế biến dạ dày dê thành các món “Bản đỗ, đỗ hồ lô, đỗ tán đan, đỗ ma cô, đỗ nhân”*….., ngoại trừ dạ dày dê tươi ngon, yếu tố quyết định độ ngon của món ăn chỉ dựa vào một chữ “bung”, nếu bung vừa đủ, đã thơm lại giòn. Những ai thưởng thức món dạ dày bung cũng nên uống một hai lượng rượu.
*Bản đỗ: dạ cỏ, Đỗ hồ lô: dạ tổ ong, Đỗ tán đan: Dạ lá sách, Đỗ ma cô: cuống dạ cỏ, Đỗ nhân: vách ngăn.
Hai người họ đạp xe đạp về phía Nam Đại Tự, là một cái nhà thờ Hồi giáo. Sâu trong ngõ hẻm bên cạnh có một quán nhỏ sạch sẽ tới không ngờ, trước giải phóng chuyên bán dạ dày bung và đủ các loại quà vặt khác của người Hồi, ngay cửa ra vào có tấm biển bằng đồng ghi Dạ dày bung họ Phùng. Hồi đó, trong tiệm chỉ có năm cái bàn hình bán nguyệt, một sư phụ một tiểu nhị quản lý công việc buôn bán. Mặc dù chỉ là một quán ăn nhỏ xíu như vậy nhưng thực ra đã kinh doanh được cả trên trăm năm. Thời mới giải phóng, vật liệu thiếu thốn, đến khi mở cửa kinh doanh lại thì họ chỉ bán có một vài món. Sau khi ngồi xuống gọi hai đĩa dạ dày bung, Đinh Mão hỏi: “Ca ca, hôm nay lão Lương tìm anh nói chuyện gì mà muộn thế?” Quách sư phó đáp: “Những gì ông ấy nói anh chả hiểu một tí gì.” Đinh Mão bảo: “Vậy thì đừng suy nghĩ nhiều, món dạ dày bung hôm nay không tệ, xem ra đói lả người ăn cái gì cũng ngon.” Quách sư phó nói: “Dạ dạy bung họ Phùng ấy à, chính là cái món này này, năm xưa, người của phủ Khánh Vương ở thành Bắc Kinh lúc nào cũng đặc biệt thích dùng.” Đinh Mão không tin: “Vương gia mà lại đi ăn cái món như thế này?” Quách sư phó vặn lại: “Sao lại không ăn, vậy cậu cho rằng trong vương phủ người ta ăn cái gì?” Đinh Mão đáp: “Em làm gì có tí kiến thức nào về vấn đề này. Nhị ca, anh biết hay sao?” Quách sư phó nói: “Một láng giềng cũ của anh biết Thông Bối Quyền, đã từng làm bảo tiêu hộ viện ở Khánh Vương phủ. Anh đã từng được anh ta kể cho nghe.” Đinh Mão hết sức tò mò về chủ đề này bèn hỏi: “Ca ca, anh nói cho thằng em biết một chút, bữa ăn của Vương gia có những món gì?”
Quách sư phó nói: “Người anh em, người trong vương phủ và dân chúng chúng ta ăn uống khác hẳn nhau. Vương gia ăn một ngày năm bữa, sáng dậy trước tiên luyện một bài kiếm, luyện xong đi thay quần áo, đến thư phòng ăn điểm tâm, ví dụ như bánh nướng hình móng ngựa, trái cây muối, mứt trái cây, mì sợi xào giòn, cháo gạo tẻ, bánh bao trắng nhân đường phèn mỡ thịt da heo thái hạt lựu, có món mua ở ngoài, cũng có món trong phủ làm.”
Đinh Mão thốt lên: “Thì ra Vương gia sáng ăn điểm tâm những món này, giữa trưa thì ăn món gì?”
Quách sư phó nói tiếp: “Đến buổi trưa, người ta chỉ dùng bữa đơn giản với mì và cơm, nhưng đến bữa tối cùng ngày lại đổi sang món khác, không thể lặp lại bữa trước, sẽ dùng bữa với sáu đĩa tám chén hai canh, đây là món nóng, ngoài ra còn có bốn món ăn nguội, cật hầm nhân hạt thông, thịt dê bò muối tương gì đó, để làm món nhắm rượu. Nhưng cũng có khi chỉ ăn thịt luộc và canh rau thịt. Những khi trời lạnh thì ăn lẩu dê. Đúng bốn giờ chiều, Vương gia sẽ ngủ dậy, cần ăn lót dạ buổi chiều, gồm có chè bột mì, cháo bột, nước đậu xanh, bột nhào nước nóng chưng sủi cảo, cá xông khói, bánh cuộn thừng, bánh quế, bánh quai chèo bọc đường, bánh ga tô, bánh đúc đậu. Nếu không có chuyện gì, ăn vậy là được rồi. Nhưng nếu như trong phủ có bạn bè tình cờ đến chơi, bữa này sẽ phải chú trọng hơn nhiều, ít nhất là hai khô hai ngọt bốn mặn nguội, một chén lớn chè hạt sen đường phèn, bốn đĩa bánh trái theo thứ tự là quả phỉ rang tương, mộc tê nhục*, gà xé phay xào đậu hà lan, rau tam tiên, sau đó lấy bánh ngọt vàng** kẹp lại để ăn.”
*Là món ăn dân dã của Trung Quốc, được liệt vào tám món điển hình của Sơn Đông, được xào hỗn hợp bằng thịt lợn thái miếng, trứng gà và mộc nhĩ.
**Là bánh làm bằng bột kê vàng, xay nhỏ, trộn nước nặn thành hình tròn, hấp chín rồi quét một lớp dầu ăn mỏng bên ngoài.
Đinh Mão than: “Vương gia thực sành ăn! Bữa tối cùng ngày dùng với món gì?”
Quách sư phó nói: “Bữa tối cũng giống như bữa trưa, chỉ khác nhau ở món chính mà thôi. Tầm mười một giờ đêm sẽ ăn bữa ăn khuya, dùng tạm vài món lót dạ, mì hoành thánh, bánh bột mì, dạ dày bung, kẹo tam giác, những món mặn nguội được đặt trong thùng đá để bảo quản. Xong bữa này sẽ đến bữa ăn khuya, gia phó sẽ bưng lên một ly trà thơm ướp cánh hoa còn nóng bỏng, khẽ nhấp mấy ngụm, có bản tấu thì phê, không có thì đi ngủ. Ngoại trừ món bạo đỗ họ Phùng, Khánh Vương gia còn thường xuyên tới quán thịt luộc nồi đất. Thời nhà Thanh, khi tế thần người ta dùng cả gia súc, cho cả con vào trong một cái nồi đất cực lớn để luộc, gọi là thịt tế thần. Vào thời Càn Long, bí quyết này đã truyền đến tay dân chúng. Ở chợ gạch ngói có một vị sư phụ sử dụng nồi đất lớn để luộc thịt. Bởi nồi đất có thể giữ nguyên mùi vị của thịt, hơn nữa, từ quan to hiển quý cho đến người buôn thúng bán mẹt, toàn bộ đều nhất trí cho rằng ăn được một miếng thịt tế thần là phúc khí cả ba đời; Cho nên, quán bán thịt luộc nồi đất này, mỗi ngày làm ra bao nhiêu là bán hết bấy nhiêu. Cả quán chỉ có một vị sư phụ cùng với hai tiểu nhị, ngày nào cũng vậy cứ đến nửa đêm là luộc thịt, sáng sớm mở cửa bán, chưa đến buổi trưa là đã bán sạch cả rồi. Vừa bán xong là lập tức hạ biển hiệu đóng cửa quán, cho nên người ta mới bảo biển hiệu của quán thịt luộc nồi đất là — quá hẹn không đợi.”
Từ khi toàn quốc giải phóng năm 1949 cho đến bấy giờ, Quách sư phó và Đinh Mão đã buộc phải nghỉ làm vàng mã, công việc vớt xác trên dòng Hải Hà lại không có thưởng, cũng chẳng còn có đám tang rình rang nào để mà trà trộn vào thừa cơ ăn uống, hai người thèm ăn đến thắt ruột. Vừa nóii về cách ăn uống trong vương phủ, hai người vừa tưởng tượng món bạo đỗ không thể bình dân hơn được nữa này thành tiệc tám đĩa bốn món mặn nguội. Như thế gọi là biết cách hưởng phúc trong mọi hoàn cảnh, cũng gọi là khổ vì ăn.
Hơn tám giờ tối, bên trong tiệm ăn nhỏ đã có không ít thực khách, nội dung câu chuyện của họ chỉ xoay quanh vụ “Bom người” lúc ấy đang được bàn tán xôn xao khắp đầu đường cuối ngõ.
Hai
Vào thời kỳ ấy, những tin đồn thất thiệt thế này nhiều không đếm xuể. Câu chuyện này đại khái nói thế này, có một cây cầu lớn trên dòng Trường Giang, đêm nào cũng có chiến sĩ giải phóng quân thay phiên canh gác. Có một ngày, vào giữa nửa đêm, một người đàn ông cõng phụ nữ đang mang thai vội vàng đi lên cầu, bảo rằng vợ mình sắp sinh, phải mau chóng qua cầu đưa vào bệnh viện. Chiến sĩ giải phóng tốt bụng hỗ trợ, giúp người đàn ông đó cõng người vợ đang mang thai để nhanh chóng qua cầu. Nhưng chạy đến giữa cầu, anh ta cảm thấy người phụ nữ này không hiểu sao càng lúc càng nặng trình trịch, cũng chẳng hề nói chuyện hay hít thở, trên người lại còn ám mùi thuốc súng. Anh chiến sĩ giải phóng quân đột nhiên tỉnh ngộ, tên gián điệp đã nhét thuốc nổ vào trong bụng cái xác phụ nữ, rồi giả đưa phụ nữ có thai sang bờ bên kia, muốn phá hủy cây cầu lớn này. Thuốc nổ đã sắp nổ tung, anh chiến sĩ giải phóng quân lập tức ôm cái xác phụ nữ nhảy luôn từ trên câu xuống sông, rốt cục vào lúc nghìn cân treo sợi tóc đã bảo vệ cây cầu an toàn.
Đinh Mão nghe thấy thế phì cười, quay sang bắt chuyện với những người đó: “Mấy vị này, tôi chưa từng thấy nên không biết cây cầu bắc qua sông Trường Giang lớn đến cỡ, nhưng có thể khẳng định Trường Giang rộng hơn dòng Hải Hà của chúng ta rất nhiều, chắc hẳn cây cầu kia cũng phải lớn tương ứng.
N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o…c.o.m. Trong bụng một cái xác phụ nữ thì có thể dấu được bao nhiêu thuốc nổ chứ, có thể phá hủy được cây cầu lớn đến thế được không? Hơn nữa, cái anh lính kia chán sống rồi hay sao, nếu phát hiện ra trong bụng xác người phụ nữ chứa đầy thuốc nổ thì cứ lẳng mẹ nó xuống sông là xong chuyện, hà cớ gì còn phải ôm cái xác đó nhảy xuống? Như thế chẳng phải là ngu hết phần người khác hay sao?”
Những người đang ăn dạ dày bung trong quán nhỏ đều đua nhau tán thành, có một người thích hóng chuyện lên tiếng: “Đinh gia nói đúng điểm mấu chốt rồi, nghe kể chuyện này đã thấy là khoác lác rồi. Theo tôi được biết, vụ bom người căn bản không phải xảy ra trên cầu lớn ở sông Trường Giang, mà thực ra lại phát sinh ở công viên Bắc Hải. Ngày hôm đó vừa đúng dịp Tết, trong công viên có rất nhiều người. Có một cô gái xinh đẹp mặc đồ trắng ngồi trên ghế đá, tóc dài xõa vai, cúi đầu ngồi yên không nhúc nhích, giống như đang ngủ gật. Người qua lại đông như vậy, cô ta vẫn không bị đánh thức. Lúc ấy, có một đứa bé đá quả bóng da trúng đầu, nhưng cô ta vẫn không có phản ứng gì. Đúng lúc đó, có một công an viên trông thấy, cảm thấy có điều khác thường, bèn đi qua lay cô gái mặc đồ trắng đó thì phát hiện ra cô ta đã tắt thở từ bao giờ, trong bụng lại vọng ra tiếng đồng hồ kêu tích tắc. Thì ra nội tạng của xác chết này đã bị người ta moi sạch ra từ trước, sau đó nhồi đầy thuốc nổ mạnh, rồi đặt trong công viên với tư thế đang ngủ gật. May mắn là đã phát hiện kịp thời, bom hẹn giờ còn chưa bị kích nổ. Trong giây phút mành chỉ treo chuông, đồng chí công an nhanh trí dốc hết sức lực ném cái xác phụ nữ đó xuống hồ trong công viên, nếu không trong công viên nhiều người như vậy, hậu quả thiết tưởng không thể nào chịu đựng nổi.”
Cả một đám đông lời qua tiếng lại, mồm năm miệng mười tranh nhau nói, kẻ nào cũng kể chuyện xoay quanh vấn đề “Bom người”, nội dung không khác nhau là bao, đều chỉ là nhồi thuốc nổ vào trong bụng xác phụ nữ. Còn về phần dự định phá hủy cầu lớn hay là công viên, ai cũng gân cổ lên bảo mình đúng, cứ như là được tận mắt nhìn thấy vậy. Ở ngoài đường, những lời đồn đại nhảm nhí không có căn cứ như vậy đều được sinh ra như thế này, không cái nào là ngoại lệ. Quách sư phó nghe những người này kể chuyện tào lao giật gân cả một buổi, cũng coi như có cái để giải buồn. Sau khi nghe chán, ông ta và Đinh Mão đạp xe về nhà. Ông ta bảo Đinh Mão: “Sáng sớm ngày mai cậu phải đi trực, cứ về trước đi ngủ đi, anh vòng qua bên kia mua hai miếng lư đả cổn. Mấy ngày nay, thân thể chị dâu cậu không khỏe, không nuốt trôi được cái gì, anh mua cho cô ấy hai cái lư đả cổn để thay đổi khẩu vị.” Đinh Mão nói: “Ca ca vẫn luôn là người thương chị dâu em nhất. Vậy em về trước đây, nửa đêm nửa hôm anh cẩn thận một chút.”
Đến ngã tư, hai người tách ra, Quách sư phó đi mua lư đả cổn. Mặc dù tên của món này nghe quái lạ, nhưng thật ra chỉ là bánh bột đậu làm từ đậu nành, cái tên lư đả cổn xuất phát từ cách ví von rất hình tượng. Chính giữa cái bánh này có một cái nhân tròn bọc trong một lớp gạo dẻo, để chính thức thành thành phẩm phải lăn một lúc trên lớp bột đậu nành, giống như một con lừa ở vùng đồng nội lăn qua lăn lại làm bụi bốc mù mịt, cho nên mới có cái tên như vậy. Đến giờ, hầu hết mọi người chỉ quen gọi nó là lư đả cổn, đã quên mất hẳn cái tên nguyên bản bánh đậu xanh thập cẩm của nó. Vị sư phụ làm lư đả cổn bình thường vẫn qua lại với Quách sư phó. Ông ta đến tận nhà vị sư phụ này mua mấy cái bánh, buộc chặt lên ghi đông rồi đạp xe trở về. Nhưng không ai nói trước được thế nào là vô xảo vô bất xảo. Nếu ông ta không đi mua cái món lư đả cổn này thì sẽ không về nhà theo đường vòng; Nếu như không đi theo đường vòng để về nhà, ông ta cũng sẽ không gặp chuyện.
Lại nói tiếp. Buổi tối hôm ấy, tầm giữa mười giờ đến mười một giờ, Quách sư phó đi xe đạp đến cầu vĩnh cửu, nhìn thấy một người đẩy xe xích lô đi theo hướng ngược lại. Người đẩy xích lô tầm bốn mươi tuổi, bầu trời tối đen nên không nhìn rõ mặc quần áo ra sao. Khi còn cách Quách sư phó một quãng, người này vẫn đều đều đẩy xe xích lô đi rất bình thường. Nhưng khi đến gần ông ta, người này lại đột nhiên lại biến thành gắng hết sức lực, miệng mũi thi nhau thở hồng hộc. Quái lạ thật, một không lên dốc, hai không lọt hố, nhưng mặc cho hắn gò lưng cắn răng dồn sức, có bao nhiêu sức lực đều dốc ra cho bằng hết, làm cách nào cái xe xích lô cũng không chịu chuyển bánh. Nếu nói theo cách mê tín — lúc ấy giống như có quỷ ở đằng sau ghìm chân.
Ba
Vào thời Ung Chính nhà Thanh, bên ngoài cửa Đông, trên dòng Hải Hà có một cây cầu tên là Đông Phù. Đến những năm cuối nhà Thanh, nó được xây dựng thành cầu rầm thép vĩnh cửu, trụ cầu được xây bằng xi-măng cốt thép, trên cầu còn có cả đường ray cho tàu điện chạy qua. Mỗi khi trên dòng Hải Hà có thuyền lớn chạy qua, cây cầu thép có khả năng chuyển động thông qua bộ phận truyền dẫn chạy bằng điện. Toàn bộ cây cầu chắc chắn vô cùng, phòng thủ kiên cố, được gọi là cầu vĩnh cửu. Năm 1947, gặp phải một trận hạn hán lớn nhất trong vòng cả vài chục năm, cả một đoạn sông Hải Hà dưới chân cầu vĩnh cửu đã trơ ra tận đáy. Chính phủ tổ chức dân phu nạo vét bùn đất dưới lòng sông, kết quả đào lên hai cái thùng sắt tây. Khi người ta mở ra xem xét, bên trong thùng sắt có chứa xác chết. Thân thể nạn nhân đã bị cắt thành tám khúc, chia ra bỏ vào hai cái thùng sắt, nhấn chìm xuống đáy sông để hủy thi diệt tích. Cảnh sát lần theo manh mối là cái thùng sắt và quần áo của xác chết để truy tìm, đến cuối cùng đã phá được vụ án mạng xảy ra từ mười mấy năm trước. Nếu không có trận hạn hán nghiêm trọng trăm năm khó gặp khiến cho dòng Hải Hà trơ tận đáy đó, thì vĩnh viễn không ai có thể phát hiện hai cái thùng vỏ sắt tây đựng xác người bị cắt khúc này. Ai cũng bảo, trời giáng đại hạn mới khiến cho oan tình của ma quỷ chết oan khuất dưới đáy sông có thể phơi bày ra ánh sáng như thế. Một bản án oan khuất đến ông trời cũng phải động lòng trắc ẩn như vậy, Quách sư phó đã từng được tận mắt chứng kiến. Mỗi lần đi ngang qua cây cầu vĩnh cửu, ông ta lại nhớ đến nó.
Đầu những năm năm mươi, không giống như bây giờ đèn đường thắp sáng cả đêm, cứ đến tầm mười một giờ đêm là đèn trên cây cầu vĩnh cửu đã tắt hết, ánh trăng mờ ảo cây cầu lại rộng. Người kia đẩy chiếc xích lô theo chiều ngược lại đến chính giữa cây cầu thì đột nhiên chiếc xe đứng khựng lại không sao đẩy đi được nữa.
Quách sư phó nhìn thấy đối phương đã cố hết sức mà không được, xuất phát từ lòng nhiệt tình thích xía mũi vào chuyện người khác, ông ta bèn lên tiếng hỏi: “Có cần giúp đỡ không?” Vừa nghe thấy ông ta cất tiếng hỏi, người nọ lập tức vứt xe xích lô lại bỏ chạy. Quách sư phó vừa mới định đuổi theo, chợt phát hiện ra trên chiếc xích lô có một đống gì đó được phủ kín mít bằng chiếu, tỏa ra mùi máu tanh nồng nặc, kéo theo rất nhiều ruồi ong ong bay loạn.
Ông ta giật mình kinh hãi, suy đoán bên dưới cái chiếu là tử thi, bèn vạch ra xem xét thì lại hóa ra là xác mấy con chó. Ông ta thầm nghĩ, thế này có vấn đề gì đâu, dùng xe xích lô chở chó chết, sao lại phải sợ người khác bắt gặp? Ông ta vạch hẳn cái chiếu ra thì thấy bụng mấy con chó phình to, vừa sờ tay vào đã cảm thấy cứng ngắc, hiển nhiên là có thứ gì đó nhét chặt cứng ở bên trong. Ông ta lập tức nhớ tới chuyện bom người đã được nghe kể trong quán bạo đỗ, thế này là định phá sập cây cầu hay sao?
Lúc ấy có bộ đội tuần tra đi ngang qua, Quách sư phó gọi số binh lính đó qua hỗ trợ, vội vàng di chuyển mấy cái xác chó có chứa chất nổ trong bụng đi chỗ khác. Nhưng rốt cục phát hiện ra trong bụng xác chó không có thuốc nổ, mà được nhồi chặt nhựa cây anh túc, dùng để làm thuốc phiện đen. Họ lần theo manh mối, phá được một vụ án. Trước giải phóng có một kẻ bán than, vào thời điểm giải phóng quân đánh Thiên Tân, thừa dịp pháo bắn dồn dập, hắn cạy cửa một nhà thuốc ở trên phố. Vào trong lục soát không tìm được tiền, hắn chỉ trộm được mấy rương nhựa anh túc. Mấy năm vừa qua, hắn vẫn chôn chặt số nhựa đó ở đằng sau nhà mình rồi đến vùng nông thôn tìm người mua. Nhựa anh túc có thể làm giảm đau nhức, ví dụ như loại bệnh nan y ung thư xương chẳng hạn, người bệnh đau đến mức chỉ muốn chết ngay mà không được, cần nhựa anh túc để giảm đau đớn. Một vài lang trung ở nông thôn nghe nói tên bán than có hàng, đồng ý bỏ tiền ra mua. Nhưng nhựa anh túc là hàng cấm, khốn nỗi không thể nào mang ra khỏi thành. Ngày hôm đó, tên bán than nghĩ ra một biện pháp. Hắn đánh bẫy mấy con chó hoang, siết cổ chúng rồi moi nội tạng ra, nhét nhựa anh túc vào trong bụng. Gã chất lên xích lô đẩy đi, giả dạng làm người đưa thịt chó cho nhà hàng, định nhân lúc trời tối đen đánh lận con đen vượt qua chốt kiểm tra chở về vùng nông thôn. Chẳng ngờ, khi qua cầu dây xích xe xích lô bị kẹt cứng, vừa nghe thấy Quách sư phó hỏi mình một câu có cần giúp hay không, người nọ tức thì chột dạ khiếp đảm, vứt xích lô lại bỏ chạy, nếu không thì đâu đến nỗi bị người ta phát hiện ra. Nhưng tên bán than này không chỉ ăn trộm và vận chuyển nhựa anh túc, trên người không ngờ lại còn gánh cả án liên quan đến mạng người.
Khi công an viên đến sau nhà tên bán than để đào số nhựa anh túc còn lại lên, có hàng xóm ở bên cạnh chạy đến tố giác, bảo rằng cặp đôi bán than này sống trong một gian phòng nhỏ, căn phòng lại nằm trong một ngõ cụt rất vắng vẻ. Ở cái khu Niêm Ngư Oa này, cư dân đa phần là người làm việc tay chân dưới tầng chót của xã hội, do đó gia cảnh của tên bán than rất khốn khó, bởi nếu có tiền cũng chẳng cần phải kéo xe than đi bán làm gì, quần áo trên người vá chằng vá đụp, nhưng lại thường xuyên ăn thịt hầm cách thủy, cách cả nửa con hẻm cũng có thể ngửi thấy mùi thịt thơm lừng từ trong nhà bọn chúng bay ra.
Toàn bộ những gia đình trong khu vực đó đều là hộ dân nghèo, cùng quẫn đến nỗi ngay cả cháo loãng cũng không có mà húp. Nhà khá khẩm nhất trong khu Niêm Ngư Oa thì phải cũng đến ngày lễ ngày tết mới dành dụm đủ tiền mua một miếng thịt cỡ đầu ngón tay, hoặc là loại xương đã róc hết thịt rẻ như bèo. Mua về xong cả nhà ngồi làm một bữa sủi cảo, bởi vậy họ đặc biệt mẫn cảm đối với mùi thơm của thịt hầm cách thủy. Mọi người ai cũng như có gai ở trong lòng, một kẻ bán sức kéo than bán, một tháng có thể kiếm được mấy hào, làm sao có đủ tiền ăn thịt hầm cách thủy, hơn nữa lại còn đến nửa đêm mới hầm?
Bốn
Hàng xóm láng giềng nghe nói tên bán than đá hay bẫy chó hoang, nên võ đoán món hầm cách thủy đó được chế biến từ thịt chó, sợ họ bắt gặp đòi chia phần nên bọn họ mới lén lút như thế. Toàn bộ xóm láng quen thuộc vẫn canh cánh nghi vấn này trong lòng. Nhưng mãi cho đến khi công an viên đến nhà tên bán than đá thu hồi tang vật thuốc phiện sống, có mấy người hàng xóm tọc mạch mới nhảy ra tố giác. Công an cảm thấy việc này kỳ quặc, bèn trở về thẩm vấn cặp vợ chồng bán than đá. Vừa thẩm vấn cả hai đã khai báo toàn bộ.
Thì ra trước giải phóng, đôi vợ chồng này đã ăn thịt người. Khi ấy, công việc bán than đá vừa bẩn lại vừa nặng nhọc, có thể khiến cho người ta lao lực đến thổ huyết. “Kéo xe than, quấy mạch nha, xay đậu hũ” được gọi chung là Tam đại khổ, trong đó kéo xe than đi bán chiếm vị trí đầu tiên. Chỉ cần có công việc lao động chân tay khác, chẳng ai lại đi chọn cái nghề này, bởi không những phải kéo xe đi bán than đá, kéo đến chỗ mua còn phải cõng từng giỏ than một xếp gọn gàng vào tận nơi người ta chỉ định. Cả ngày ăn rau húp cháo, trong bụng làm gì có chất, chẳng biết một ngày nào đó tối sầm mặt mũi đâm đầu ngã sấp mặt xuống đất, coi như cái mạng đã ô hô ai tai. Có một năm xảy ra nạn đói khủng khiếp. Ở vùng nông thôn ngay cả vỏ cây cũng bị người ta gặm sạch sẽ, muốn bẫy chó hoang cũng không còn con nào mà bẫy, tên bán than đã đói đến mức vàng cả mắt. Có một hôm, hắn đi ngang qua Chuyển Tử Phòng, cách Niêm Ngư Oa không xa, cả hai đều nằm trong vùng Khiêm Đắc Trang. Trước kia có một bài vè, lời của nó thế này “Khênh quan tài, nhặt xỉ than, người nghèo thà gánh muối đi bán; Kéo bè mảng, khiêng vật nặng, thà rằng khiêng Hà bá; Khiêm Đức Trang, dạo một vòng, đào đâu cũng có đồ ăn được; Niêm Ngư Oa, Chuyển Tử Phòng, ổ lưu manh mẹ mìn hại người; Bột bắp ngô, cao lương cứng, nuốt không trôi, dùng côn đâm; Muốn hút thuốc, có mạt cưa, muốn uống nước, có sông thối” .
Lời bài vè miêu tả rất sinh động, đủ để tưởng tượng ra cảnh tượng cùng khổ của cả khu vực Niêm Ngư Oa và Chuyển Tử Phòng, nhất là khu Chuyển Tử Phòng. Khu đó chỉ có vài con hẻm nhỏ khép kín, phòng ốc quá nửa là thấp bé đơn sơ. Riêng cái khu được gọi là ổ lừa đảo trộm bắt cóc hại người thì cư dân của nó đều là dân giang hồ, có rất nhiều kẻ buôn người cũng sống ở nơi đó. Thường ngày, bọn chúng đi khắp nơi bắt cóc người mang về đây. Trẻ em thì bán cho gánh hát, phụ nữ thì bán vào kỹ viện, tất cả các vụ mua bán đều giao dịch ở Chuyển Tử Phòng. Khi đi ngang qua khu đó, tên bán than đá gặp một phụ nữ vùng nông thôn đang định bán con của mình. Đứa nhỏ này thanh tú khác thường, cũng rất trắng trẻo sạch sẽ. Gặp phải năm mất mùa đói kém đến mức không còn đường mà sống, cô ta mới định bế con vào trong nội thành bán ột một gánh hát nổi danh học diễn kịch. Như vậy không những có đường sống, có khi sau này có lẽ còn có cơ hội ngoi lên. Người phụ nữ nông thôn đó chưa từng vào nội thành, nghe người ta bảo muốn bán con thì phải đến Chuyển Tử Phòng. Chị ta vừa đi vừa hỏi đường lần mò đến. Khi gần đến nơi, chị ta đói lả người không đi được nữa, ngồi tạm ở ven đường nghỉ chân. Tên bán than đá nảy sinh ý đồ đen tối, hắn làm ra vẻ hảo tâm, bảo là thấy đứa bé đáng thương, muốn dẫn nó đi ăn chút gì đó. Chị nông dân cứ tưởng là thật, mới để cho đứa bé đi cùng với hắn. Tên bán than đá dẫn đứa bé đến một chỗ vắng vẻ, quơ lấy cái cuốc đào than, vung lên thẳng tay hạ gục đứa bé kia. Sau đó, hắn bọc kín thi thể ném lên chiếc xe xích lô chở than đá, lại còn dùng vụn than đá vùi kín mít. Kéo xe về đến nhà, hắn bảo với vợ là mình đã nhặt được xác một đứa bé ở giữa đường. Sau đó, hắn rửa sạch tro than trên người đứa trẻ, chặt đầu và tay chân vứt đi, nửa đêm nhóm bếp, dùng da thịt xương cốt nội tạng làm món hầm cách thủy. Vợ tên bán than đứng bên cạnh xem, sợ tới mức không còn hồn vía, đói chết cũng không dám ăn thịt người. Nhưng đến khi ngửi thấy mùi thịt, ả chẳng còn thấy sợ hãi gì nữa, không ngờ tới thịt người lại thơm như vậy. Đêm hôm đó, hai kẻ này đã ăn sạch sẽ thịt đứa bé, cứ tưởng lúc ấy hàng xóm láng giềng đã đi ngủ cả rồi, làm sao biết được mùi thịt lại bay ra xa như vậy, những người sống xung quanh người nào người nấy đều ngửi thấy không sót một ai. Nghe người ta kể lại, người phụ nữ nông thôn kia ít kiến thức, khi phát hiện ra con mình đã bị kẻ khác bắt cóc, nhưng một phụ nữ ở nông thôn thì đâu biết cái gì, cũng không biết đường mà kêu oan báo án, nhất thời nghĩ quẩn, nhảy cầu biến thành xác trôi sông.
Cái gì cũng vậy, đã có lần đầu tiên sẽ có lần thứ hai. Kể từ sau khi thực hiện hành động man rợ đó một lần, về sau cứ đến khi đói đến mức không chịu đựng nổi, cặp vợ chồng tên bán than đá lại đi ra ngoài bắt cóc trẻ em, nhưng không dám gây án ở gần, mà chỉ hoạt động ở vùng ngoại thành. Chúng ăn thịt người riết nghiện thành bệnh, không phải năm xảy ra nạn đói cũng cảm thấy bứt rứt khi không được ăn thịt người. Chúng dùng chiếc xe xích lô che mắt mọi người để chở trẻ con về nhà ăn thịt. Những năm vừa qua, chẳng thể nào biết cặp đôi này đã ăn thịt bao nhiêu đứa trẻ. Toàn bộ đầu tóc quần áo được chúng chôn ngay dưới nền phòng. Công an đào nền đất lên là tìm thấy ngay. Những người sống ở khu vực này không ai là không kinh sợ, không ngờ tới lại khui ra một vụ trọng án nghe rợn cả người đến như thế. Về sau, cặp vợ chồng tên bán than đá đều bị phán tử hình bằng hình thức xử bắn, âu cũng là hình phạt thích đáng dành cho hai kẻ này.
Vụ án bị phá vào năm 1953, tình tiết thực sự trên cơ bản là như vậy. Nhưng cũng giống như mọi chuyện khác, cứ truyền từ người nọ sang người kia là tam sao thất bản, chưa được vài ngày đã bị thổi phồng lên quá đáng rồi. Đầu đường cuối ngõ đâu đâu cũng bàn tán Quách sư phụ đã phá vụ án bom người, nói rằng bên trên chiếc xe xích lô có dấu mấy cái xác trẻ con, bên trong cái nào cũng chứa đầy thuốc nổ định phá sập chiếc cầu lớn trên dòng Hải Hà, nhưng đã bị ông ta bắt ngay tại trận. Sau giải phóng, vốn dĩ đã không còn người nào nhắc đến hai từ “Thần sông” nữa rồi, nhưng chỉ trong vòng vài ngày, ông ta đã phá liền hai vụ trọng án trạm điện đài ngầm dưới sông và bom người. Bởi vậy, biệt hiệu “Thần sông” lại truyền đi khắp nơi. Quách sư phụ tự biết trong lòng là không hay, bản thân lại sắp gặp phải vận rủi.
Năm
Về phần vấn đề tại sao khi ở trên cầu vĩnh cửu vào cái đêm ngày hôm đó, xe xích lô lại đột nhiên lại không sao đẩy đi nổi, cho tới tận bây giờ cũng không có lời giải thích hợp lý cho chuyện gì đã xảy ra. Đa phần dân chúng đều có cùng một cách nhìn nhận, chiếc xe xích lô của tên bán than đá đã lén lút chuyên chở quá nhiều trẻ con chết oan, đến ngay cả ông trời cũng thấy chướng mắt, chắc hẳn là đã sai quỷ níu xe lại, nhờ Thần sông Quách Đắc Hữu thay cho người chết oan khuất giải oan báo thù. Nếu không phải như vậy, tại sao người khác lại không gặp phải những việc như thế này, mà cứ khơi khơi dồn hết cả vào ông ta? Mặc dù công an đương thủy rất hiếm khi tham gia phá án, nhưng công việc phá án và bắt giam mấy vụ án vào mùa hè năm 1953, hoặc nhiều hoặc ít đều có liên quan đến Quách sư phụ.
Hai vụ trọng án trạm điện đài ngầm dưới sông và bom người bị phá chưa được bao lâu, Quách sư phụ lại cứu được vài người ngã xuống sông Hải Hà. Vài ngày sau, lão Lương đến nhà nói chuyện, với ý định giúp ông ta lĩnh công.
Quách sư phụ tự hiểu có một số câu không thể nói ra, đề phòng nói dai thành nói dại, cho nên ngay từ ban đầu lão Lương hỏi một câu ông ta mới trả lời một câu. Nhưng về sau, lão Lương nêu một câu hỏi khiến cho ông ta không sao trốn tránh được. Ông này hỏi một câu vì sao dân chúng lại luôn tặng biệt hiệu cho đội trưởng đội tuần sông là “Thần sông” ?
Quách sư phụ không còn cách từ chối, đành phải trả lời: “Những năm về trước, những vị sư phó của đội tuần sông sẽ xem thuốc lá để xác định có chết oan không. Mỗi khi vớt được xác chết trôi, trước tiên họ sẽ ở bên bờ sông châm một điếu thuốc, không cần xem tử thi, chỉ nhìn điếu thuốc đó cháy như thế nào là có thể biết được có oan tình gì hay không. Nguyên nhân nạn nhân chết là do đột tử hay là chết oan, toàn bộ có thể biết được khi nhìn vào khói và tàn thuốc. Phương pháp xem thuốc lá rất thần bí, năm xưa đã không có mấy người biết xem, đến giờ thì đã chẳng còn ai biết nữa rồi. Trước kia, vị sư phụ già trong đội tuần sông còn biết cả gọi hồn. Ví dụ như có người ngã xuống sông chết đuối, nhưng tử thi vẫn không nổi lên, đội vớt xác lặn xuống tìm kiếm cũng thấy đâu. Đến nước đó thì phải tìm đến người nhà của nạn nhân, nhờ họ cung cấp nạn nhân tên gì ngày sinh tháng đẻ ra sao cầm tinh con gì, rồi ghi hết toàn bộ thông tin lên một tờ giấy vàng, sau đó mời sư phụ đội vớt xác tới gọi hồn cầu siêu, vừa gọi hồn vừa phải hoá vàng mã. Nghe nói, khi nghe thấy hô hoán, tử thi chìm dưới đáy sông sẽ tự trồi lên mặt nước. Những phương thuật lâu đời này được dân chúng tôn sùng hết mức, cho nên thủ lĩnh đội vớt xác thường có danh xưng Thần sông là bởi vậy.”
Nghe xong, Lão Lương lắc đầu nguầy nguậy: “Những cách làm như xem thuốc biết oan trái gọi hồn nơi bờ sông như thế này có lẽ là quá mê tín rồi, đến giờ mà anh vẫn còn tin vào những việc thế này hay sao?”
Quách sư phụ trả lời: “Không hẳn là mê tín, phương pháp phá án của xã hội xưa có hạn. Trước kia, đội vớt xác quả thật có áp dụng một vài biện pháp kỳ dị để phá án, dân thường không hiểu ra sao, một đồn năm năm đồn mười, cuối cùng ai cũng cho rằng biện pháp đó rất linh. Nếu thật sự không đúng, phương pháp dân gian mà bao nhiêu thế hệ tích lũy kinh nghiệm từng chút một để sáng tạo ra không có ý nghĩa gì hay sao.”
Lão Lương nói: “Chỉ giỏi bao biện, khu vực hạ lưu chín sông có đủ các loại vũng hố rãnh mương ngập đầy nước nhiều không đếm xuể, đội vớt xác đã vớt xác chết trôi ở khu vực này hai trăm năm có thừa, nhất định đã truyền lại rất nhiều kinh nghiệm. Lão Quách, anh thử nói cho tôi nghe xem, xem thuốc biết oan rốt cục là như thế nào? Hút một điếu thuốc là có thể đoán được oan tình sao?”
Quách sư phụ không muốn nói thật, bèn đưa đẩy: “Tôi cũng chỉ nghe kể lại, trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy không bằng một lần thực hành.”
Lão Lương truy vấn không thu được kết quả, mới bảo rằng: “Tôi khuyên anh một câu, bây giờ dù sao cũng chuyển sang xã hội mới rồi, đội vớt xác cũng đã đổi tên thành công an đường thủy, không còn thích hợp nhắc lại những chuyện ma quỷ đặt điều mê tín nữa. Vốn dĩ định giúp anh báo công, nhưng cách gọi Thần sông như thế này có ảnh hưởng rất xấu, cơ quan công an chúng ta đâu có phải là bến nước Lương Sơn, muốn phong danh hiệu thế nào thì được thế ấy hay sao?”
Quách sư phụ cũng tự hiểu, không thể mang trên người danh hiệu Thần sông được, cứ nhắc đến là lại gặp chuyện không may, người thường không thể gánh nổi cách xưng hô như thế này. Ví như lần này chẳng hạn, chẳng phải thượng cấp chỉ cần nói một câu là đã xóa sạch toàn bộ công lao phá án của ông ta hay sao. Nhưng điều này cũng không đáng sợ, đáng sợ nhất là có kẻ gở mồm, hễ cứ nhắc đến danh hiệu đó là ông ta lại cực kỳ dễ gặp phải những thứ mà bình thường không bao giờ nhìn thấy.