Đọc truyện Giếng Thở Than – Chương 25: Cảnh nhìn từ một ngọn đồi
Thật thú vị biết bao khi được ngồi trong một toa xe lửa hạng nhất vào ngày đầu tiên của kỳ nghỉ hè khá dài của mình nhởn nhơ đi qua suốt cả một vùng quê xa lạ nào đó, ga nào cũng dừng lại. Trên đầu gối bạn mở ra một tấm bản đồ, bạn nhận ra những làng mạc ở bên phải cũng như bên trái bạn nhờ những tháp chuông nhà thờ. Bạn say mê cái tĩnh lặng tuyệt đối của mỗi ga nơi tàu đỗ, nó chỉ bị phá vỡ bởi tiếng chân ai lạo xạo trên lớp sỏi. Nhất là vào buổi chiều sau khi mặt trời đã lặn. Và người khách lữ hành tôi đang hình dung trong tâm trí ấy chính là người đang nhàn tản ngồi trên một con tàu như thế vào một buổi chiều vẫn còn ánh nắng của nửa cuối tháng Sáu.
Ông ta đã đi sâu vào trong miền quê. Tôi không muốn tả chi tiết hơn, chỉ muốn nói, nếu ta chia nước Anh ra làm bốn phần, thì người bạn chúng ta ở vào góc Tây Nam .
Ông là một người đeo đuổi sự nghiệp hàn lâm, kỳ dạy học vừa xong, nay trên đường đến thăm một người bạn nhiều tuổi hơn. Họ gặp nhau lần đầu tại một nơi tìm hiểu thông tin ở trên tỉnh và thấy có cùng sở thích và thói quen, họ mến nhau, kết quả là nhà điền chủ nông thôn Rchards mời ông Fanshawe tới chơi.
Hành trình trên tàu hoả kết thúc lúc năm giờ. Một người phu khuân vác vui vẻ nói với Fanshawe là xe ra đón ông đã tới nhưng có việc phải đi xa hơn nửa dặm rồi sẽ quay lại, phiền ông chờ một chút. Tuy nhiên, người phu khuân vác lại nói “Vì ông mang theo xe đạp, ông có thể đạp đến toà nhà được. Cứ đi thẳng con đường này rồi rẽ trái – chỉ độ hơn hai dặm là tới. Tôi sẽ lo đưa hành lý của ông lên xe sau. Xin lỗi đã nói vậy, nhưng tôi cho là buổi chiều quê đẹp như thế này mà đi một đoạn xe đạp thì tuyệt, thời tiết đang khô ráo để phơi rơm rạ mà. Đây, cái vé xe đạp của ông đây rồi. Vâng, xin cám ơn ông. Đường đi thì không thể nhầm được…”
Quả nhiên, chỉ hai dặm là đến toà nhà, đoạn đường cần thiết để sau một ngày ngồi tàu xua tan được nỗi buồn ngủ và làm người ta khao khát dùng trà. Toà nhà vừa nhìn thấy đã cho người ta cảm giác một nơi nghỉ ngơi yên tĩnh sau bao buổi họp hành rồi tụ tập với các bạn đồng nghiệp. Không cổ kính quá cũng không mới quá. Tường trát vữa, cửa sổ có khung kính trượt, nhiều cây cổ thụ, thảm cỏ mượt mà. Đó là cảnh vật xuất hiện trước mắt Fanshawe, khi ông theo con đường lên nhà. Điền chủ Richards, một người đàn ông vạm vỡ trên sáu mươi tuổi đang chờ ông bên cổng, phấn khởi ra mặt.
“Trước hết hãy dùng trà đã”, ông ta nói “hay anh muốn uống thứ gì kéo dài hơn? Không? Thôi được, trà đã dọn sẵn trong vườn. Lại đây, người nhà cất xe đạp cho anh sau. Vào một ngày như thế này bao giờ tôi cũng dùng trà dưới gốc chanh bên dòng suối.”
Không ai muốn đòi hỏi một nơi nào hay hơn để dùng trà. Chiều giữa mùa hạ có bóng râm và hương chanh dưới gốc cây, trời mát, dòng suối cuồn cuộn chảy cách đó độ năm mét. Chẳng ai muốn đứng lên nữa. Khoảng sáu giờ thì ông Richards đứng dậy, gõ tàn thuốc lá khỏi tẩu và bảo “Này anh, trời khá mát mẻ hay ta đi dạo một chút , anh không phản đối chứ? Được, tôi đề nghị thế này nhé, ta băng qua công viên, lên đồi, từ đây nhìn được khắp vùng. Ta đem theo bản đồ, tôi sẽ chỉ cho anh các nơi ở đây, anh đi xe đạp cũng được, hay ta đi xe tùy anh thích vận động hay không. Nếu anh sẵn sàng, thì ta đi luôn, trở về khoảng tám giờ, thừa sức.”
“Tôi sẵn sàng. Tôi thích cầm gậy. Anh có ống nhòm không? Ống nhòm của tôi tuần trước cho một người bạn mượn, anh ta giờ đi nơi nào chẳng rõ, đem theo nó luôn.”
Ông Richards suy nghĩ “Tôi có đấy, nhưng không phải thứ tôi vẫn dùng, chẳng hiểu anh dùng có hợp không. Cổ lắm rồi, nặng gấp đôi ống nhòm bây giờ. Anh dùng thì dùng, tuy nhiên anh sẽ là người mang nó chứ không phải tôi. À này anh uống gì sau bữa tối nhỉ?”
Ông Fanshawe bảo là uống gì cũng được nhưng bị gạt đi thẳng thừng, cuối cùng trên đường ra sảnh họ đã thoả thuận xong, ông Fanshawe cầm lấy cây gậy của mình còn ông Richards sau khi cắn môi có vẻ suy nghĩ khá lung, mở ngăn kéo một chiếc bàn trong sảnh, lấy ra một cái chìa khóa đi tới một cái tủ sau tấm ngăn, mở ra, lấy một cái hộp trên ngăn tủ, đặt nó lên bàn. “Ống nhòm trong này” ông ta nói “muốn mở phải có thuật gì đó mà tôi quên mất. Anh thử xem.” Ông Fanshawe đồng ý. Hộp không khóa, nhẵn, chắc và nặng, và có vẻ như muốn mở được phải ấn mạnh vào một chỗ nào đó. Ông tự nhủ “Có vẻ như phải ấn vào một góc nào đó, mà sao góc nó sắc nhọn thế không biết.” Ông vội đưa ngón tay lên miệng sau khi thử dùng sức ấn vào một góc thấp.
“Sao thế?” Ông điền chủ hỏi.
“Còn sao nữa, cái hộp của Borgia này làm trầy cả da tay tôi, thật chết tiệt!” Fanshawe bảo. Ông kia khúc khích cười “Dù sao thì anh cũng mở được rồi còn gì.”
“Phải, mở được rồi. Mấy khi tôi chịu mất một giọt máu vô ích. Đây ống nhòm đây, nặng thật đấy, như anh nói, nhưng tôi đủ sức mang.”
“Nào, xong chưa?” vị điền chủ hỏi “Ta đi thôi. Qua vườn.”
Thế là họ ra đến công viên, nơi này dốc lên đồi, ngọn đồi mà từ trên tàu, Fanshawe đã nhìn thấy bao quát quang cảnh cả một vùng. Đó là một ngọn đồi thuộc dãy đồi lớn hình đằng sau. Dọc đường, vị điền chủ, vốn thạo công việc đất đai, chỉ vào những điểm mà ông ta cho rằng – hoặc tưởng tượng – xưa kia, thời chiến, vốn là hào giao thông. “Còn đây” ông nói, chỉ vào một mảnh đất nhỏ tương đối bằng phẳng bao quanh là một vòng cây cao, “là villa thời Roman của Baxter.”
“Baxter?” ông Fanshawe hỏi.
“Ồ tôi quên, anh chưa biết Baxter là ai. Chính là tay mà tôi mua lại cái ống nhòm này đấy. Tôi tin chính hắn làm ra nó. Vốn dĩ là thợ làm đồng hồ ở dưới làng, một tay sưu tầm đồ cổ có hạng. Cha tôi cho hắn tha hồ đào bới khắp nơi tuỳ thích, hắn mà tìm được cái gì đó thì cụ cho thêm một hai người đến đào giúp hắn. Hắn đào được vô khối thứ hay ra phết, khi hắn chết – khoảng mười, mười lăm năm trước đây – tôi mua cả đống thứ hắn để lại, đem cho bảo tàng của thị trấn. Chiếc kính ở trong số đó, tôi giữ lại. Anh nhìn mà xem, sẽ thấy một công trình tài tử. Tôi muốn nói cái ống nhòm ấy. Còn kính ở trong, dĩ nhiên không phải do hắn chế tạo.”
“Phải, rõ ràng là công trình của một người thợ khéo biết làm nhiều thứ việc khác nhau. Nhưng tôi không hiểu hắn làm thế nào mà nó nặng thế! Thế Baxter tìm ra di tích một villa Roman hả?”
“Đúng đấy, đúng là một mặt lát bị lớp đất mặt phủ lên, nơi chúng ta đứng đây này. Lật nó lên thì quá vất vả và đã quá rõ ràng rồi, tuy nhiên những đồ gốm xinh xinh đào được ở đây đều là loại hay cả. Baxter quả là thiên tài. Hắn như có bản năng khác thường về việc này. Hắn rất đáng quý với những nhà khảo cổ. Có thời hắn đã phải đóng cửa hàng để lang thang khắp vùng, đánh dấu trên bản đồ những nơi cần đào – những nơi hắn đáng hơi thấy cái gì đó, hắn có một sổ tay ghi đầy về từng nơi một. Từ khi hắn chết, đa số những nơi đó đã được đào bới đem mẫu đi thử, toàn đồ cổ cả.”
“Người đâu mà tốt thế nhỉ?” ông Fanshawe nói.
“Tốt?” Vị điền chủ nhảy dựng lên.
“Tức là có lợi cho nơi này chứ sao? Thế hắn ta là người xấu xa hay sao?”
“Tôi cũng không biết nữa” vị điền chủ nói, “nhưng tôi chỉ có thể nói nếu như hắn là người tốt, thì hắn là người không gặp may, người ta không ưa hắn, tôi cũng chẳng ưa gì hắn” ông ta nói thêm sau một lát.
“Ồ” Fanshawe có ý hỏi.
“Tôi không thích hắn, nhưng thôi, nói về Baxter thế đủ rồi, hơn nữa đoạn đường này khó đi nhất, tôi không muốn vừa đi vừa nói chuyện.”
Quả thật người ta phát nóng khi phải leo sườn đồi trơn cỏ vào buổi chiều hôm ấy. “Tôi đã nói đưa anh đi đường tắt mà. Thà đừng theo đường này còn hơn. Tuy nhiên về tắm một cái là đâu vào đó ngay. Thôi, đến rồi đây. Và chỗ ngồi đây.”
Một bụi cây linh sam Scotland lâu đời nằm trên đỉnh đồi và ngay cạnh đó là một chỗ ngồi rộng rãi chắc chắn từ đó nhìn bao quát được cảnh vật. Hai người ngồi xuống, lau mồ hôi trán lấy lại hơi thở.
“Nào,” vị điền chủ nói ngay khi đã có thể nói liền một mạch “bây giờ anh bạn sử dụng ống nhòm được rồi đây. Nhưng trước hết ta hãy nhìn quang cảnh toàn thể đã. Trời ơi! Chưa bao giờ cảnh đẹp như hôm nay!”
Lúc này đây, tôi đang viết truyện này khi gió đông phần phật đập vào những ô cửa sổ tối om, cách một trăm mét biển cả đang lồng lộn, thành ra rất khó gợi ra cho các bạn cảm tưởng một buổi chiều tháng Sáu cũng như cảnh đẹp nước Anh mà vị điền chủ đang nói tới.
Qua một cánh đồng rộng bằng phẳng, họ nhìn thấy những rặng đồi lớn, vùng đất trên cao, chỗ xanh lục, chỗ phủ rừng – được ánh nắng chiếu vào vì mặt trời phía Tây mới đang lặn dần. Đồng ruộng rất phì nhiêu, mặt không ai nhìn thấy con sông chảy qua đâu. Nhiều bụi cây, vạt lúa mì xanh dờn, những hàng rào cây, cánh đồng cỏ chăn nuôi. Một làn khói đặc di chuyển chứng tỏ một đoàn tàu đang chạy qua. Mắt ta còn nhìn thấy những trang trại đỏ rực và những ngôi nhà màu xám, những mái nhà tranh rải rác, cuối cùng là toà nhà của địa sản được ngọn đồi ở dưới chân. Khói từ ống khói lò sưởi nhà bếp toả lên xanh ngắt, bay thẳng lên trời. Có mùi rơm rạ trong không khí và mùi hoa hồng dại trong bụi cây gần đó. Thời gian này đang là đỉnh cao của mùa hè.
Sau vài phút im lặng ngắm cảnh, vị điền chủ bắt đầu chỉ cho bạn những gì chủ yếu, đồi, thung lũng, thị trấn, làng mạc. “Bây giờ thì” ông ta nói “Anh lấy ống nhòm ra mà xem nhà thờ Fulnaker. Lấy đường ngắm qua cánh đồng lớn màu xanh kia, rồi cánh rừng bên trên đó, rồi trang trại trên cái gò nhỏ kia.”
“Đây rồi, đây rồi” Fanshawe bảo “Tháp chuông đẹp thật!”
“Anh nhầm hướng rồi,” vị điền chủ nói “ở đó làm gì có tháp chuông, theo như tôi còn nhớ, trừ phi anh nhìn thấy nhà thờ Oldbourne. Nếu anh gọi đó là một tháp chuông đẹp, e rằng anh quá dễ tính.”
“Vâng, một tháp chuông đẹp lắm” Fanshawe nói, ống nhòm vẫn để trên mắt “dù là Oldbourne hay không phải là Oldbourne. Chỉ biết nó hẳn phải của một nhà thờ to, tôi trông cứ như thể tháp chuông chính – bốn góc còn bốn tháp nhọn khá lớn nữa và giữa chúng thêm bốn tháp nhọn nhỏ. Chắc tôi phải đi tới tận nơi quá. Có xa đây lắm không?”
“Oldbourne thì cách đây gần chín dặm” vị điền chủ nói, đã lâu lắm tôi chưa đến chỗ đó nhưng cũng chẳng nhớ tới chỗ đó mấy khi. Giờ thì tôi chỉ cho anh xem một thứ khác.”
Fanshawe hạ ống nhòm xuống tuy nhiên vẫn nhìn về hướng Oldbourne. “Ồ, nhưng mà này” Ông nói ” Sao mắt thường tôi chẳng nhìn thấy gì là thế nào? Anh định cho tôi xem cái gì vậy?”
“Phía trái có nhiều thứ hay hơn – mà lại dễ thấy. Anh có nhìn ra một cái gò đột ngột mọc lên, có rừng rậm ở trên đỉnh không? lấy đường ngắm là một cây cao trơ trọi trên chỏm cái đồi lớn nhất.”
“Có có” Fanshawe nói “và tôi có thể dễ dàng nói với anh tên gọi của nó là gì.”
“Là gì? Anh nói thử xem.”
“Đồi Giá treo cổ – đó là câu trả lời.”
“Sao anh lại đoán vậy?”
“Không phải đóan, vì có cái giá treo cổ giả với một người nộm lủng lẳng trên đó chứ sao.”
“Làm gì có, ngoài thửa rừng!” Vị điền chủ sẵng giọng.
“Ngược lại” Fanshawe bảo “này nhé, trên đỉnh đồi cỏ mọc tràn lan, giữa là cái giá treo cổ giả, thoáng nhìn lần đầu như có cái gì trên đó, nhìn kỹ thì không thấy nữa.”
“Vô lý! Vớ vẩn! Fanshawe, không có cái giá treo cổ với hình nộm nào trên cái gò đó đâu, chỉ là rừng, rừng mới trồng thôi, cách đây một năm chính tôi ở đó mà. Nào, đưa ống nhòm đây tôi xem, tuy tôi vẫn cho là mình không nhìn được gì.” Sau một lát “Không, quả thực không thấy gì hết.”
Trong khi đó Fanshawe nhìn kỹ như sàng lọc gò đất chỉ cách đó vài ba dặm. Kỳ lạ thực, không có ống nhòm thì chỉ thấy như một cửa rừng. Ông lại nhấc ống nhòm lên “Đây mới là điều kỳ quặc nhất! Cái giá treo cổ rõ rành rành, cả đồng cỏ nữa, thậm chí cả người đứng trên đó, nói đúng hơn là một cái xe bò với mấy người đàn ông đứng trên xe. Ấy nhưng bỏ kính ra thì chẳng nhìn thấy gì. Hay là tại chiều đang xuống? Để rồi ban ngày ban mặt có ánh nắng, tôi đến tận nơi xem sao.”
“Anh nói là trông thấy nhiều người và một cái xe bò trên đồi hả?” vị điền chủ không tin “họ làm gì ở đó vào lúc ban ngày như thế này, ngay cả khi những cái cây cao đã được đốn hết không còn? Anh nói vô lý quá. Thử nhìn lại lần nữa xem nào!”
“Thì tôi nhìn thấy rõ ràng mà lại! Vâng, phải nói là còn lại một số cây, đa số đã được phát quang đi hết. Và giờ thì, lạy Chúa, có cái gì treo lủng lẳng ở giá treo cổ thật! Nhưng cái ống nhòm này nặng trĩu cả tay không thể giữ lâu được. Tuy nhiên, xin bảo đảm với anh chẳng có rừng rú gì cả. Và nếu anh chỉ đường trên bản đồ cho tôi, mai tôi sẽ đến tận nơi!”
Vị điền chủ ngẫm nghĩ rồi cuối cùng đứng dậy bảo “Được, tôi cho rằng đó là cách giải quyết tốt nhất. Giờ thì về thôi. Tắm rồi ăn cơm tối.” Trên đường về ông ta hầu như không nói gì.
Họ qua vườn trở về nhà vào sảnh cất cây gậy vào chỗ cũ. Ở đây họ gặp ông quản gia Patten đã luống tuổi, rõ ràng đang có vẻ lo lắng. “Thưa ông chủ Henry, xin ông tha lỗi” ông ta nói ngay “nhưng có ai đến đây gây hại rồi ông chủ ạ. Vừa nói ông ta vừa chỉ tay vào cái hộp để mở trên bàn.
“Việc này tệ lắm sao Patten?” vị điền chỉ nói “Chẳng lẽ tôi không thể lấy cái ống nhòm của tôi ra cho một người bạn dùng sao? Ông không nhớ tôi đã mua bằng tiền của tôi ở cuộc bán đấu giá của Baxter sao?”
Patten cúi đầu, nhưng không được thuyết phục lắm “Vâng, thưa ông, chẳng lẽ ông không biết đó là gì? chẳng qua tôi cho rằng phải nói ra đây là bởi vì suốt từ ngày ông cất nó vào đấy ông đã lấy ra bao giờ đâu, với lại xin lỗi ông chủ, sau những gì đã xảy ra…” Giọng Patten ngày càng nhỏ dần, Fanshawe không còn nghe rõ nữa. Vị điền chủ trả lời vài ba tiếng gì đó rồi cười gằn, gọi Fanshawe lại, dẫn bạn lên phòng. Và tôi không thấy cần kể gì thêm về đêm hôm đó
Trừ ra, có lẽ, những cảm giác tràn ngập trong lòng Fanshawe lúc sớm tinh mơ về một điều gì đó đã tuôn chảy ra mà đáng lẽ không được phép. Nó đi vào giấc mơ của ông. Ông đi trong khu vườn không mấy quen thuộc, dừng lại trước một hòn non bộ làm bằng nhiều tảng đá chạm khắc và nhiều mảnh cửa sổ từ một nhà thờ, cùng mảnh vỡ của những bức tượng. Có điều, trí tò mò của ông bị kích thích là vì lẽ, nó giống như một đầu cột, trên chạm khắc nhiều hình thù. Ông cảm thấy muốn lôi nó ra, và lạ thay ông rất dễ dàng xê dịch các phiến đá che lấp nó sang một bên, và lôi cả khối đầu cột ấy ra. Trong khi làm như vậy thì đồng thời một cái nhẫn bằng thiếc rơi đáng keng một cái dưới chân ông. Ông nhặt lên đọc “Không được nhấc tảng đá này ra. Xin cảm ơn . J.Patten ” Như thường thấy trong các giấc mơ, ông cho là huấn thị này vô cùng quan trọng, lo lắng ngày càng tăng, ông nhìn xem tảng đá ấy đã được nhấc ra chưa thì hoá ra nó đã được đem đi đâu không biết, lộ ra miệng một cái hang, ông cúi đầu xuống nhìn thì có cái gì động đậy bên dưới và rồi, ông hoảng hốt thấy một bàn tay thò lên – bàn tay phải, sạch sẽ, có cổ tay áo, ống tay áo hẳn hoi như kiểu một bàn tay giơ ra để bắt tay người khác. Ông tự hỏi, bỏ mặc nó liệu có thô lỗ quá không? Nhưng càng nhìn vào nó thì nó càng mọc lông lá ra, trông bẩn thỉu và gầy guộc đi, cuối cùng thay đổi vị trí, duỗi ra muốn nắm lấy cẳng chân ông. Ông vội vàng bỏ cả lịch sự, chạy bay chạy biến và kêu thét lên. Đến đây ông tỉnh dậy.
Đó là giấc mơ mà ông còn nhớ, bởi vì hình như còn nhiều giấc mơ khác nữa cũng quan trọng nhưng không khắc khoải bằng. Ông nằm chong mắt một lúc lâu, giấc mơ hằn sâu trong trí óc, cố nhớ lại hình ảnh khắc trên đầu cột. một cái gì đó rất phi lý, nhưng ông chỉ nhớ có thế!
Không biết tại giấc mơ hay là tại vì đó là ngày nghỉ hè đầu tiên, ông không dậy sớm và lao vào thám hiểm vùng quê ngay. Suốt buổi sáng, nửa lười nhác, nửa muốn tìm hiểu, ông xem xét qua các cuốn sách nói về những vật đã được chuyển giao từ Hội Cổ Vật quận, trong đó có rất nhiều đóng góp của ông Baxter. Nào dụng cụ bằng đá lửa, các di tích nhà cửa thời Roman, di tích các tu viện…hiến cho khảo cổ học. Chúng được viết bằng giọng văn kỳ quặc, khoa trương của người ít học. Giả sử ông này được học hành, Fanshawe nghĩ, hẳn phải là một tay sưu tầm đồ cổ xuất sắc, hay có khi ông ta cũng khá xuất sắc nhưng vì lúc nào cũng ra vẻ muốn chống đối, muốn gây tranh cãi, thể hiện qua cái giọng ông chủ làm như ta có hiểu biết cao hơn người khác thành ra rất khó chịu. Lẽ ra hắn đã có thể là một nghệ sĩ đáng trọng. Hắn đã hình dung ra việc phục hồi một nhà thờ và ý niệm đó đã được thể hiện ra bằng một tháp chuông ở trung tâm, quanh là nhiều tháp nhọn, giống như hình ảnh ông nhìn thấy từ trên đồi mà vị điền chủ bảo đó là Oldbourne. Nhưng không phải Oldbourne mà là tu viện Fulnaker. Ông tự nhủ “Ồ, ta nghĩ ra rồi, có lẽ nhà thờ Oldbourne do các tu sĩ Fulnaker xây, Baxter thì lại sao chép tháp chuông của Oldbourne. Có cái gì trong phần chữ không nhỉ? À đây rồi. In sau khi Baxter chết. Trong các lá thư của Baxter.”
Sau cơm trưa, vị điền chủ hỏi Fanshawe định làm gì.
“Tôi định lúc bốn giờ sẽ đi xe đạp tới Oldbourne rồi trở về qua đồi Giá treo cổ. Đi về tất cả một vòng khoảng mười lăm dặm chứ gì?”
“Phải đấy” vị điền chủ nói “nếu anh qua Lamsfield và Wanstone thì cả hai nơi đó đều đáng xem. Có một tấm kính nhỏ ở Lamsfield và Wanstone thì có tảng đá.”
“Hay quá!” Fanshawe bảo. “Tôi sẽ dùng trà ở đâu đó. Tôi mang theo ống nhòm được không? Đèo đàng sau xe đạp.”
“Được chứ, nếu anh thích. Tôi thì thế nào cũng phải mua ống nhòm tốt hơn. Hôm nay mà lên thị trấn thì tôi sẽ mua.”
“Tại sao anh phải lo làm việc đó khi mà cái này có thể dùng được?”
“Ồ, tôi cũng chẳng biết, nhưng cũng phải có đôi ống nhòm ra hồn, với lại, Patten cho rằng dùng ống nhòm này không thích hợp.”
“Ông ta là quan toà chăng?”
“Ông ta biết một chuyện đấy, về lão Baxter đấy. Tôi đã hứa để ông ta kể tôi nghe. Ông ta luôn nghĩ tới việc này kể từ đêm hôm qua.”
“Sao lại thế? Ông ta cũng mơ như tôi sao?”
“Có chuyện. Sáng nay ông ta đi gặp một cụ già. Ông ta nói đêm qua không chợp mắt.”
“Chờ tôi về hãy để ông ta kể luôn thể.”
“Được, tôi sẽ cố gắng. Này, anh muộn rồi đấy. Ngộ nhỡ thủng săm xe đạp cách đây tám dặm thì anh đi bộ về à? Mấy cái xe đạp này tin sao được. Tôi sẽ bảo chuẩn bị bữa tối nguội cho chúng ta.”
“Về sớm hay muộn tôi chẳng quan tâm. Tôi có đem theo đồ vá xe đây. Thôi tôi đi đây.”
Vị điền chủ bảo chuẩn bị bữa tối nguội thế mà đúng, không phải chỉ một lần Fanshawe nghĩ như vậy khi ông đẩy xe lên con đường vào nhà lúc chín giờ tối. Vị điền chủ cũng nghĩ và nói y như vậy, có tới mấy lần. Lúc gặp ông trong sảnh, ông ta tỏ ra khá mừng chủ yếu vì đã khẳng định được niềm tin vào cái xe đạp hơn là thông cảm với ông bạn đang mệt mỏi, nóng nực, khát nước và ngơ ngơ ngác ngác. Thực tế ông chỉ nói được mỗi một câu tử tế nhất “Anh muốn uống thứ gì lâu lâu một chút không? Rượu táo nhé? Được. Nghe thấy chưa, Patten? Rượu táo, nhiều đá vào.” Rồi với Fanshawe “Đừng tắm lâu quá anh ạ.”
Chín rưỡi thì họ ngồi vào ăn cơm tối. Fanshawe báo cáo lại những tiến triển, nếu ta có thể gọi là tiến triển.
“Tôi đến Lamsfield rất yên ẩm, xem được tấm kính cửa sổ nhà thờ. Hay lắm, chỉ tiếc có một số chữ không đọc được.”
“Sao không dùng ống nhòm?”
“Ống nhòm của anh mà dùng ở bên trong một nhà thờ – hoặc bên trong bất cứ nơi nào – đều không thể được, mà hôm nay tôi chỉ toàn vào nhà thờ.”
“Hừm! Anh nói tiếp nữa đi.”
“Tuy nhiên tôi có chụp được kính cửa sổ, về sẽ phóng to ra. Rồi đến Wanstone, tôi nghĩ tấm đá đó không phải loại thường, tuy nhiên tôi không hiểu về phân loại cổ vật. đã có ai đào cái gò đất có tấm đá dựng ở trên đó chưa?”
“Baxter rất muốn, nhưng người chủ trại không chịu.”
“Theo tôi thì cũng đáng đào lên. Nhưng cái mới là ở Oldbourne và Fulnaker. Anh biết không, rất kỳ quặc về cái tháp chuông tôi trông thấy từ trên đồi. Nhà thờ Oldbourne không giống thế một chút nào, còn ở Fulnaker thì chẳng có cái gì cao trên chín mét, kể cả tháp chuông ở trung tâm. Tôi đã nói với anh chưa nhỉ? Nhà thờ Fulnaker mà Baxter hình dung sẽ xây lại có tháp chuông giống hệt như cái tôi đã nhìn thấy.”
“Anh nghĩ thế thôi đấy chứ, tôi dám chắc vậy” vị điền chủ bảo.
“Không phải tôi nghĩ ra. Hình vẽ thực chất đã nhắc tôi nhớ tới những gì tôi nhìn thấy qua ống nhòm lúc đứng trên đồi, tôi đinh ninh nó là Oldbourne, trước khi nhìn vào hàng chữ đầu đề.”
“Phải, Baxter có những ý tưởng rất hay về kiến trúc. Thành ra hắn chẳng khó khăn gì mà không vẽ được một tháp chuông cho ra tháp chuông từ những gì còn lại.”
“Dĩ nhiên hắn có thể, nhưng ngay cả những kiến trúc sư chuyên nghiệp cũng khó lòng vẽ được chính xác như thế. Fulnaker giờ chẳng còn gì ngoài lớp móng của mấy cái cột đỡ ngày trước. Tuy nhiên, đó vẫn chưa phải điều kỳ quặc nhất.”
“Thế còn Đồi giá treo cổ?” vị điền chủ hỏi. “Này Patten, nghe tôi kể những gì ông Fanshawe nói về cảnh nhìn thấy từ ngọn đồi chưa?”
“Dạ thưa ông Henry, rồi ạ, và tôi không lấy làm ngạc nhiên.”
“Được rồi, được rồi, từ từ hẵng nói, bây giờ nghe ông Fanshawe đã – Fanshawe, kể tiếp đi. Anh lộn về theo đường qua Ackford và Thorfield chứ gì?”
“Phải, tôi xem xét cả hai nhà thờ. Rồi qua chỗ ngoặt rẽ vào Đồi Giá treo cổ. Tôi thấy từ đỉnh đồi này nếu lao xe đạp qua cánh đồng thì ra được đường về nhà. Sáu giờ rưỡi tôi lên đến đỉnh đồi, bên phải có một cái cổng, theo tôi dẫn ra vành đai của khu trồng trọt.”
“Nghe thấy chưa Patten? Vành đai.”
“Vâng, tôi cũng nghĩ là vành đai. Nhưng thực tế không phải. Anh đã hoàn toàn đúng, còn tôi hoàn toàn sai. Tôi thật không sao hiểu được. Đỉnh đồi thì trồng cây rậm rì. Tôi đi hẳn vào trong rừng, vừa đạp vừa dắt xe, chỉ mong sao cho đến một chỗ rừng thưa, và rồi những chuyện không may bắt đầu xảy ra. Đầu tiên là gai, tôi nghĩ vậy, bánh trước bị thủng, rồi bánh sau cũng thủng nốt. Tôi chỉ dừng lại để đánh dấu những chỗ thủng, nhưng ngay cả việc này cũng không làm nổi, đành cứ thế mà lao vào thêm, càng đi vào càng ngán.”
“Này, Patten, chỗ này ít người săn trộm, đúng không?” vị điền chủ hỏi.
“Vâng, thật vậy, họ ngại vào đây..”
“Quả như thế thật, nhưng thôi Fanshawe, cứ nói tiếp đi.”
“Tôi không trách người ta ít đi vào đây. Tôi biết tôi đã gặp những chuyện cứ như tưởng tượng ra mà không ai thích cả. Tiếng bước chân loạt soạt trên cành cây gẫy phía sau tôi, có bóng người đi sau gốc cây ngay trước mặt tôi, thậm chí có cả một bàn tay đặt trên vai tôi. Tôi lôi mạnh nó ra và nhìn quanh. Không thấy cành cây hay bụi rậm nào gây ra việc đó cả. Rồi, vào đúng giữa rừng thì tôi cảm thấy có ai đó từ trên cao nhìn xuống tôi với ý đồ chẳng tốt đẹp gì. Tôi dừng lại, ít nhất cũng là đi chậm lại, nhìn lên. Vừa làm vậy tôi ngã lăn ngay xuống, thế là trầy hết da cẳng chân. Nhìn xuống, anh biết cái gì không? Một tảng đá to có lỗ vuông ở giữa. Cách đó mấy bước lại có hai tảng đá nữa giống hệt như thế. Cả ba quây lại thành hình tam giác. Anh có biết họ xếp ở đó để làm gì không?”
“Tôi cho là mình biết” vị điền chủ nói, lúc này vẻ mặt nghiêm trang, càng chìm đắm vào câu chuyện “Patten, ngồi xuống đi.”
Ông già một tay đỡ mình, một tay tì vào ghế, cảm thấy đã đúng lúc phải ngồi sụp xuống chiếc ghế và nói bằng giọng run run “Thế ông không đi vào giữa ba hòn đá ấy chứ, thưa ông?”
“Không” Fanshawe nói chắc nịch “Tôi dám nói mình là một thằng đần, nhưng may khi ý thức được đang ở chỗ nào, tôi đã vác cả xe đạp lên lưng mà chạy. Tôi có cảm tưởng mình ở trong một bãi tha ma của quỷ dữ, may mà ngày dài, trời vẫn còn sáng. Tôi chạy đến vài trăm mét, kinh hoàng cả người. Mọi thứ mắc lung tung vào nhau. Tay cầm, nan hoa, giỏ xe, bàn đạp xem mắc vào nhau rất khó hiểu (hay tôi tưởng tượng thế không biết) ngã đến năm lần, cuối cùng thấy hàng rào, tôi mò được cái cổng không khó khăn gì.”
Vị điền chủ xen vào “Về hướng nhà tôi thì làm gì có cái cổng nào.”
“Tôi tranh thủ thời gian đặt xe xuống, tìm ra con đường gần nhất. cuối cùng mắt cá chân vấp phải một cành cây. Tuy nhiên đã ra khỏi rừng, thật là phúc đức, đau đớn ở đâu cũng không hề gì nữa. Sau đó vá xe. Đồ nghề của tôi khá tốt. Tôi lại thạo việc, nhưng lần này hoàn toàn vô vọng. Ra khỏi rừng lúc bảy giờ mà vá xong một bánh xe mất năm mươi phút! Dán xong chỗ thủng, miếng vá tức thì lại bung ra ngay. Tôi đành quyết định đi bộ. Từ ngọn đồi ấy đến đây độ ba dặm nhỉ?”
“Qua cánh đồng thì không đến ba dặm, theo đường thì sáu dặm.”
“Tôi nghĩ cũng phải đến thế. Cứ tưởng như vào giờ ấy rồi thì khó mà dắt xe đi nổi dưới năm dặm. Đó là chuyện của tôi. Còn chuyện của các vị như thế nào?”
“Chuyện của tôi ấy ư? Tôi làm gì có chuyện gì! Nhưng anh nghĩ mình ở trong một bãi tha ma thì cũng không xa sự thực lắm đâu, có một số ngôi mộ ở đấy, đúng không Patten? Họ vẫn còn để lại đấy một số khi chúng đã tan hoang cả, tôi nghĩ vậy.”
Patten gật gù, muốn nói lắm rồi nhưng Fanshawe bảo “Đừng!”
Vị điền chủ bảo “Nào, Patten, ông đã nghe ông Fanshawe vừa trải qua những gì rồi. Theo ông thì sao? Có liên quan đến Baxter không. Hãy rót một ly rượu porto mà uống, rồi kể chúng tôi nghe.”
“A! Uống vào đỡ quá, thưa ông Henry” Patten nói sau khi cạn ly “Ông mà muốn nghe tôi thì xin kể. Phải, tôi cho rằng những gì mà ông đây trải nghiệm hôm nay chính là do con người ông vừa nêu tên gây ra. Và tôi nghĩ tôi có danh nghĩa để kể ra, bởi vì tôi đã từng có nhiều năm quan hệ hiếu hảo với hắn ta, tôi cũng đã tuyên thệ làm bồi thẩm trong vụ điều tra cái chết bất thường của Baxter mười năm trước đây. Ông cố nhớ lại xem, ông Henry, lúc ấy ông đi nước ngoài, không ai đại diện cho gia đình ta cả.”
“Điều tra về cái chết bất thường của Baxter à? Có chuyện ấy à?”
“Vâng, cái chết của chính hắn ta. Sự thể như sau. Hắn ta có nhiều thói quen rất kỳ lạ, ít nhất là theo tôi, nhưng mọi người đều bảo vậy. Hắn sống hoàn toàn một mình, không con không cái, con gà con vịt cũng không, hắn làm gì cả ngày không ai đoán được.”
“Hắn ta sống rất ẩn dật, chết cũng chẳng ai biết” vị điền chủ nói với cái tẩu của mình.
“Xin lỗi ông Henry, tôi đang nói đến chỗ ấy đấy. Nhưng khi tôi nói hắn tiêu thì giờ như thế nào – dĩ nhiên ngoài những lúc đi lùng sục quanh vùng thu thập đủ các thứ có thể tìm kiếm được, quanh đây hàng dặm bán kính ai chẳng nói đến Bảo tàng Baxter – có những lúc hắn vui vẻ rỗi rãi hàng tiếng đồng hồ đem khoe tôi các bình gốm theo hắn là từ thời Roman. Cái đó thì ông biết rõ hơn tôi. Điều tôi muốn nói là, ngoài cái hấp dẫn như lúc hắn nói chuyện, có một cái gì đó về con người ấy, việc đầu tiên là không ai thấy hắn vào nhà thờ vào giờ hành lễ, kể cả nhà thờ nhỏ. Người ta xì xào rằng mục sư của chúng tôi không bao giờ đến nhà hắn trừ một lần. “Xin đừng bao giờ hỏi tôi con người đó đã nói cái gì”, đó là tất cả những gì ông mục sư nói ra sau chuyến viếng thăm ấy. Ban đêm hắn làm gì, đặc biệt mùa này trong năm? Không biết bao nhiêu lần, những người làm đồng đi ra đồng làm việc thì gặp hắn trở về và đi ngang qua họ, không hề chào hỏi ai, trông cứ thẫn thờ như ở nhà thương điên ra. Họ thấy mắt hắn trợn tròn và trắng dã. Tay hắn cầm cái rổ đựng cá, và lúc nào cũng đi trên đúng con đường ấy. Người ta kháo nhau hắn làm một công việc riêng tư gì đó – mà không phải loại việc tốt đâu – cũng gần chỗ ông đứng chiều nay lúc bảy giờ.”
“Vâng, sau một đêm như vậy, Baxter thường đóng cửa hàng, bà già phục vụ không được phép vào, bà này vâng lời tuyệt đối. Một hôm, khoảng ba giờ chiều, nhà đóng kín như tôi nói trên kia, có tiếng lục đục ở trong và một làn khói bốc ra, Baxter rên rỉ như sắp chết. Ông hàng xóm chạy lên thềm nhà hắn, mở toang cửa ra, nhiều người khác cũng chạy vào. Ông hàng xóm kể lại với tôi là suốt đời chưa ngửi thấy mùi gì kinh hơn thế, bốc ra từ bếp. Hẳn là Baxter đang đun thứ gì đó trong một cái bình và vô ý làm đổ vào chân. Hắn nằm lăn dưới sàn nhà, cố kìm tiếng kêu la, nhưng không kìm nổi, thấy người ta chạy vào – ôi trời, hắn ở tình trạng mới hay chứ. Giá mà lưỡi hắn lúc này cũng rộp lên như cái chân bị đau do lỗi của chính hắn vậy. Họ dựng hắn dậy, cho ngồi lên ghế, chạy đi tìm thầy thuốc, một người nhấc cái bình đang đun ra, Baxter vội kêu to “Cứ để nguyên đấy!” Người hàng xóm thấy trong đó có mấy cái xương người màu nâu. Mọi người bảo “Bác sĩ Lawrence sắp tới chữa trị cho ông.” Ông hàng xóm đi về. Baxter hẳn phải lên phòng ngủ lấy khăn phủ lên mọi thứ vì không thể để cho bác sĩ thấy cảnh tượng hỗn độn như vậy được, mọi người bèn lấy cái khăn trải bàn ở phòng khách che đi. Nhưng trong cái bình rõ là có chất độc, bởi gần hai tháng sau Baxter mới lại người. Xin lỗi, ông Henry định nói gì ạ?”
“Tôi thấy làm lạ tại sao trước đây ông không kể gì với tôi vậy? Tuy nhiên, tôi nhớ bác sĩ Lawrence có nói tôi nghe ông ta điều trị cho Baxter thế nào, rất lạ. Một hôm bác sĩ nhặt được trong phòng ngủ của hắn một cái mặt nạ phủ nhung đen, đeo vào rồi ra gương soi. Ông chưa kịp nhìn mặt mình ra sao thì Baxter từ giường kêu toáng lên “Đặt xuống ngay, ông điên à? Ông muốn nhìn qua cặp mắt người chết à?” Bác sĩ giật mình, bỏ mặt nạ ra, hỏi Baxter nói vậy có ý nghĩa gì. Baxter khăng khăng đòi lại cái mặt nạ, nói rằng hắn mua lại của người chết hay câu gì lăng nhăng như vậy. Lawrence sờ vào cái mặt nạ trước khi đưa trả và cảm thấy đó đúng là một cái sọ người. Bác sĩ cũng có mua một bộ điều chế nước cất ở cuộc bán đấu giá đồ đạc nhà Baxter nhưng không bao giờ dùng được, nó bốc mùi hôi kinh lắm, rửa thế nào cũng không sạch. Patten, nói tiếp đi.”
“Vâng, thưa ông Henry, tôi nói đây, chỉ là không biết trong phòng đầy tớ họ nghĩ thế nào về tôi. Vâng, vụ bỏng xảy ra, vài năm trước khi Baxter bị bắt đi, sau vụ đó hắn lại làm việc như trước kia. Và công trình cuối cùng của hắn chính là cặp ống nhòm của ông. Hắn làm cái thân ống nhòm mới lâu làm sao, hắn đã đi mua kính để lắp vào từ lâu nhưng phải chờ cái gì đó để hoàn thành tôi không biết. Một hôm tôi nhấc cái khung lên, hỏi ông Baxter “Sao ông không làm cho xong đi?” hắn nói “Khi nào xong tôi sẽ cho ông biết, sẽ không có ai có được cái ống nhòm như của tôi cả, nhưng còn chờ đổ đầy và gắn lại đã.” Nói đến đây hắn vội ngừng, tôi hỏi “Ông cứ làm như là đổ rượu vào ấy nhỉ? Việc gì mà phải đổ đầy mới gắn nút?” “Ồ, tôi nói thế à, thế ra tôi đang nói như là nói chuyện với người của tôi.” Thời kỳ đó cũng vào mùa này trong năm, và một buổi chiều đẹp trời tôi đi qua cửa hiệu của hắn trên đường về nhà, thấy hắn đang đứng trên bậc tam cấp có vẻ hài lòng với mình ghê lắm, hắn nói “Xong rồi, công trình hạng nhất của tôi đã hoàn thành. Ngày mai tôi sẽ đem chúng theo.” “Cái gì cơ? Cặp ống nhòm ấy à? Tôi muốn xem một chút có được không?” “Không, không, đêm nay tôi để trong giường ngủ, bao giờ đưa anh xem thì mỗi lần nhìn vào đó phải trả tiền.” Thưa quý vị, đó là những lời cuối cùng của con người đó.”
“Hôm đó là ngày 17 tháng Sáu, đúng một tuần sau, có chuyện buồn cười xảy ra, nó làm chúng tôi “rối loạn cả đầu óc” trong cuộc điều tra, vì trừ việc đó ra, không ai biết trong việc làm ăn hắn lại để có chứng cớ chống lại mình như vậy. George Williams sống bên cạnh nhà hắn, giờ vẫn sống ở đó, đêm hôm ấy tỉnh dậy vì trước thềm nhà Baxter như có ai trượt chân ngã lộn nhào, ông ta ra khỏi giường đến bên cửa sổ nhìn xem khách hàng nào mà hung thế. Đêm đó trăng sáng và rõ ràng là không có một ai cả. Ông bèn đứng im nghe ngóng, thấy Baxter bước từng bước xuống bậc tam cấp và có cảm tưởng như có người nào đó bị đẩy lui, tuy người này cố nắm lấy mọi vật trên đường đi xuống. Sau đó ở cửa, ông nghe thấy tiếng cửa cổng mở ra, lần này thì Baxter bước ra đường, mặc quần áo ra ngoài hẳn hoi, hai tay thõng hai bên, nói lẩm bẩm một mình, đầu lắc qua lắc lại và đi một cách miễn cưỡng tựa như bắt buộc phải ra đi không theo ý muốn. George Williams nâng cửa sổ lên, nghe được Baxter van xin “Ôi xin tha cho thưa các ngài” rồi câm lặng luôn như có bàn tay ai bịt miệng hắn lại. Baxter ngửa cổ ra sau, mũ rơi xuống. Williams thấy bộ mặt ông ta vô cùng đáng thương bèn nói to lên “Ông Baxter, ông có làm sao không?” Và định đi tìm bác sĩ Lawrence , nhưng bỗng có tiếng trả lời “Hãy lo việc của mình đi! Thụt đầu vào!” Nhưng có phải là tiếng Baxter không thì không rõ, vì nghe khàn khàn và thều thào. Ngoài Baxter không thấy ai khác ở ngoài phố. Tuy nhiên nghe cái giọng Baxter như thế, ông Williams hoảng người rụt cổ vào, ngồi trên giường. Ông ta nghe tiếng bước chân Baxter đi xa dần, sau đó một phút, không đừng được, ông lại thò đầu ra, thấy Baxter vẫn đi theo cái kiểu kỳ lạ như trước. Ông ta nhận xét có điều lạ là Baxter không hề dừng lại nhặt mũ, mà cái mũ đã được để ở trên đầu ông ta. Vậy đó, ông Henry ạ, dưới là người cuối cùng nhìn thấy Baxter, ít nhất là trong hơn một tuần. Ai cũng bảo ông ta đi có công việc, hoặc rơi vào tình trạng khó khăn nào đó, nhưng người cả vùng trong vòng bán kính một dặm ai chẳng biết ông ta, không thấy ông ta ra ga hoặc xuất hiện ở một nơi công cộng nào, người ta tìm dưới ao, cũng không thấy. Cuối cùng, một ngày nọ, Fakes, người giữ nhà, khi qua đồi để xuống làng thì thấy ngọn Đồi giá treo cổ đầy những chim là chim, đậu đen ngòm, mà từ trước chưa hề thấy thế bao giờ. Dân chúng người nọ nhìn người kia, một người nói “Tôi lên xem thế nào”, người khác bảo “Ông đi, tôi cũng đi.” Lúc chiều tà khoảng nửa tá người lên đó, đem theo cả bác sĩ Lawrence , và ông Henry biết không, hắn ở giữa ba tảng đá, cổ bị gãy.”
Ta chẳng cần hình dung mấy người bàn tán những gì sau khi nghe câu chuyện kể. Trước khi Patten rời bước, ông lão hỏi Fanshawe “Xin lỗi ông, hôm nay đi đường ông có mang theo ống nhòm không? Chắc là có. Ông có dùng đến không ạ?”
“Có. Tôi nhìn vào cái gì đó trong nhà thờ thì phải.”
“Ồ! Ông đem nó vào nhà thờ à?”
“Phải. Vào nhà thờ Lambsfield. Tôi vẫn còn buộc nó sau xe đạp dựng ở sân chuồng ngựa ấy.”
“Không sao, sáng mai tôi cất vào sớm, các ông sẽ xem lại nó cũng vừa.”
Thế là sáng hôm sau, sau một giấc ngủ yên và trước bữa ăn sáng, Fanshawe mang ống nhòm ra vườn nhìn lên ngọn đồi xa xa. Ông lập tức hạ nó xuống, điều chỉnh đi điều chỉnh lại, thử lên thử xuống, cuối cùng nhún vai đặt nó trên chiếc bàn trong sảnh.
“Patten” ông nói “không thể dùng được nữa rồi. Hoàn toàn không nhìn thấy gì, cứ như có ai bịt ống kính đi.”
“Này, làm hỏng ống nhòm của tôi rồi hả?” Vị điền chủ nói “Thật cám ơn anh, tôi chỉ có mỗi cái ống nhòm này thôi.”
“Anh thử xem thế nào. Tôi có làm gì đâu?” Fanshawe bảo.
Sau bữa ăn sáng, vị điền chủ đưa họ ra sân thượng, đứng trên bậc tam cấp, thử đi thử lại mấy lần. “Trời, tại sao nó vẫn nặng thế này!” ông sốt ruột nói và đánh rơi luôn ống nhòm xuống lớp đá, kính vỡ tan, thân ống nhòm nứt ra, một thứ chất lỏng tràn thành vũng trên đất đá, đen như mực, cái mùi nó toả ra thì kinh tởm không thể tả nổi.
“Đổ đầy và gắn lại, hả?” vị điền chủ nói “Tôi không muốn động vào nhưng chắc chắn là có chỗ hàn. À, thì ra dụng cụ chưng cất, nhỏ giọt của hắn dùng vào việc này đây. Tay đào mả xác chết khủng khiếp!”
“Sao anh lại nói vậy?”
“Anh không nhớ là hắn bảo bác sĩ “nhìn qua mặt người chết” hả? Thì cũng là một cách nói chứ sao! Nhưng các xác chết không thích xương mình bị nấu chảy lên, cuối cùng chúng đem hắn đi, dù hắn không muốn. Tôi có cái xẻng đây, ta chôn nó cho tử tế.”
Họ lật lớp đất mặt lên, vị điền chủ trao cái xẻng cho Patten – người đứng xem với vẻ kính nể – bảo Fanshawe “Đáng tiếc là anh đem nó vào trong nhà thờ, ngoài ra anh còn được nhìn thấy nhiều thứ nữa. Baxter có nó trong một tuần lễ, tôi tin hắn chưa kịp nhìn được bao nhiêu.”
“Chắc gì anh nói đúng” Fanshawe nói “tôi chẳng nhìn được hình ảnh Tu viện Fulnaker là gì!”