Giếng Thở Than

Chương 16: Ông Humphreys và địa sản thừa kế


Đọc truyện Giếng Thở Than – Chương 16: Ông Humphreys và địa sản thừa kế

Khoảng mười lăm năm về trước, một ngày cuối tháng Tám hoặc đầu tháng Chín, một chuyến tàu hoả lăn bánh vào Wilsthorpe, một nhà ga vùng quê miền Đông nước Anh. Cùng một số hành khách khác, một người trẻ tuổii bước ra, anh ta khá đep trai, cao, tay xách cái tu du lịch cùng một số giấy tờ được buộc thành một cái gói. Có vẻ như anh ta được chờ đón, theo cái kiểu anh ta nhìn quanh thì biết, và quả vậy. Ông trưởng ga chạy xuống vài bậc tam cấp, và hình như chợt nhớ ra, quay lại gật với một ông mập mạp có bộ râu ngắn đang hoang mang nhìn vào con tàu như tìm ai. “Ông Cooper”trưởng ga gọi “có lẽ quý ông của ông đây này”, sau đó sống với chàng thanh niên hành khách vừa bước ra khỏi ánh sáng “Ông Humphreys phải không ạ? Chào mừng ông tới Wilsthorpe. Trong sảnh có xe bò chở hành lý cho ông rồi còn đây là ông Cooper, chắc ông đã biết”. Ông Cooper vội tiến lại, nâng mũ chào rồi bắt tay “Hân hạnh được lặp lại lời ông Palmer. Lẽ ra tôi phải là người đầu tiên nói những lời đó nhưng vì chưa biết mặt ông, ông Humphreys ạ. Mong cho những ngày ông ở đây toàn là những ngày lịch đỏ. “Cám ơn ông Cooper về lời chúc của ông, cũng xin cám ơn ông Palmer. Tôi hy vọng việc thay đổi người quản lý đất đai – hẳn các ông chắc đều lấy làm tất cả – sẽ không đến nỗi làm những người sắp tới đây mất vui” Anh ngừng lời cảm thấy những lời nói của mình không hợp với niềm vui chung lắm. Ông Cooper cũng ngắt lời “Ồ, ông yên tâm đi, xin bảo đảm với ông sự đón tiếp nồng nhiệt đang chờ đợi ông từ tứ phía. Về việc thay đổi người quản lý địa sản có ảnh hưởng xấu đến hàng xóm láng giềng không thì, vâng, ông chú quá cố của anh…” đến đây ông Cooper cũng dừng, có thể do lời khuyên từ bên trong và cũng có thể vì ông Palmer hắng giọng, hỏi ông Humphreys đưa vé. Hai người rời nhà ga. Theo đề nghị của Humphreys, họ di bộ về nhà ông Cooper, cơm trưa đang chờ họ.

Quan hệ giữa hai nhân vật trên xin gặp bằng mấy dòng sau đây. Humphreys được thừa hưởng địa sản của ông chú. Việc này hoàn toàn đột ngột, anh chưa đến đây cũng chưa nhìn thấy ông chú bao giờ. Anh chỉ có một mình trên đời này. Là người nhiều năng lực lại tốt nết và là nhân viên của một cơ quan nhà nước từ bốn năm năm nay, anh chưa đủ điều kiện sống như một nhà quý tộc thôn quê. Là người chăm chỉ nhưng khá nhút nhát, anh it khi có những thú vui ngoài trừ chơi gôn và làm vườn. Đây là lần đầu anh xuống Wilsthorpe để bàn việc với ông Cooper, người quản lý địa sản. Có những việc cần lưu tâm đến. Ta sẽ hỏi tại sao là lần đâu? Chẳng lẽ anh ta tệ đến thế không về dự đám tang ông chú nhỉ? Câu trả lời dễ thôi, lúc chú anh mất, anh đang ở nước ngoài, địa chỉ của anh người ta không tìm được ngay. Vì vậy đợi khi mọi việc sẵn sàng chờ đợi, anh mới về. Lúc này đây anh về đến căn nhà ấm cúng của ông Cooper, đối diện nhà cha xứ, và vừa bắt tay bà Cooper và cô Cooper xong.

Trong chờ dọn ăn tối, mọi người ngồi trong phòng khách, riêng Humphreys thầm toát mồ hôi, biết người ta đang nhận xét, đánh giá mình.

“Mình ạ,” ông Cooper bảo vợ “tôi vừa bảo ông Humphreys là tôi hy vọng và tin rằng mỗi ngày ông sống ở Wilsthorpe cùng chúng ta sẽ được đánh dấu như một ngày lịch đỏ”

“Nhất định rồi, em chắc thế” bà Cooper vui vẻ nói, “và sẽ là rất nhiều, rất nhiều ngày như thế”

Cô Cooper cũng khẽ nói mấy lời tương tự, Humphreys nói đùa anh sẽ bôi cuốn lịch thành màu đỏ hết, ai nấy đều cười xoà nhưng rõ ràng họ không hiểu hoàn toàn. Đến đây bữa ăn được dọn xong.

Sau một lát im lặng, bà Cooper hỏi “Ông có biết gì về vùng này không ạ?” Câu hỏi dùng để mở đầu này rất khéo.

“Dạ không, rất tiếc là không” Humphreys đáp “Tôi thấy thật vui mắt, nếu nhìn từ trên tàu xuống”

“Ồ, đúng là một nơi vui mắt, đôi khi tôi nói trong cả nước chưa thấy vùng nào đẹp hơn, dân ở đây cũng rất đông. Tiếc rằng ông đến hơi muộn hơn các cuộc liên hoan trong vườn”

“Vâng, tiếc quá!” Humphreys nói, thoáng có vẻ nhẹ mình, và rồi cảm thấy phải ra khỏi đề tài này “Nhưng thưa bà, giả sử tôi có về đây sớm hơn, chắc tôi cũng không tham dự được, đang có tang..”

“Ồ chết chửa, tôi đang nói gì vậy? (ông Cooper và cô Cooper im lặng đồng tình) Ông tha lỗi cho! Ông sẽ nghĩ về tôi thế nào đây”

“Dạ không sao thưa bà. Tôi thật không dám nói. Chú tôi mất tôi quá đau lòng, tôi chưa bao giờ gặp ông ấy cả, chẳng qua tôi chỉ cho rằng trong một thời gian có lẽ tôi không nên tham gia các cuộc vui chơi đó thì hơn”

“Phải, ông nghĩ như vậy phải lắm, phải không George? Ông thực lòng tha thứ cho tôi chứ? Nhưng nghĩ lạ quá, thế ông chưa bao giờ gặp cụ Wilson ?”

“Dạ chưa từng, và cũng chưa bao giờ nhận được lá thư nào của cụ. Nhưng thưa bà, tôi cũng có việc cần được bà tha thứ đây. Tôi chưa có dịp nào cám ơn bà, trừ trên thư, về việc khiến bà phải bận lòng tìm người trông nom cho tôi ở ngôi nhà trong địa sản của chú tôi”

“Có gì đâu thưa ông Humphreys? Xin bảo đảm hai người này sẽ làm ông hài lòng. Hai vợ chồng. Chồng coi như quản gia, vợ trông coi việc nhà. Tôi biết họ từ rất lâu, họ rất tử tế. Ông Cooper sẽ lo cho ông những người hầu ngựa và làm vườn”

“Đúng đấy ạ. Bồi ngựa và người làm vườn thì nhiều, chỉ mỗi ông làm vườn chính là ở lại từ thời cụ Wilson còn sống thôi. Phần lớn gia nhân, như ông đã thấy trong di chúc, đều được hưởng một ít tiền, nên họ về nghỉ cả. Như vợ tôi nói đấy, ông quản gia và vợ ông ấy sẽ khiến ông hoàn toàn vừa ý.”

“Vậy là ông Humphreys ạ, mọi thứ đã sẵn sàng ngay từ ngày hôm nay, theo đúng như ông muốn” bà Cooper nói “như thế trừ việc thiếu người ở, thành ra tôi sợ có thể ông cảm thấy mọi việc tạm ngừng trệ. Có điều chúng tôi biết chắc ông sẽ muốn tới ở ngay, chúng tôi lấy thế làm sung sướng lắm”

“Vâng thưa bà, cám ơn bà rất nhiều. Tôi muốn lao vào cuộc ngay cho xong. Tôi đã quen sống một mình, tối tối tôi cũng có nhiều việc lắm, xem sách báo, giấy tờ trong những ngày sắp tới. Riêng chiều nay, giá ông Cooper có thời gian cùng tôi đi thăm ngôi nhà và khu đất…”

“Nhất định rồi. Nhất định rồi. Ông muốn giờ nào cũng được”

“Cho tới giờ ăn tối thôi, thưa cha!” cô Cooper nói. “Và đừng quên tối nay nhà mình tới nhà Barnett đấy nhé. Và cha đã có tất cả các chìa khoá vườn chưa?”


Humpheys hỏi “Cô Coper, cô có làm vườn giỏi không, thưa cô? Mong cô cho biết tôi có thể chờ đợi gì ở ngôi nhà đó?”

“Ô, ông Humphreys, tôi không biết thế nào là làm vườn giỏi. Tôi thì tôi thích hoa lắm – nhưng vườn bên nhà ấy cũng đẹp lắm. Hiện hơi cổ một chút, toàn là bụi dâu. Lại còn có một cái miếu, thêm vào đó là một mê cung (maze) nữa chứ”

“Thật ạ? Thế cô đã khảo sát nó bao giờ chưa?”

“Khô-ô-ng.” Cổ Cooper trề môi, lắc đầu “đã từ lâu tôi muốn lắm, nhưng cụ Wilson lúc nào cũng khoá nó lại, không cho cả phu nhân Wardrop vào xem (phu nhân sống gần đây, ở Bentley, mà ông biết không, bà ấy là một người làm với tuyệt vời đấy). Chính vì vậy mà tôi vừa hỏi cha tôi có tất cả các chìa khoá hay không”

“À ra thế. Thế nào tôi cũng phải ngó vào đó mới được, mà học được đường đi trong đó rồi tôi sẽ hướng dẫn cô vào xem”

“Ồ, cám ơn ông quá, ông Humphreys! Vậy là tôi được cười lại cô Foster rồi (cô ấy là con gái ông mục sư, họ đang đi nghỉ hè, những người rất thú vị) Chúng tôi vẫn đùa với nhau xem ai được vào mê cung trước”

“Có lẽ chìa khoá vườn để ở nhà bên ấy” ông Cooper nói , mắt vừa nhìn vào một chùm chìa khóa lớn có ý tìm. “Có một số trong thư viện đây rồi. Nào, ông Humphreys, ta tạm biệt các bà, lên đường đi thám hiểm nào”

Ra khỏi cửa trước nhà ông Cooper, Humphreys phải bước đi giữa hai hàng người trịnh trọng – nói cho đúng thì chẳng phải đoàn tuần hành có tổ chức gì, nhưng anh phải giở mũ chào rất nhiều người và bị nhìn ngắm bởi khá nhiều đàn ông đàn bà tập trung đông đảo hơi bất thường trên đường đi. Anh còn trao đổi vài lời với vợ ông gác công viên và với chính ông này đang đứng trên con đường qua công viên. Tôi không có thì giờ mô tả suốt đoạn đường, nhưng dọc theo nửa dặm từ công viên đến ngôi nhà, Humphreys đã tranh thủ hỏi hắn người bạn đường về ông chú mới qua đời của mình. Ông Cooper nhanh chóng đi vào một bài bình luận khá dài.

“Kể cũng lạ, như vợ tôi nói lúc nãy, ông chưa bao giờ gặp cụ! Ông sẽ không hiểu lầm tôi chứ, ông Humphreys? Tôi tin vậy, nếu tôi nói ông và cụ chẳng có gì là hợp nhau. Chẳng phải tôi có ý phản đối gì cụ. Tuyệt đối không. Tôi sẽ nói ông nghe về cụ” Ông Cooper nhìn thẳng vào mặt Humphreys “giống như tục ngữ nói, cụ sống trong vỏ sò. Cứ như một người ốm yếu nằm dưỡng bệnh. Chính xác như thế. Hoàn toàn như thế. không tham gia vào việc gì xung quanh. Một tờ báo địa phương, nhân dịp cụ mất, có đăng một số lời về cụ với ý chính như vậy, để rồi tôi sẽ đưa cho ông xem, nếu có dịp. Nhưng thưa ông” ông Cooper lấy tay đập đập vào ngực mình “Ở cụ có một điểm đáng ca ngợi vô cùng – đáng khen nhất – cụ thẳng thắn cởi mở như ban ngày, xử lý việc gì cũng thoải mái, hào phóng, không thành kiến. Cụ có trái tim để thông cảm, bàn tay để dàn xếp. Chỉ vướng mỗi chuyện không may là sức khoẻ của cụ, nói cho đúng, tình trạng thiếu sức khoẻ của cụ.”

“Vâng, tội nghiệp cho cụ. Không hiểu cụ có mắc bệnh hiểm nghèo gì không ngoài bệnh già?”

“Không, không, chỉ có thế thôi. Như ngọn đèn lụi dần. Về câu hỏi kia của ông, câu trả lời phủ định. Hay là cụ mắc chứng thiếu linh hoạt? phải đấy. Duy có điều cụ bị ho ghê lắm. À ta đến nhà rồi đây. Toà nhà đẹp đấy chứ, ông có thấy thế không, ông Humphreys?”

Nhìn chung, nó đáng được gọi là toà nhà đẹp, chỉ mỗi bị mất cân đối. Nhà cao, bằng gạch đỏ, có lan can kiểu đơn giản, che khuất gần hết cả mái nhà, cứ như thể một toà nhà thành thị xây ở chốn thôn quê, có tầng hầm, có bậc tam cấp khá bề thế dẫn lên cửa trước. Lẽ ra với chiều cao đó toà nhà phải có hai chái, nhưng không. Chuồng ngựa, các phòng khác bị cây cao che lấp. Humphreys đoán nó được xây khoảng năm 1770.

Đôi vợ chồng già làm quản gia và bà coi nhà đã chờ sẵn bên trong cửa trước. Cửa mở ra khi ông chủ mới tới. Tên họ là Calton. Nhìn vẻ mặt, phong cách của họ và qua tiếp xúc, Humphreys có ấn tượng tốt. Ngày mai anh sẽ đi thăm tầng mái và hầm rượu với ông Calton, bà Calton cũng sẽ trình bày với anh về đồ vải, giường chiêu. Những gì hiện có, những gì cần có. Anh và ông Cooper ho họ lui, rồi đi thăm toàn cảnh ngôi nhà. Bản đồ địa hình không cần. Các phòng lớn dưới nhà rất đẹp, nhất là thư viện, rộng ngang phòng ăn, có ba cửa sổ cao trông ra phía Đông. Phòng ngủ của Humphreys ngay trên nóc thư viện. Các bức tranh rất đẹp, đều là tranh cổ. Đồ đạc cũ cả, sách vở thế kỷ mười bảy. Sau khi nghe ông Cooper nói, xem qua vài sửa chữa đã thực hiện cho ngôi nhà và ngắm chân dung cụ Wilson treo trong phòng khách, Humphreys cuộc phải thừa nhận với Cooper là vị tiền bối của anh không có gì hấp dẫn anh cả. Thật buồn, anh không cảm thấy có gì tiếc thương – dolebat se dorer non posse – Khổ cho anh không thể đau đớn, cho con nhầm, không hiểu có hay không có thiện chí, với người cháu ông không hề biết, đã giúp anh có được cơ ngơi sung túc như thế này. Anh cảm thấy ở Wilsthorpe này anh sẽ hạnh phúc và đặc biệt là ở trong thư viện.

Bây giờ đến lúc ra vườn. Khu chuồng ngựa trống trơn hãy để đó đã, nhà giặt cũng vậy. Thế là họ tiến ra vườn và quả như cô Cooper nghĩ, khu vườn rất nhiều tiềm năng. Ông Coper giữ ông làm vườn ở lại là phải. Cụ Wilson quá cố rõ ràng là chẳng thấm nhuần những quan điểm mới mẻ nhất về làm vườn. Ấy nhưng dưới mắt của một người hiểu biết khu vườn đã cho thấy có sự chăm nom và sửa sang, dụng cụ làm vườn thì tuyệt hảo. Cooper rất sung sướng khi thấy Humphreys tỏ ra vui thích, “Tôi có thể nhìn thấy cái thú của ông ở đây, chắc chắn ông sẽ làm chốn ày trở thành một nơi thường được lui tới không bao lâu nữa đâu. Tiếc rằng hôm nay không có Clutterham ở đây – ông làm vườn chính – lẽ ra ông ấy phải có mặt rồi nếu con trai ông ấy không bị sốt, giá ông ấy được thấy khu này tác động mạnh đến ông như thế nào”

“Vâng, ông đã nói tôi biết lý do vì sao ông ấy không có mặt, tôi rất tiếc khi biết lý do, nhưng mai còn có thì giờ mà. Thế còn cái nhà trắng xây trên mô đất cuối bãi cỏ kia? Có phải cái miếu mà cô Cooper nói tới không?”

“Đúng đấy ạ. Gọi là đền Hữu Nghị. Ông nội của chú ông cho xây toàn bằng đá hoa cương Ý. Có lẽ ta quay lại đó chăng. Ông sẽ nhìn thấy toàn cảnh rất đẹp”

Đường nét lớn của ngôi đền giống như đền Sibyl ở Tivoli , trên có vòm, chỉ khác ở chỗ nó nhỏ hơn nhiều. Vài bức chạm nổi lăng mộ cổ được gắn vào tường, nhìn toàn bộ có hơi hướng của chuyến du lịch sang lục địa. Cooper tra chìa khoá vào ổ, loay hoay một lúc mới mở được cánh cửa nặng. Bên trong trần nhà rất đẹp, đồ đạc thì không có gì. Một đống những viên đá lớn, hình tròn, choán gần hết diện tích sàn nhà, mỗi viên đá trên khắc khá sâu một chữ cái. Humphreys hỏi “Nghĩa của chúng như thế nào nhỉ?”

“Nghĩa ấy ạ? Chúng ta đều biết cai gi cũng có ý nghĩa của nó, tôi cho đống đá này cũng vậy. Nhưng dù mục đích nó là cái gì đi chăng nữa” thái độ ông Cooper lúc này có vẻ mô phạm “thì tôi chịu không giải thích cho ông được. Tất cả những gì tôi biết về chúng được tóm tắt trong mấy từ thôi. Là thế này, chúng được chú ông cho khiêng từ mê cung tới đây, thời tôi còn chưa vào làm cho cụ kia, mê cung ấy, ông Humphreys, là…”

“Ồ, mê cung!” Humphreys kêu lên “Tôi quên khuấy đi mất. Ta phải xem chỗ ấy một cái. Ở đâu hả ông?”

Cooper kéo anh ra cửa đền, dùng gậy chỉ “Hướng mắt ông về phía này nhé” ông ta nói (kiếu cách hơi giống “The second Elder trong “Susana” của Handel – hướng đôi mắt mệt mỏi của anh về tít phía Tây kia, nơi có mấy cây sồi xanh cao cao nổi bật trên trời) “Nhìn theo cây gậy của tôi đây, đến tận cùng chỗ thẳng góc với nơi tôi đang đứng đây, tôi xin ông nhìn cho cái cổng tò vò ở đâu lối vào ấy. Ông sẽ thấy nó ở đúng nơi tận cùng của con đường dẫn đến cái đên này. Nếu vậy tôi phải vào trong nhà lấy chìa khoá đã. Ông cứ đi bộ ra đó trước đi, tôi sẽ theo kịp ông ngay.”


Thế là Humphreys thả bộ thong dong theo lối đi dẫn tới đến, qua vườn trước ngôi nhà, qua đoạn đường đất có cỏ mọc tới chỗ cổng tò vò ông Cooper chỉ. Anh rằng ngạc nhiên thấy quanh khu mê cung là tường cao bao bọc, cổng tò vò có cửa sắt khoá chặt, anh nhớ lại cô Cooper có nói chú anh cấm không cho ai vào khu vực này của khu vườn. Anh đang đứng trước cổng của nó và chờ rất lâu không thấy Cooper đến. Suốt mấy phút anh đứng đọc dòng chữ ở cửa vào, câu châm ngôn “Secretum meum mihi et filiis domus meae – Đây là nơi ở hẻo lánh của tôi và là ngôi nhà của tôi cho các con cháu – và cố gắng nhớ lại xem được trích dẫn từ đâu ra. Anh sốt ruột muốn trèo qua tường vào trong, nhưng chẳng bõ, giả sử anh mặc bộ quần áo khác kia, hoặc giả cái khóa – đã cũ kỹ lắm – có thể bẻ được…Không, không có vẻ thế, anh điên tiết đã vào cái cửa thế là nó mở ra và cái khóa rơi xuống. Anh mở toang cửa, làm rạp xuống một đám cây tầm ma, và đi vào trong.

Nó là một mê cung của những cây thủy tùng, hình vòng tròn, các hàng rào cây lâu ngày không tỉa xén, mọc xum xuê tùm lum cao vọt lên theo một chiều rộng cũng như chiều cao vô cùng phi chính thống. Các đường đi hầu như tắc nghẽn hết. Chỉ còn cách lao vào thục mạng bất chấp bị chà xước, bất chấp các cây tầm ma châm vào da thịt, bất chấp ẩm ướt, Humphreys mới mở được đường. Tuy nhiên, dù hoàn cảnh khó khăn mấy anh vẫn tin thế nào cũng quay ra được vì đường vào để lại vết tích rất rõ. Từ xưa tới nay anh chừa vào một mê cung nào, vậy là lúc này đây anh đã có dịp bổ sung thiếu sót. Sự ẩm ướt tối tăm của nó cũng mùi cỏ lý gia, cành tầm ma bị giẫm nát chỉ là những điều thú vị chứ không có gì khác. Chưa thấy cái gì là rối ren phức tạp cả. Anh đã vào gần tới trung tâm của mê cung (tại sao vẫn chưa thấy ông Cooper đâu), chẳng hề để tâm mình đã đi theo con đường nào. Ái chà! Trung tâm đây rồi! Vào được cũng dễ thôi. Ở đây có một phần đường cho anh. Lúc đầu anh cư tưởng vật trang trí ở trung tâm là một chiếc đồng hồ mặt trời, nhưng khi anh vạch hết các cành mâm xôi và bìm bìm ra, anh thấy nó không phải một vật trang trí bình thường. Một cột đá cao khoảng một mét hai, trên là một quả cầu kim loại – có lẽ bằng đồng vì phủ lớp gỉ đồng màu xanh – có chữ khắc vào đó, cả hình nữa, ở vòng ngoài, mà khắc rất đẹp là đàng khác.

Thoáng nhìn vào các hình đó Humphreys nghĩ ngay đến một trong những thứ bí ẩn mà người ta gọi là thiên cầu [1] từ đây chưa ai moi ra được thông tin nào về thiên đàng cả. Tuy nhiên vì tối quá – có lẽ do ở trong mê cung – anh chưa nhìn kỳ được cái vật kỳ lạ này, hơn nữa anh đã nghe tiếng ông Cooper, vang to như tiếng voi trong rừng rậm. Humphreys gọi ông ta đi theo lối anh đã mở, chẳng mấy chốc anh ta tới nơi, thở hổn hà, hổn hển, xin lỗi tới tấp vì đến muộn vì không tìm được chìa khóa. “Nhưng đây này!” ông nói “chẳng khác gì tục ngữ nói, ông đã vào tới trong lòng của bí ẩn mà không cần giúp đỡ hay rèn luyện. Tôi cho là đã ba, bốn mươi năm nay chưa từng có bước chân người vào đây. Tôi cũng chưa đặt chân vào tới khu cây cối tường rào bao quanh như thế này. Này ông, có câu tục ngữ thế nào ấy nhỉ, về việc thiên thần cũng không dám bước chân tới ấy? Trường hợp này càng chứng tỏ câu ấy đúng” Quá quen biết với Ccoper, tuy chưa bao lâu, Humphreys tin rằng ông ta không có ý ám chỉ gì xấu, trước nhận định ấy anh chỉ im, anh đề nghị nên vào nhà dùng ly trà muộn và để Coper có thì giờ đi chơi buổi tối như đã hẹn. Họ rời mê cung, hầu như dễ dàng trở ra theo lối ban nãy đã vào.

Humphreys hỏi khi họ trên đường về nhà “Ông nghĩ sao về việc chú tôi khóa khu vực này cẩn thận đến thế?”

Cooper thẳng người lên, Humphreys cảm thấy ông ta sắp sửa thổ lộ điều gì “Chắc hẳn tôi làm ông thất vọng, nhưng tôi chẳng biết tí gì cả. Hồi mới vào làm cho cụ, mười tám năm trước đây, mê cung này giống hệt như bây giờ, lần duy nhất nghe nói đến là như ông mới nghe con gái tôi nói ban sáng. Phu nhân Wardrop – tôi không có gì chê bai bà ta cả – viết thư xin phép vào mê cung. Chú của ông đưa tôi xem thư – thư rằng lịch sự – về phía bà ta không thể đòi hỏi gì hơn.Cooper cụ bảo ông thay mặt tôi trả lời thư này “Thưa vấng tôi đã quen làm cả thư ký cho cụ, nhưng trả lời như thế nào ạ?” “Gửi lời chào phu nhân, nói với bà giá như phần đất này do tôi chịu trách nhiệm, tôi sẽ mời bà ta vào thăm ngay, đằng này nó đóng chặt từ bao giờ rồi, xin bà đừng yêu cầu, tôi xin cảm ơn nhiều Đó là lời cuối cùng của cụ về cái mê cung ngày. Tôi chẳng còn gì để nói. “Trừ phi” Cooper nói thêm sau một lát “Có thể, như tôi đoán thôi, cụ không ưa gì (ai chẳng có cái mà mình ghét) kỷ niệm về ông nội cụ, người đã cho lập nên cái mê cung đó. Cụ cố khá kỳ quặc, và đi du lịch nhiều ghê lắm. đến kỳ Sabbah [2] này, ông có muốn xem bài vị của cố đặt ở nhà thờ giáo khu, sau khi cố chết ít lâu, thì xem”.

“Ồ, một người có cái thị hiếu xây dựng mê cung như vậy hẳn thích xây cho mình một lăng tẩm riêng”.

“Không hẳn như ông nói đâu, tôi không tin di hài cụ nằm tại nơi đó, trong hầm mộ gia đình đâu! Kể cũng lạ. Tôi đâu đủ cương vị nói với ông chuyện này! Với lại, sau rốt thì, ông Humphreys ạ, có gì là quan trọng, cái nơi chôn cất hình hài của thi thể ta ấy, phải không ạ?”

Đến đây họ vào nhà, ức đoán của Cooper bị ngắt quãng.

Trà được dọn trong thư viện. Cooper lại nói về đề tài phù hợp với nơi này “Thật là một bộ sưu tập sách tuyệt vời! Toàn quyển hay nhất đấy, những người sành sỏi ở vùng này đều bảo thế. Tôi còn nhớ có lần chú ông cho tôi xem một quyển toàn tranh các thành phố ngoại quốc, hấp dẫn lắm, phong cách hạng nhất hết. Có một quyển sách viết tay, mực tươi như vừa được viết hôm qau, cụ bảo đó là di phẩm của một thầy tu nhiều trăm năm trước đây. Bản thân tôi cũng rất quan tâm đến văn học. Chẳng còn gì thú vị bằng sau một ngày làm việc nặng nhọc được đọc sách một giờ đồng hồ, còn hơn phí thời gian tán dóc ở nhà bạn bè suốt buổi tối – À thôi chết, nhớ ra rồi, tôi phải về đây, không vợ tôi lại mè nheo, để đi phung phí thời gian kiểu đó ở nhà bạn bè tối nay! Tôi phải về ngay, ông Humphreys ạ”

“Và tôi cũng nhớ ra” Humphreys nói “nếu ngày mai tôi muốn đưa cô Cooper đi xem mê cung, thì ta phải phát quang đi một chút. Ông bảo ai đó đến làm việc này được không?”

“Được chứ ạ. Sáng mai vài người dùng liềm và phát quang thành con đường mòn ngay ấy mà, để bây giờ qua ông gác công viên tôi sẽ dặn lại, ông khỏi phải tự mình dùng gậy rẽ cây, họ cũng nên đánh dấu đường vào, cắm gậy hay đặt cuộn dây theo chân họ để lúc ra cho dễ”.

“Ý ông hay quá, xin ông làm việc ấy cho, tôi xin chờ bà và cô Cooper chiều mai, còn ông, mười giờ rưỡi đúng”.

“Rất vinh hạnh. Cả vợ và con tôi, và tôi. Xin chào ông, Humphreys. Chúc ông ngủ ngon”.

Humphreys ăn bữa tôi lúc tám giờ. Vì là buổi tối đầu tiên ở đây, hơn nữa Calton có vẻ muốn chuyện trò, anh cũng vừa đọc xong quyển truyện mua dọc đường, đành ngồi nghe và trả lời Calton ít câu về hàng xóm láng giềng, mùa trong Nam . Mùa thì năm nay hợp thời tiết, hàng xóm thì thay đổi đáng kể – cũng chẳng có hại gì – Calton cả thưở nhỏ sống ở đây. Cửa hiệu của làng thì đặc biệt tiến bộ kể từ năm 1870. Nay mua được ở đó khối thứ, rất tiện, ngộ nhỡ đột xuất cần thứ gì thì Calton có thể chạy xuống đó (nếu như cửa tiệm còn mở) để đặt mua, khỏi vay của nhà mục sư. Ngày xưa chỉ mua được nến, xà phòng, nước mật đường. Sách tranh cho trẻ con giá một xu, mà chín trên mươi lần thứ người ta nên yêu cầu là rượu Whisky kia. Nhìn chung, Humphreys thấy trong tương lai anh phải chuẩn bị một quyển sách.

Thư viện đúng là nơi để phục vụ cho những giờ buổi tôi sau bữa ăn. Tay cầm nến, miệng ngậm tẩu, anh đi đi lại lại trong phòng một lúc, xem đầu đề các cuốn sách. Anh có khuynh hướng ưa thích thư viện cổ, đây chính là dịp để anh làm quen một cách hệ thống với một thư viện như thế, vì anh được biết qua Cooper là không có catalog, trừ một catalog sơ sài, mục đích để chứng thực di chúc, giờ đây lên một catalog hợp lý là cách tiêu thì giờ thú vị cho mùa đông. Có thể tìm ra kho tàng sách cổ cũng nên, biết đâu có cả bản thảo viết tay, như ông Cooper nói.

Đi khảo sát một vòng như thế anh nhận thức ra (cũng như đa số chúng ta trong trường hợp ấy) phần lớn bộ sưu tập sách của chú anh là không thể nào đọc nổi. “Nhà xuất bản Cổ văn và các Cha, Các Nghi thức Tôn giáo của Picart, Tạp Văn của Harleian, cứ cho là rất hay đi, nhưng ai mà đọc Tostatus Abulensis, hoặc Pineda on Job,hoặc quyển nào đại loại như vậy?” Anh nhặt lên một quyển sách nhỏ, giấy khổ bốn, bìa đã long, các chữ nhãn đã rơi ra hết. Nhớ ra tách cà phê đang chờ, anh ngồi vào một chiếc bành rồi mở sách ra. Những lời anh kết tội nó hoàn toàn dựa trên cơ sở bề ngoài. Theo anh nghĩ hẳn đây phải là một tập các vở kịch độc nhất vô nhị, nhưng nhìn bên ngoài thấy trống trơn, có vẻ lạnh lẽo và đầy đe doạ.

Thực tế quyển sách gồm toàn những bài thuyết pháp, những suy tưởng, trang đầu đã bị xé mất, hình như thuộc nửa sau thế kỷ mười bảy. Lật các trang, mắt anh bắt gặp một lời ghi chú bên lề “Một chuyện ngụ ngôn cho Hoàn cảnh bất hạnh này”, tác giả thật giàu trí tưởng tượng trong sáng tác. Đoạn này viết “Tôi đã nghe hoặc đọc được ở đâu đó, không hiểu là Truyện Ngụ ngôn hay Chuyện Kể, tuỳ độc giả phán xét, về một Người Đàn Ông giống như Theseus [3] trong Attick Tale muốn tự mình phiêu lưu vào một mê cung. Loại mê cung không được thiết lập theo kiểu của các nghệ sĩ Topiary thời bây giờ, mà theo một phạm vi rộng hơn nhiều, có cả hầm bẫy hay nói cách khác những thứ mang điềm xấu thường ẩn núp rất kỹ, gặp hay không là tùy may rủi. Người Đàn Ông không muốn nghe lời khuyên can của bạn bè. Một người Anh bảo “Xem kìa, một người đã đi vào đó, không theo lời khuyên của mọi người, thế là không ai còn nhìn thấy anh ta nữa! một người Mẹ nói “Một người khác chỉ đi vào trong đó một đoạn đường ngắn, lúc ra mất hết cả trí khôn, không kể lại được đã trông thấy cái gì, ban đêm ngủ không yên” Một người láng giềng thì kêu lên “Anh không nghe kể về những bộ mặt như thế nào đã nhìn từ qua hàng rào sắt và các chấn song cổng sắt ư?” Nhưng tất cả những lời nói đó đều không ăn thua, Người Đàn Ông vẫn cứ đi theo mục đích của mình. Bởi vì hình như ở đất nước này, trong những cuộc chuyện trò bên đống lửa người ta thường đồn rằng ở chính giữa trung tâm các mê cung, có một thứ đá quý rất đắt tiền và hiếm gặp, người nào tìm thấy nó sẽ trở nên giàu có, vậy nên anh ta kiên gan đi vào trong đó. Còn gì nữa? Quid multa – Làm gì mà nói nhiều thế? Thế là Kẻ Phiêu lưu bước qua cổng, và suốt một ngày trời bạn bè không được tin tức gì của anh ta, ngoài vài tiếng kêu xa xa trong đêm tối, làm họ trằn trọc trong giường và toát mồ hôi vì sợ, chẳng còn nghi ngờ gì nữa, em họ, con trai họ đã được ghi thêm vào danh sách những kẻ không may đắm thuyền trong cuộc phiêu lưu. Sáng hôm sau họ đến cha xứ ở giáo khu để khóc lóc xin được kéo chuông tưởng niệm. Họ đau đớn đi qua cánh cổng của mê cung, họ đi vội đi vàng cho mau qua vì sợ. Họ trông thấy một thi thể nằm vật trên đồng hoang, họ tới đó (ta biết họ đã đoán trước được đìều gì) và thấy chính là người thân của họ mà họ tưởng đã mất hẳn, anh ta chưa chết nhưng bất tỉnh nhân sự như người đã chết. Những người đi đưa ma vui mừng trở về, tìm mọi cách hồi sức đứa con hoang tàng của họ, người mà tỉnh lại, nghe chuyện mọi người lo lắng chạy lung tung suốt sáng hôm sau đó, nói rằng: “Thôi các người đừng làm vậy nữa, tôi đã đem về Ngọc Quý đây (anh đua họ xem và quả là ngọc quý thật). Tôi mang nó về nhưng từ nay đêm quên ngủ, ngày quên vui” ngay lúc đó họ tưởng họ hiểu ý nghĩa điều anh nói, họ tưởng anh đau ở trong bụng, nhưng anh bảo “Nó là ở trong ngựcc tôi đây này, tôi không sao thoát khỏi được”. Chẳng cần thầy phù thủy tài giỏi nào giúp họ phán đoán, họ cũng biết đó là vì anh ta nhớ lại những gì anh đã trông thấy, nó khiến anh ta đảo lộn hết cả tâm trí. Suốt một thời gian dài họ không thấy ở anh điều gì khác ngoài sự lên cơn và hoảng hốt. Sau cùng họ tìm mọi phương kế để biết được những điều sau đây: thoạt đầu, lúc mặt trời lên cao chiêu sáng rạng rỡ, anh vui vẻ tiến tới trung tâm không khó khăn gì, và lấy ngay được ngọc quý, sung sướng trở về. Nhưng đêm xuống, lúc các con thú trong rừng hoạt động, anh cảm thấy có một sinh vật cứ cùng đi với anh theo tốc độ của anh, cứ nhìn vào anh chằm chằm, anh đứng lại thì Bạn đồng hành cũng đứng lại, làm anh hoảng loạn tâm thần. Đêm càng khuya anh càng cảm thấy có thêm nhiều sinh vật nữa, hầu như cả một đoàn tháp tùng anh. Anh phỏng đoán theo tiếng lột sột, loạt soạt, răng rắc giữa các bụi cây, hơn thế nữa có tiếng thì thầm lao xao cứ như chúng chuyện trò bàn bạc với nhau. Chúng là ai và hình dáng thế nào, không ai thuyết phục được anh nói ra là anh nghĩ gì. Khi được những Người Nghe hỏi: tiếng kêu anh nghe thấy trong đêm (như ở trên kia mô tả) anh cho là tiếng gì, thì anh bảo: Khoảng nửa đêm (anh ước đoán) anh có nghe người gọi tên anh từ rất xa, anh thề rằng đó là tiếng của người gọi anh. Anh đứng lại và reo to nhất có thể nhưng có lẽ đó chỉ là tiếng vang, tiếng vọng lại của chính giọng anh, nó biến dạng thành những tiếng thì thào chăng, vì sau đó im lặng không nghe thấy gì nữa. Sau đó có tiếng chân bước như đang chạy đàng sau anh, anh sợ quá cứ thế cắm đầu chạy và chạy cho đến sáng. Đôi khi, lúc mệt hết hơi anh ngã sấp mặt xuống, hy vọng Bọn Đuổi Theo sẽ chạy vượt quá anh trong đêm tối, nhưng đúng lúc ấy bọn chúng cũng dừng lại, anh nghe thấy tiếng chúng thở hổn hển và hít hít như tiếng chó săn. Nó làm anh khiếp vía đến nỗi anh những muốn liều đổi hướng hoặc rẽ ngoặt bất thình lình để mong làm sao chúng không đánh hơi được anh. Sự sợ hãi do ráng sức chưa phải là tất cả, anh còn lo rơi vào một cái Bẫy ngầm nào đó mà anh nghe có nhiều người nói đến và chính mắt anh cũng trông thấy có rất nhiều trên cái lối đi, cả ở giữa đường lẫn hai bên đường. Anh nói chưa bao giờ có một đêm nào khủng khiếp, ghê gớm hơn cho một con người bằng cái đêm anh chịu đựng ở trong mê cung. Viên Ngọc quý nằm trong ví anh, đáng quý nhất, hơn hẳn những viên ngọc mang về từ Ấn độ nhưng cũng không xứng đáng là phần thưởng đủ bù lại những đau đớn mà anh phải trải qua”

“Tôi không muốn viết thêm ra đây lời kể của con người rối loạn thần kinh đó, tôi tin sự thông minh của bạn đọc sẽ hiểu được ý tương đương mà tôi muốn đem ra để so sánh. Bởi chẳng phải ngọc quý cũng chỉ là biểu tượng cho sự thoả mãn mà Người đàn ôntg có thể có được cho mình từ Kho Tàng Những Niềm Vui của Thế giới hay sao? Còn chính mê cung là hình ảnh của bản thân Thế giới trong đó Kho tàng của cải ấy (nếu như ta tin ở tiếng nói chung) được cất giữ?”

Đọc tới điểm này Humphreys thấy nên kiên trì thêm một chút cho thay đổi không khí, còn câu chuyện ngụ ngôn của tác giả có “tiến triển” gì nữa thì hãy cứ để đấy đã. Anh đặt quyển sách vào chỗ cũ tự hỏi không hiểu chú mình có làm thế hay không khi cụ đọc đến đoạn này, nếu vậy, có lẽ nó tác động lên trí tưởng tượng của cụ để mạnh khiến cụ đâm ra ghét một cái mê cung và quyết định khoá chặt mê cung trong vườn của mình.


Sau đó không lâu Humphreys vào giường.

Sáng hôm sau anh làm việc với ông Cooper khá vất vả, ông này tuy nói năng thì hoa mỹ thật, nhưng công việc điền trang nắm vững không hơn đầu ngón tay. Ông ta tỏ ra phấn chấn hồ hởi lắm, không hề quên việc phát quang mê cung, công việc sẽ được tiến hành ngay, con gái ông muốn đi thăm nó mà. Ông cũng hy vọng đêm qua Humphreys ngủ ngon, thời tiết cứ tiếp tục như thế này thì thích hợp quá. Đến bữa trưa, ông tán sang các bức tranh ở phòng ăn, chỉ vào chân dung người cho xây đền và mê cung. Humphreys lưu tâm nhìn kỹ. Nó là tác phẩm của một người Ý, được vẽ khi cụ cố Wilson sang thăm Ý thời còn trẻ (quả thật nó có nền là các cây cột lớn). Khuôn mặt mỏng tái xanh, đôi mắt to tướng, tay cụ cầm một cuộn giấy mở dở, trong đó phân biệt được hình ngôi nhà hình tròn, có lẽ là là cái đền, và một phần của mê cung. Humphreys leo hẳn lên một cái ghế đứng nhìn cho kỹ nhưng tranh vẽ không đủ tỏ tường sao chép lại do đó anh nghĩ mình sẽ phải lập bản đồ khu mê cung trong vườn để cho các khách đến thăm sử dụng, anh sẽ treo bản đồ đó trong sảnh.

Quyết định này được khẳng định ngay chiều hôm đó vì khi bà Cooper và cô Cooper sang chơi, rất hăm hở dẫn họ vào xem mê cung, anh thấy rằng mình không thể đưa họ vào đến trung tâm của mê cung. Những người làm vườn sau khi tiến vào đã bỏ đi tất cả các mốc họ đánh dấu, ngay cả Cluterham, lúc được gọi đến giúp, cũng chẳng giúp được gì. “Cụ Wilson, tôi muốn nói cụ Humprheys, đã cho sắp đặt những mê lộ hoàn toàn giống nhau để khiến cho người ta dễ lạc. Thôi được, tôi sẽ cố dẫn lối cho các vị, xin theo tôi. Tôi sẽ đặt cái mũ ở đây đánh dấu nơi khởi hành. Ông ta rậm rịch bởi vì và năm phút sau đưa cả đoàn an toàn về lại chỗ cái mũ. “Thế này mới lạ chứ” ông ta cười ngượng nghịu “rõ ràng lúc nãy tôi để cái mũ trên cây mâm xồi mà nay, các vị thấy không, làm gì có bụi cây mâm xôi nào? Ông Humphreys – phải tên ông không ạ? Tôi xin được gọi một tốp mấy người làm việc sáng nay ở đây, để họ đánh dấu lại”

William Crack tới, đáp lại việc bị gọi liên tiếp. Anh ta cũng khá khó khăn mới ra được đến chỗ cả đoàn. Lúc đầu người ta nhìn thấy anh trong một lối đi mé trong, rồi gần như ngay lúc đó, lại thấy anh xuất hiện trên một con đường mé ngoài. Tuy nhiên cuối cùng anh cũng tới chỗ đoàn, được hỏi ý kiến thì anh cũng lớ ngớ, sau đó anh được yêu cầu đứng cạnh cái mũ mà Cutterham cho rằng vẫn cứ nên đặt ở dưới đất. Chiến lược ấy cũng chẳng đi đến đâu, suốt bốn mười nhăm phút họ đi quanh đi quẩn trong mê cùng hoàn toàn vô ích, cuối cùng thấy bà Cooper quá mệt, Humphreys đành mời mọi người vào nhà dùng trà và xin lỗi cô Cooper”.

“Giá nào thì cô cũng thắng cô Foster” anh nói “hôm nay cô đã ở trong mê cung rồi, tôi hứa việc đầu tiên tôi làm là sẽ vẽ bản đồ có hàng lối đánh dấu hẳn hoi để cô đi qua.” “Vâng thưa ông, tôi thấy đó là điều cần thiết” Clutterham nói “phải có người vẽ bản đồ có hàng lối. Ai vào đây vô phúc gặp mưa rào thì chạy ra sao kịp, hàng nhiều tiếng đồng hồ mới ra nổi ấy chứ. Nói ngắn gọn, tôi đề nghị ông, cứ mỗi giờ một hàng dọc chặt đi hai cây cao để có thể nhìn thông suốt vào trong. Ấy làm thế thì kể chẳng còn gì là mê cung nữa, chẳng hiểu ông có đồng ý không?”

“Không, tôi vẽ bản đồ trước đã, đưa ông một bản sao. Để sau hãy hay, khi nào có cơ hội tôi sẽ nghĩ đến đề nghị của ông, bây giờ chưa chặt vội”

Humphreys vừa tự ái vừa xấu hổ về thất bại ban chiều cho nên ngay xẩm tối hôm đó anh tự làm cuộc thám hiểm một mình cho thoả mãn. Anh càng cáu thêm khi tìm ra trung tâm chẳng khó khăn gì. Anh định vẽ bản đồ ngay, nhưng ánh sáng đã tắt, đem bút giấy vào tới nơi thì không kịp nữa.

Vì vậy sáng hôm sau, mang theo bảng vẽ, bút chì, compas, giấy bìa cứng.. (một số mượn Cooper và một số tìm được trong tủ thư viện), anh tới thẳng trung tâm mê cung (không hề ngần ngại) bày vật liệu ra. Tuy nhiên anh chưa bắt đầu công việc ngay. Các cành mâm xôi, cỏ dại phủ quả cầu và cây cột nay đã được dọn sạch, lần đầu tiên anh nhìn rõ bên trong. Cái cột thì không có gì đặc biệt, giống những cây cột trên đó đặt đồng hồ mặt trời. Nhưng quả cầu thì khác. Tôi đã nói có chữ và những hình rất thanh tú khắc trên đó. Lúc đầu Humphreys tưởng là một quả thiên cầu, nhưng anh mau chóng nhìn ra nó không giống với quả thiên cầu mà trước đây anh đã được từng nhìn thấy. Chỉ có mỗi một hình quen thuộc là con rắn có cánh – Draco – bao quanh quả cầu, tức là ở vị trí đường xích đạo của một quả địa cầu, mặt khác, nửa bán cầu trên thì phần lớn bị che bởi hai cánh dang rộng của một hình thù khá lớn, đầu ẩn dưới cái vòng ở chỏm quả cầu. Quanh đầu có thể đọc được mấy chữ Princeps tenebrarum – Hay nhất là ở chỗ tối om. Nửa bán cầu dưới có một vùng đầy nét gạch chéo, ghi umbra mortis – bóng đen của xác chết. Gần đó là một rặng núi trong có một thung lũng, với những ngọn lửa đang dâng lên. Có cả chữ (chắc bạn sẽ ngạc nhiên khi biết) vallis filiorum Hinnom – Thung lũng của các cháu Hinnom. Trên và dưới Draco có rất nhiều hình vẽ khác nhau, không khác những tranh về các chòm sao nhưng cũng không hẳn giống. một người đàn ông trần truồng nâng một cây gậy, không như Hercules mà như Cain [4] . Một người nữa, nửa người ngập trong đất, vươn lên hai cánh tay tuyệt vọng ra, là Chore không phải Ophiuchus. Người thứ ba, tóc buộc vào một cái cây toàn rắn, là Absolon [5] . Gần người cuối cùng là một người đàn ông áo dài mũ cao, đứng giữa một vòng tròn, đang nói với hai con quỷ râu tóc bờm xờm bay lượn phía ngoài, được mô tả như là Hostanes Magys [6] (một nhân vật không quen thuộc với Humphreys). Toàn cảnh là tập hợp của các bậc lão thành xấu xa, có lẽ không phải là không chịu ảnh hưởng của tiểu luận triết học của Dante. Humphreys nghĩ nó thể hiện thị hiếu bất thường của cụ cố anh, nhưng lại nghĩ có khả năng nó cũng chính là thứ cụ mang về từ nước Ý và chẳng buồn quan sát kỹ bao giờ. Có điều chắc chắn, nếu cụ đánh giá nó rất cao thì đã không để nó phơi ra nắng gió như thế này. Anh gõ gõ vào kim loại, có vẻ rỗng và không dày lắm. Sau đó anh quay đi làm công việc của mình. Sau nửa giờ miệt mài, anh nhận ra nếu không có đầu mối thì công việc không thể nào tiến triển được. Anh bèn dùng một cuộn dây của Clutterhamm, thả ra dọc theo các lối đi từ cửa vào cho đến trung tâm, cuối cùng buộc vào cái vòng ở đỉnh quả cầu. Nhờ vậy trước giờ ăn trưa, anh đã lập được một sơ đồ tàm tạm, ăn xong anh sẽ vẽ lại kỹ hơn. Tới giờ uống trà, Cooper sang gặp anh, ông phấn khởi trước tiến bộ của anh “Cái này” ông Cooper nói, đặt tay lên quả cầu rồi vội rụt tay lại ngay “úi chà! Sao nó giữ nhiệt kinh khủng thế này nhỉ, nhiệt độ cao một cách lạ thường ông Humphreys ạ. Tôi cho rằng loại kim khí này – đồng, phải không ạ? – là chất dẫn nhiệt, dẫn điện gì đó mà”

“Chiều nay mặt trời nóng ghê lắm” Humphreys nói, không đá động gì đến khía cạnh khoa học “nhưng tôi đâu thấy nó nóng lắm đâu nhỉ. Đối với tôi nó không nóng lắm thì phải”

“Kỳ quặc!” Cooper nói “Giờ tôi không đặt nổi tay lên nó nữa. Có lẽ khí chất ông và tôi khác nhau mất rồi, ông Humphreys ạ. Ông lạnh, tôi nóng, nó khác nhau như thế đấy. Suốt cả mùa hè vừa rồi, ông có tin được không, tôi ngủ trần đấy nhé, chỉ tắm nước lạnh. Ngày này qua ngày khác…ông để tôi giúp ông cái dây”

“Ông cứ để đấy, cám ơn ông. Giá như ông gom nhạt lại các bút chì, các thứ đang nằm kia thì hay hơn. Thôi ta đủ các vật dụng rồi, về thôi”

Họ rời mê cung, Humphreys vừa đi vừa cuộn dây.

Đêm hôm ấy trời mưa.

Không may nhất là, chẳng biết có phải lỗi của ông Cooper hay không, tấm sơ đồ bị bỏ quên tại chỗ, nước mưa làm hỏng hết. Chẳng còn cách nào, đành phải vẽ lại (nhưng điều này nhanh thôi). Cuộn dây lại được trải vào chỗ cũ, khởi sự từ đầu. Tuy nhiên chưa tiến hành được bao nhiêu thì Humphreys bị ngắt quãng bởi Calton đem tới một bức điện tín, ông sếp cũ cần thẩm vấn anh, rất khẩn cấp nhưng sẽ không kéo dài. Kể cũng chán, nhưng không lấy gì làm nản lòng, trong nửa giờ nữa có chuyến tàu, nếu mọi chuyện thông đồng bén giọt thì anh có thể trở về lúc năm giờ, muộn nhất là tám giờ. Anh đưa bản đồ cho Calton cất vào trong nhà. Dây thì anh không cần cuốn, cứ để nguyên.

Mọi việc diễn biến như anh mong đợi. Anh đã trôi qua một buổi tối khá thú vị trong thư viện, thắp đèn xem các cuốn sách quý hiếm. Khi đi ngủ anh lấy làm mừng là đầy tớ đã nhớ cho mở hé rèm và để ngỏ cửa sổ. Tắt đèn xong, anh ra đứng cạnh cửa sổ trông ra phía sau vườn và công viên. Đêm ấy trăng sáng vằng vặc. Chỉ vài tuần nữa là gió thu về, đâu còn không gian yên lặng trong đêm tĩnh mịch này nữa! Giờ đây những khu rừng xa xa chìm trong yên lặng dày đặc, những thảm cỏ thoai thoải lóng lóanh bụi sương, màu sắc hoa cỏ gần như phân biệt được . Ánh trăng soi tỏ chiếc mái nhà của ngôi đền và bờ cong của cái vòng bằng chì. Humphreys phải thừa nhận rằng, qua những gì đang nhìn, niềm tự hào của thời đại trước quả là một cái đẹp thực sự. Tóm lại ánh sáng, mùi hương của rừng cây, sự tĩnh mịch tuyệt đối đã gợi lên bao liên tiếng cổ kính trong tâm hồn anh, anh cứ nghiền ngẫm nó một lúc lâu. Từ cửa sổ nhìn vào, anh cảm thấy mình chưa bao giờ được nhìn một cảnh đẹp vẹn toàn như vừa rồi. Chỉ có một hình ảnh không hoà đồng vào quang cảnh chung là một cây thủy tùng Ailen nhỏ, đen, mỏng manh vươn thẳng lên các bực dâu gần cổng vào mê cung. Anh nghĩ, phải chặt bỏ cái cây này đi. Mà lạ thật, không ai thấy chướng mắt về vị trí của nó.

Tuy nhiên sáng hôm sau, mải trả lời thư từ, soát lại sách vở với ông Cooper, anh đã quên cây thủy tùng Ailen. Một lá thư mới tới. Thư của phu nhân Wardrop, nó làm anh nhớ lại bức thư bà đã viết cho cụ Wilson . Bà giải thích ngay bà đang sắp ra một quyển sách về mê cung, do đó rất muốn đưa vào sách sơ đồ mê cung Wilsthorpe, vậy nếu được ông Humphreys cho bà tham quan nó một ngày gần đây thì bà rất cám ơn, bà sắp ra ngoại quốc nghỉ đông. Nhà bà ở Bentley không xa gì lắm, Humphreys cho người đưa thư tay mời bà hôm sau hoặc hôm sau nữa tới thăm, sứ giả mang về lời biết ơn nồng nhiệt, mai bà sẽ tới.

Ngày hôm đó bản đồ mê cung cũng được hoàn tất rất thành công.

Đêm lại rực rỡ và êm ả, Humphreys cứ tha thẩn bên cửa sổ. Cây thủy tùng lại biểu hiện trong đầu óc anh khi anh sắp kéo rèm cửa. Nhưng không biết đêm trước anh nhầm hay cái cây không đến nỗi chướng mặt như anh tưởng. Dù sao, anh thấy không có lý do gì để can thiệp vào đó nữa. Tuy nhiên, có một thứ cần loại bỏ, đó là một bụi cây mọc um tùm ngay sát tường nhà, có nguy cơ che mất cửa sổ tầng dưới. Xem ra chẳng nên giữ làm gì, vừa ẩm vừa tối, mất vệ sinh, tuy anh chưa nhìn thấy toàn bộ nó.

Ngày hôm sau, thứ sáu (anh đến Wilsthorpe thứ hai) phu nhân Wardrop đi xe đến ngay sau giờ ăn trưa. Đó là một bà già mập mạp, chuyện nổ như ngô rang, đủ các loại, tỏ ra muốn làm vừa lòng Humphreys, người đã cho phép bà tới thăm vườn. Họ cùng nhau thăm thú kỹ càng khu vườn, bà đánh giá cao khả năng làm vườn của anh và rất nhiệt tình với kế hoạch cải tổ vườn tược, nhưng cho rằng không nên phá hoại những gì mọc quanh ngôi nhà. Bà đặc biệt thích ngôi đền “Ông Humphreys ạ, tôi nghĩ người quản lý đất đai của ông có lý khi cho rằng những viên đá có chữ này có ý nghĩa gì đó. Một trong các mê cung của tôi – rất tiếc đã bị những người ngớ ngẩn phá đi – là ở Hamsphire, người ta cũng đánh dấu bằng cách ấy. Ở chỗ tôi là những viên ngói, nhưng chữ trên đó giống như trên đá của ông đây, sắp đặt cho đúng trình tự thì trở thành một câu – tôi quên mất – về Theseus và Ariadne [7] . Tôi có chép lại. Sơ đồ của mê cung ấy tôi vẫn còn. Ai đời họ làm những việc phá phách như vậy bao giờ. Chắc tôi sẽ không tha thứ cho ông nếu ông phái cái mê cung này đi. Ông biết không, ngày nay nó trở thành quý hiếm đấy. Năm nào tôi cũng nghe nói người ta lại phá đi vài nơi. Thôi bây giờ ta tới mê cung đi. Nếu ông bận, tôi biết đường không sợ lạc đâu bởi tôi biết rõ các mê cung lắm . Mặc dù đã có một lần tôi bỏ bữa trưa – cách đây không lâu – khi đi vào mê cung ở Busbury. Còn nếu ông cố gắng cùng đi được với tôi, thì càng hay.”

Sau lời mào đầu tin cẩn ấy, người ta cứ tưởng phu nhân Wardrop sẽ bị lạc trong mê cung Wilsthorpe này, nhưng không, chỉ có điều không biết bà có thật vui mừng đã thoả lòng mong ước hay không. Bà quan tâm tới nó một cách thực sự – còn chỉ cho Humphreys những vết tích cho thấy nơi các hòn đá có chữ đã nằm, đất chỗ đó hơi bị nén xuống. Bà cũng bảo anh các mê cung khác giống nơi đây về cách sắp xếp, vàgt cho anh bằng cách nào người ta tính được tuổi các mê cung trong vòng hai mươi năm qua sơ đồ của chúng. Mê cung này theo bà được thiết lập từ năm 1780. Quả cầu hoàn toàn khiến bà bận trí, bà bị thu hút hết tâm tưởng vào đó. Lần đầu tiên bà biết tới nó, bà nhìn kỹ nó thật lâu. “Tôi muốn chà xát vào đó xem sao, nếu ông cho phép. Tôi quả không muốn tự động làm bất cứ cái gì ở đây và có cảm giác làm như vậy sẽ bị oán giận. Thưa ông, ông hãy thú thật với tôi xem” bà quay lại đối diện với Humphreys “Có phải từ lúc ông đến đây cứ như là có ai đó đang theo dõi chúng ta, xem ta có đi quá phạm vi không, nếu quá, lập tức bổ xuống đầu chúng ta ngay, ông không cảm thấy ư? “Ồ, tôi cảm thấy thế đấy, thôi ta hãy mau mau ra cổng đi”.

“Sau rốt thì” bà nói khi hai người trên đường vào nhà, “có lẽ do ở đó thiếu không khí và nóng nực nên trí não tôi bị ảnh hưởng, tuy nhiên có điều tôi cần nhắc lại, mùa xuân sang năm tôi trở về, nếu nơi đây mà bị đào xới lên tôi sẽ không tha thứ cho ông đâu đấy nhé”

“Đào xới hay không thì bà cũng có bản đồ của nó rồi còn gì, thưa phu nhân. Tôi đã hoàn thành, tối nay sẽ sao một bản cho bà”.

“Tuyệt vời! Tôi chỉ cần một bản vẽ chì, có ghi dấu tỉ lệ, để so sánh với các bản đồ của tôi. Cám ơn ông lắm”


“Vâng, sáng mai bà sẽ có nó. Nhưng tôi muốn bà giúp tôi giải mã về các tảng đá”

“Ở trong nhà nghỉ mùa hè ấy ạ? Đó là một câu đố chữ cần sắp xếp có trình tự mà ở đây thì chưa. Thường người ta đặt những viên đá đã vào chỗ nào là có ý đồ cả – ông tìm xem trong các giấy tờ của chú ông có tờ nào nói về chúng không. Nếu không, tôi sẽ tìm cho ông một chuyên gia về các chữ trên đá đó”

“Xin bà một lời khuyên nữa. Cái bụi cây ngay dưới cửa sổ thư viện kia, bà có nhìn thấy không ạ?”

“Bụi cây nào nhỉ? Tôi chẳng thấy gì cả, dù tôi nhìn xa rất tốt”

“Có lẽ bà nói đúng, từ trên cửa sổ tôi nhìn xuống thì thấy, ngay bên dưới đó, tôi cho rằng nó chiếm mất nhiều chỗ quá, nhưng đúng là từ đây không nhìn thấy thật. Thôi tôi hãy tạm gác lại đã”.

Dùng trà xong phu nhân Wardrop đi về, được nửa đường xuống cổng, bà dừng xe vẫy tay Humphreys lúc này vẫn còn đang đứng trên bậc tam cấp. Anh chạy lại “Ông xem thử mặt dưới các tảng đá xem, có thể có đánh số” bà nói.

Tối hôm đó thế nào cũng phải hoàn thành bản sao sơ đồ mê cung cho phu nhân Wardrop, mất độ hai giờ là ít nhất, Humphreys đem bút giấy vào thư viện, bắt đầu làm việc. Đêm rất oi bức nhưng yên tĩnh, cửa sổ mở, mấy lần anh rờn rợn như có con dơi bay vào nên có ý canh chừng cửa sổ. Một hai lần gì đó anh cho là không phải dơi, một cái gì đó to hơn nhiều và có ý định vào tận chỗ anh. Thật khó chịu nếu có kẻ nào đó lẻn qua bậu cửa sổ vào nhà và lại đang núp dưới sàn!

Bản sao vẽ xong, chỉ còn so nó với bản chính và xem các con đường để mở hay đóng lại có đúng cách hay không. Hai ngón tay đặt trên hai tờ giấy, anh dò dẫm suốt từ cổng vào, có vài chỗ sai sót nhỏ trên dọc đường, tuy nhiên vào đến trung tâm thì thật rối loạn, có lẽ do có một con dơi thứ ba bay vào phòng. Trước khi chữa lại bản sao, anh theo dõi cẩn thận những chỗ ngoặt cuối cùng của con đường bên bản chính. Những chỗ ngoặt này đúng cả, đưa vào trung tâm không một vướng mắc nào. Ở đây có một điểm mà có lẽ không cần sao lại làm gì, một vết đen tròn to bằng đồng siling. Mực chăng? Không phải. Cứ như thể một cái lỗ. Làm sao có lỗ ở đây được? Đôi mắt mệt mỏi của anh nhìn chăm chăm vào đó. Việc vẽ bản đồ rất công phu, anh buồn ngủ, có cảm giác bị đè nén…Nhưng rõ ràng nó là một cái lỗ rất lạ, xuyên sâu qua giấy, qua cả cái bàn rồi qua cả sàn nhà bên dưới, sâu xuống mãi, mãi, mãi như vô tận. Anh thảng thốt, vươn cổ nhìn theo. Cứ tựa như hồi ta còn bé, ta cứ nhìn đăm đăm vào một ô vuông con con trên khăn phủ giường cho tới khi nó biến thành cả một quang cảnh với những ngọn đồi có rừng che phủ, có khi còn thấy cả nhà thờ, ta mất hết cả ý niệm về kích thước, cái lỗ trên trong lúc ấy biến thành thứ duy nhất ở trên đời này đối với Humphreys. Chẳng hiểu vì lý do gì lúc đầu anh rất ghét nó, nhưng rồi cứ nhìn vào đó mãi, tuy nhiên anh cảm thấy lo lắng, cảm giác này ngày càng mạnh hơn, rồi anh bỗng hoảng hồn, sợ hãi dâng lên trong người anh, dần dần một nỗi tin chắc nó hành hạ anh đến khổ sở. Anh tin rằng một điều khủng khiếp đang trên đường đến với anh và một khi trông thấy cái điều khủng khiếp đó thì anh không thể nào thoát được. Phải, tận nơi sâu thẳm kia, một động thái đang chuyển dịch lên phía trên, lên tận trên mặt lỗ. Nó cứ lên dần, lên dần và gần lại anh, màu nó màu đen. Không phải một lỗ mà nhiều lỗ, rồi nó thành hình một cái mặt – mặt người – cháy thiêu, cùng với những đau đớn quằn quại đáng ghê tởm của một con ong bắp cày bò ra từ một quả táo thối, nó leo lên thành một hình thù vẫy vẫy hai cánh tay đen ngòm chuẩn bị siết chặt đầu người đang nhìn xuống.

Humphreys tuyệt vọng vì hết đường trốn chạy, anh lên cơn động kinh, giật nửa người ra sau và đập đầu vào cái đèn, ngã lăn ra đất.

Có chấn động não, hệ thần kinh bị sốc nặng, phải nằm tại giường khá lâu. Bác sĩ hoang mang chẳng hiểu gì cả. không phải vì triệu chứng – mà vì lời Humphreys nói lúc anh bắt đầu nói được “Tôi mong ông mở quả cầu (open the ball – cũng có nghĩa là mở cuộc khiêu vũ)” Bác sĩ gắng trả lời như sau “Tôi cho là trong đó chật chỗ quá, nhưng có lẽ đó là việc của ông thì đúng hơn việc của tôi, chân tôi bây giờ còn nhảy nhót gì nữa”. Nghe thế, Humphreys lâm bẩm gì đó rồi quay vào ngủ tiếp, bác sĩ bèn bảo các y tá bệnh nhân chưa qua khỏi nguy hiểm. Khi anh đủ sức diễn đạt cho mọi người hiểu ý mình, Humphreys nói rõ ra, mọi người hứa thực hiện ngay. Anh lo lắng bồn chồn chờ kết quả. Sáng hôm sau, bác sĩ trông có vẻ nghĩ ngợi, thấy rằng nói cho bệnh nhân biết thì có lợi hơn là gây hại, bảo “Vâng, quả cầu đã được bổ ra rồi, lớp kim loại mỏng thôi, vừa nện nhát búa đầu tiên nó tan thành từng mảnh ngay” “Ông nói tiếp đi” Humphreys sốt ruột nói “À, ra anh muốn biết ở trong có gì. Một nửa nó chất đầy một thứ giống như tro” “Tro? Ông làm gì với chỗ tro đó?” “Tôi chưa kịp xem kỹ vì chưa có thời gian, nhưng ông Cooper đã xác định, tôi dám nói đó là tro hoả táng người chết…Thôi ông đừng kích động thế, phải, tôi phải nói rằng ông Cooper đã nói đúng đấy”.

Mê cung không còn nữa, phu nhân Wardrop đã tha thứ cho Humphreys, thực tế anh đã thành hôn với con gái bà. Bà nói đúng. Dưới các tảng đá có đánh số, một số đã mờ, nhưng còn đủ trông rõ để Humphreys sắp xếp theo trình tự thành một câu như sau:

PENETRANS AD INTERIORA MORTIS – LEN LỎI VÀO TỚI TẬN XÁC CHẾT.

Mặc dù Humpheys rất biết ơn ông chú, nhưng anh không thể tha thứ cho cụ về việc đã đốt hết nhật ký, thư từ của cụ cố James Wilson, người để lại ngôi đền và mê cung cho chú anh. Cụ cố chết ra sao và được chôn cất như thế nào, chẳng còn truyền tụng nào hết, nhưng trong di chúc của cụ (chỉ còn mỗi thứ đó trong tay) còn lại một phần khá hào phóng cho người đầy tớ mang cái tên Ý.

Quan điểm của ông Cooper là, về mặt nhân văn mà nói, tất cả những sự kiện trang trọng trên đều có một ý nghĩa nào đó với chúng ta mà ta cứ làm chúng tan hoang do đầu óc có hạn. Cụ Wilson vừa rồi còn nhớ lại một bà dì – đã mất – vào năm 1866 có lạc một tiếng đồng hồ trong mê cung ở Covent Gardens, nay có lẽ là Hampton Court.

Chuyện kỳ quặc nhất trong toàn bộ cả loạt sự việc vừa qua là quyển sách trong có truyện ngụ ngôn nói trên tự nhiên biến mất. Sau khi Humphreys chép đoạn văn cho phu nhân xong thì anh tìm đâu cũng không thấy nó nữa.

Chú thích:

[1] Quả cầu trên đó người ta vẽ bản đồ của trời, khác với quả địa cầu

[2] Kỳ nghỉ cuối tuần của người Do Thái

[3] Theseus (thần thoại Hy lạp) – Vua Athènes, đã giải phóng thành phố khỏi ách của Minos (vua xứ Crète) vì giết được Minotaure, một co nquỷ nửa người nửa bò sinh ra từ vợ của Minos (Pasiphae) với một con bò mộng. Minotaure bị Minos giam trong một mê cung

[4] Cain: con cả của Adam và Eva, vì ghen với anh là Abel nên đã giết anh

[5] Absolon: con trai của David (thế kỷ X trước công nguyên) chống lại cha bị thua chạy, tóc vướng vào một cái cây và bị treo vào đó nên bị Joab chạy thoe giết chết.

[6] Hostanes magys: thầy phù thủy Hostanes

[7] Ariadne (thần thoại Hy lạp) là con gái của Minos và pasiphae, khi Theseus đến Crete để giết Mindaure, nàng đã cho Theseus một cuộn chỉ để vào mê cung.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.