Bạn đang đọc Gặp lại ( Nếu em không phải một giấc mơ 2 ) – Chương 5
Đồng hồ báo thức đặt trên chiếc bàn đầu giường kéo Lauren ra khỏi một giấc ngủ say sưa đến mức cô thấy thật khổ sở khi phải mở mắt ra. Có những buổi sáng, sự mệt mỏi tích tụ suốt năm khiến cô chìm vào tâm trạng u ám ngay từ những giờ đầu tiên trong ngày. Chưa đến bảy giờ sáng, cô đã đỗ chiếc Triumph của mình ở bãi đậu xe của bệnh viện. Mười phút sau, khoác trên người chiếc áo blouse, cô rời tầng trệt của khoa cấp cứu và đi lên phòng số 307. Con khỉ nhỏ nằm nghỉ ngơi bên cái cổ che chở của một con hươu cao cổ. Cách đó một quãng, một con gấu trắng trông nom hai con thú kia. Những con vật của Marcia hãy còn ngủ trên bệ cửa sổ. Lauren nhìn những bức tranh đính trên tường, vẽ một cách thật thành thạo đối với hoàn cảnh của một đứa trẻ từ mấy tháng nay chỉ còn nhìn được theo trí nhớ. Lauren ngồi xuống giường và xoa trán Marcia, cô bé thức dậy.
– Chào cháu, hôm nay là một ngày quan trọng đấy.
– Chưa đâu ạ – Marcia trả lời và mở mắt. – Bây giờ vẫn là đêm.
– Không còn lâu nữa đâu, bé yêu ạ, không lâu nữa đâu. Chỉ tí tẹo nữa thôi là sẽ có người đến đón cháu đi để chuẩn bị cho cháu. – Cô ở lại với cháu chứ ? – Marcia lo lắng hỏi. – Cô cũng phải đi chuẩn bị, cô sẽ gặp lại cháu ở trước cửa phòng mổ. – Chính cô sẽ mổ cho cháu à ?
– Cô sẽ phụ mổ cho giáo sư Fernstein, cái ông có giọng rất trầm như cháu đã nói ấy. – Cô có sợ không ? – cô bé hỏi. – Cháu nhanh hơn cô rồi, chính cô đang định hỏi cháu câu ấy.
Đứa bé nói rằng nó không sợ, vì nó tin tưởng. – Cô đi lên trên kia nhé, chỉ tí nữa là cô gặp lại cháu thôi. – Tối nay cháu sẽ thắng cuộc. – Cháu cuộc cái gì vậy ?
– Cháu đoán màu mắt của cô, cháu viết ra một tờ giấy gập lại để trong ngăn kéo cái bàn đầu giường của cháu ấy, hai chúng mình sẽ mở ra sau ca mổ nhé. – Cô hứa với cháu như vậy – Lauren nói rồi đi. Marcia cúi người, hoàn toàn không biết đến sự hiện diện của Lauren : cô đã trở lại ngưỡng cửa, lặng lẽ nhìn đứa trẻ. Em bé chui xuống gầm giường. – Tớ biết là cậu trốn ở đâu đó mà, nhưng cậu không việc gì phải sợ cả – cô bé nói. Tay cô bé sờ soạng sàn nhà, tìm một con thú nhồi bông. Những ngón tay em chạm vào lông của con cú, em bèn đặt nó trước mặt mình. – Cậu phải ra khỏi chỗ này thôi, cậu hoàn toàn chẳng có gì phải sợ ánh sáng cả – cô bé nói. – Nếu cậu tin tớ thì tớ sẽ chỉ cho cậu xem các màu sắc; cậu tin tớ chứ, phải không ? Giờ thì người nào có chuyện của người ấy, về phần tớ, cậu tưởng là tớ không sợ bóng tối à ? Cậu biết không rất khó tả cho cậu ban ngày là như thế nào, chỉ nói là đẹp được thôi. Tớ thích nhất là màu xanh lá cây, nhưng tớ cũng thích cả màu đỏ nữa, các màu sắc cũng có mùi hương đấy, vì thế người ta mới nhận ra nó, đợi đấy, đừng nhúc nhích nhé, tớ sẽ chỉ cho cậu xem. Cô bé ra khỏi nơi ẩn nấp và cố gắng đi về phía chiếc bàn đầu giường. Em lấy một cái bát nhỏ và một cái cốc mà em đặt ở đó. Khi đã chui lại vào dưới gầm giường, em hãnh diện đưa cho con cú của em xem một quả dâu và nói bằng giọng chắc chắn “đây là màu đỏ”, “còn đây, đây là màu xanh”, em đưa cốc trà bạc hà ra và nói. “Cậu thấy chưa, màu sắc có mùi thơm đấy chứ ! Nếu cậu muốn, cậu có thể nếm thử, tớ thì không được nếm đâu, tại vì có ca mổ, tớ phải để bụng rỗng mà.”
Lauren tiến lại gần bên giường.
– Cháu nói với ai vậy ? – cô hỏi Marcia. – Cháu đã biết là cô ở đây mà. Cháu nói với bạn của cháu, nhưng cháu không thể cho cô xem nó được đâu, nó cứ trốn suốt ấy, vì nó sợ ánh sáng và vì nó sợ mọi người nữa. – Nó tên là gì ?
– Emilio. Nhưng cô không nghe nó nói được đâu.
– Tại sao thế ? – Cô không hiểu được.
Lauren quỳ xuống.
– Cô có thể chui vào gầm giường với cháu được không ? – Nếu cô không sợ bóng tối. Cô bé tránh ra để Lauren chui vào dưới gầm giường. – Cháu có thể mang nó theo cháu lên đó được không ? – Không được, đó là một quy định cũ ngớ ngẩn, các con thú không được phép vào phòng mổ, nhưng cháu đừng lo, có ngày tất cả những điều đó sẽ thay đổi. Ngày mới báo hiệu sẽ rực nắng, Arthur thích đi bộ đến công ty kiến trúc của anh ở phố Jackson. Paul đợi anh ngoài phố. – Thế nào ? – Paul hỏi bạn khi vừa thò bộ mặt hớn hở vào qua cánh cửa hé mở. – Thế nào cái gì ? – Arthur hỏi lại và ấn nút máy pha cà phê. – Con chó mất bao nhiêu thời gian ? – Hai mươi phút !
– Tớ ghen tị với những buổi tối của cậu, ông bạn ạ ! Tớ nhận được điện thoại từ hai cô bạn gái của bọn mình ở Carmel, các cô ấy đã về và khá sẵn sàng ột bữa ăn bốn người tối nay, nếu cậu sợ sẽ buồn chán thì mang theo cún con đi. Paul vỗ vào mặt đồng hồ đeo tay, đã đến lúc phải đi. Hai người có cuộc hẹn gặp với một khách hàng quan trọng của công ty. Lauren bước vào khoang khử trùng. Cánh ray duỗi ra, cô khoác vào người chiếc áo blouse mà một y tá đưa cho cô. Xỏ tay áo xong, cô thắt dây lưng lại phía sau và bước đến bên chiếc bồn bằng thép. Bụng bồn chồn lo sợ, cô bác sĩ phẫu thuật thần kinh trẻ bắt đầu rửa tay một cách kỹ lưỡng. Sau khi Lauren đã sấy khô tay, cô y tá rắc bột tan lên lòng bàn tay cô rồi mở ra một đôi găng tay tiệt trùng, Lauren xỏ ngay vào. Chiếc mũ màu xanh nhạt chụp trên đầu, khẩu trang trên miệng, cô hít một hơi thật sau rồi bước vào phòng mổ. Ngồi sau bàn điều khiển của mình, Adam Peterson, chuyên gia về chụp ảnh thần kinh chức năng, đang kiểm tra lại hoạt động của hệ thống siêu âm tiền phẫu. Những bản âm IRM chụp bộ não của Marcia đã có ở trong máy. So sánh những hình ảnh này với những hình ảnh sẽ hiện ra tại chỗ trong lúc siêu âm, máy tính có thể thiết lập một cách chính xác phần não bị cắt bỏ trong quá trình phẫu thuật. – o O o – Theo dòng diễn tiến, hệ thống chụp ảnh, đáp ứng yêu cầu của Adam, sẽ đưa ra những hình ảnh mới đã được chỉnh sửa về bộ não của cô bé. Vài phút sau, giáo sư Fernstein bước vào, cùng đi có đồng nghiệp của ông, bác sĩ Richard Lalonde từ Montreal đến. Bác sĩ Lalonde chào kíp mổ rồi ngồi vào sau máy neuronavigator và nắm hai tay cầm. Được bác sĩ phẫu thuật điều khiển một cách khéo léo, những cánh tay máy nối với máy tính trung tâm sẽ cắt khối u chính xác đến từng milimét một. Trong suốt cuộc phẫu thuật, độ chính xác của việc cắt mổ sẽ có tính chất quyết định. Một sự chệch hướng rất nhỏ cũng có thể làm cho Marcia mất khả năng nói hoặc khả năng đi, và ngược lại, một sự thận trọng quá đáng sẽ khiến ca mổ trở thành vô ích. Lặng lẽ và tập trung, Lauren rà soát lại trong đầu từng chi tiết của ca mổ sắp sửa bắt đầu mà vì nó cô đã chuẩn bị không ngơi nghỉ từ nhiều tuần nay. Đã được sửa soạn sẵn sàng ở phòng bên cạnh, cuối cùng thì Marcia cũng tiến vào phòng mổ trên một chiếc giường băng ca. Các y tá đặt cô bé một cách rất thận trọng lên bàn mổ. Túi dịch truyền nối với tay em được treo trên chiếc cọc sào. Norma, nữ y tá trưởng của bệnh viện, kể với Marcia là bà vừa nhận nuôi một chú gấu trúc con. – Thế bác mang nó về bằng cách nào ? Bác được quyền mang nó về à ? – Không, – Norma cười nói – nó vẫn ở lại nhà nó, ở Trung Quốc ấy, nhưng bác sẽ gửi tiền để chăm nom nó cho đến khi nó có thể cai sữa được.
Norma nói thêm là bà vẫn chưa nghĩ ra tên cho con thú ; cần phải đặt tên cho gấu trúc thế nào nhỉ ? Trong khi cô bé suy nghĩ về câu hỏi, Norma nối những núm nhỏ dính trên ngực em với máy điện tim và bác sĩ gây mê cắm một cái kim nhỏ xíu vào ngón tay trỏ của em. Cái que dò này sẽ giúp bác sĩ kiểm soát liên tục độ bão hoà khí máu của bệnh nhân. Bác sĩ bơm một mũi tiêm vào túi truyền dịch và cam đoan với Marcia là em có thể nghĩ tên cho con gấu trúc sau ca mổ, còn bây giờ thì phải đếm cùng bác sĩ cho đến mười. Thuốc gây mê chảy vào ống dẫn rồi thấm vào ven. Marcia ngủ thiếp đi khi đang đếm từ số hai đến số ba. Bác sĩ hồi sức lập tức kiểm tra các hằng số sống trên những máy khác nhau. Norma đóng lại cái đai trên trán Marcia để ngăn đầu em khỏi cử động. Như nhạc trưởng của một dàn nhạc hàn lâm, giáo sư Fernstein điểm lại một vòng tình hình kíp mổ. Từ vị trí của mình, từng thành viên một trả lời là họ đã sẵn sàng. Fernstein ra hiệu cho bác sĩ Lalonde và ông này ấn vào hai càng máy neuronavigator, dưới cái nhìn chăm chú của Lauren.
Đường rạch đầu tiên được thực hiện vào lúc chín giờ hai mươi bảy phút, một cuộc du hành mười hai tiếng đồng hồ vào những vùng sâu thẳm nhất trong bộ não của một đứa trẻ vừa mới bắt đầu.
Đồ án mà Paul và Arthur giới thiệu có vẻ làm các khách hàng của họ thích thú. Các giám đốc của Hiệp hội doanh nghiệp, nơi đưa ra đấu thầu việc thiết kế trụ sở mới của hội, tập hợp xung quanh cái bàn gỗ gụ rộng mênh mông trong phòng hội đồng. Sau khi Arthur mô tả chi tiết suốt cả buổi sáng về diện mạo khu tiền sảnh tương lai, những không gian dành cho việc hội họp và những phần sử dụng chung, Paul thay Arthur trình bày tiếp từ buổi trưa. Paul dẫn giải những bản vẽ và những bức tranh được chiếu lên một màn hình sau lưng anh. Khi chiếc đồng hồ quả lắc treo trên tường trong phòng chỉ bốn giờ chiều, ông chủ tịch phiên họp cảm ơn hai kiến trúc về công việc mà học đã thực hiện. Những thành viên của ban lãnh đạo sẽ họp lại vào khoảng thời gian từ nay cho đến cuối tuần, để quyết định xem trong hai đồ án vào chung kết, đồ án nào sẽ được nhận thầu.
Arthur và Paul đứng dậy chào các chủ nhà rồi ra về. Trong thang máy, Paul ngáp một cái rõ dài. – Tớ nghĩ bọn mình xoay xở khá đấy chứ nhỉ ? – Chắc thế – Arthur trả lời hạ giọng. – Cậu đang lo nghĩ chuyện gì à ? – Theo cậu thì ở Macy’s có bán dây dắt chó loại co giãn không ? Paul giơ tay và ngửa mặt lên trời. Tiếng chuông reo lên và cửa thang máy mở ra ở tầng hầm thứ ba của khu nhà xe. Trước khi ngồi vào sau tay lái, Paul vặn người vài cái.
– Tớ kiệt sức rồi – anh nói. – Những ngày như thế này thật là hết cả hơi.
Arthur ngồi vào ôtô không bình luận lời nào. Nhịp tim của Marcia ổn định. Fernstein yêu cầu tăng dần thuốc gây mê. Đợt siêu âm thứ hai xác nhận rằng ca phẫu thuật đang tiến triển bình thường. Từng milimét một, những cánh tay điện tử do bác sĩ Lalonde điều khiển cắt khối u nằm trong thuỳ chẩm bộ não của Marcia và nâng dần phạm vi cắt lên phía bề mặt. Đến giờ thứ tư, bác sĩ ngẩng đầu lên. – Đổi phiên ! – nhà phẫu thuật đề nghị, mắt ông thể hiện sự mệt mỏi đã đến giới hạn. Fernstein ra hiệu cho Lauren ngồi vào trước máy. Cô do dự giây lát rồi lấy được sức lực mà cô còn thiếu trong cái nhìn trấn an của giáo sư. Hàng ngàn lần cô đã ôn luyện những thao tác này trong những giờ diễn tập, nhưng hôm nay có một cuộc đời phụ thuộc vào năng lực của cô.
Cô vừa ngồi vào vị trí điều khiển, nỗi sợ tan biến ngay. Mặt Lauren ngời sáng. Ở phía đầu của hai chiếc kẹp, cô đang chạm tới một giấc mơ. Cô điều khiển thật tuyệt vời, sự khéo léo của cô thể hiện rõ. Cả êkíp nhìn cô làm việc và Norma đọc thấy trong mắt giáo sư niềm tự hào về cô học trò của ông. Lauren mổ một mạch không nghỉ cho đến giờ thứ bảy. Khi cô muốn được thay phiên, máy tính cho thấy việc cắt bỏ khối u đã thực hiện được bảy mươi sáu phần trăm. Lalonde ngồi lại vào vị trí. Bằng một cái nháy mắt ra hiệu, ông chúc mừng cô đồng nghiệp trẻ tuổi của mình về năng lực của cô.
– Tớ thả cậu xuống ở công ty rồi tớ vù về nhà – Paul bảo. – Để tớ xuống ở Union Square, tớ phải đi mua một thứ. – Tớ có thể biết tại sao cậu lại muốn mua dây dắt chó trong khi cậu chẳng hề có chó không ? – Để ột người bạn gái ! – Nói cho tớ an tâm đi, cô ta ít ra cũng có một con chó chứ ? – Bà ấy bảy mươi chín tuổi, nếu điều đó có thể làm cậu yên lòng. – Chưa chắc. – Paul thở dài và đỗ xe sát vỉa hè trước cửa hàng lớn Macy’s. – Bọn mình gặp nhau ở đâu để ăn tối ? – Arthur xuống xe và hỏi. – Ở Cliff House, vào lúc tám giờ tối, và cố gắng lên một tí, không thể nói rằng lần trước cậu nổi bật lên vì vẻ lịch thiệp được. Cậu có cơ hội thứ hai để gây một ấn tượng tốt, cố đừng làm lỡ dịp ! Arthur nhìn chiếc xe mui trần đi xa dần, anh đưa mắt lướt qua quầy kính và bước vào cửa hàng qua cánh cửa quay.
– o O o –
Bác sĩ gây mê nhận thấy sự chuyển hướng của đồ thị hiện ra trên máy. Ông lập tức kiểm tra độ bão hoà của máu. Sự thay đổi vừa hiện ra trên nét mặt của bác sĩ đã khiến kíp mổ phải lưu tâm. Trực giác của ông vừa nhắc ông phải cảnh giác. – Có chỗ nào chảy máu không ? – ông hỏi.
– Hiện tại thì chưa thấy báo hiệu gì trên màn hình cả – Fernstein nghiêng người nhìn vào máy của bác sĩ Peterson và nói.
– Có cái gì đó không ổn ! – bác sĩ gây mê khẳng định. – Tôi sẽ làm lại siêu âm – bác sĩ phụ trách soi chụp hình nói. Không khí bình tĩnh đang ngự trị trong phòng mổ vụt biến mất. – Cô bé đang xỉu đi ! – Bác sĩ Cobbler nói cụt lủn và tăng lưu lượng oxy lên. Lauren cảm thấy bất lực. Cô dán mắt vào ông Fernstein và qua ánh mắt của ông, cô hiểu rằng tình hình đang chuyển thành nguy cấp. – Cầm lấy tay cô bé đi, – giáo sư nói khẽ vào tai cô.
– Làm gì bây giờ ? – Lalonde hỏi Fernstein. – Cứ tiếp tục ! Adam, siêu âm cho thấy gì ?
– Hiện tại thì chưa có gì đáng kể – bác sĩ siêu âm trả lời. – Tôi thấy đã bắt đầu có loạn nhịp tim – Norma nhìn máy điện tim đang nhấp nháy và thông báo. Richard Lalonde giận dữ đập tay xuống bàn. – Rách động mạch não sau ! – ông nói cộc lốc.
Tất cả các thành viên của kíp mổ nhìn nhau. Lauren nín thở và nhắm mắt lại. Lúc đó là mười bảy giờ hai mươi hai phút. Chỉ trong vòng một phút, phần vách bị hư tổn của động mạch cung cấp máu cho phần não sau của Marcia đã bị rách ra hai centimet. Dưới sức ép của dòng máu đang xối vọt ra, vết rách lại kéo dài thêm. Luồng máu ồ ạt tuôn từ vết rách ra tràn vào sọ não. Mặc dù giáo sư Fernstein đã lập tức cắm ngay một ống thông vào, lượng máu vẫn không ngừng dâng lên trong sọ não, nhấn chìm bộ não với tốc độ chóng mặt.
Vào lúc mười bảy giờ hai mươi bảy phút, trước những cặp mắt bất lực của các bác sĩ và y tá, Marcia vĩnh viễn ngừng thở. Bàn tay của cô bé, mà Lauren đang nắm trong tay cô, mở ra, như để giải phóng hơi thở cuối cùng của cuộc sống mà em đã cất giấu sâu trong lòng bàn tay mình. Lặng lẽ, êkíp rời phòng mổ và tản đi trong hành lang. Chẳng ai có thể làm gì được cả. Khối u quái ác che lấp đã khiến cho ngay cả những máy móc tinh vi nhất của y học hiện đại cũng không phát hiện ra được chỗ phình mạch ở một động mạch nhỏ trong bộ não của Marcia.
Lauren ở lại một mình, cầm thêm một lúc nữa những ngón tay bất động của cô bé. Norma bước lại gần và tách những ngón tay đó ra khỏi bàn tay của nữ bác sĩ phẫu thuật trẻ tuổi.
– Đi thôi.
– Tôi đã hứa – Lauren thì thào nói. – Đó là sai lầm duy nhất mà cô đã phạm phải ngày hôm nay. – Giáo sư Fernstein đâu rồi ? – Ông ấy phải đi gặp bố mẹ của cô bé. – Giá mà tôi cũng có thể tự đi gặp học được, tự tôi. – Tôi nghĩ cô đã quá đủ xúc động ngày hôm nay rồi. Nếu tôi được phép cho cô một lời khuyên, thì trước khi về nhà, cô nên đi dạo ở một cửa hàng lớn.
– Để làm gì ?
– Để nhìn cuộc đời, vô số cuộc đời !
Lauren xoa trán Marcia rồi phủ lại tấm vải màu xanh lên mắt em; cô rời phòng mổ. Norma nhìn cô đi xa dần trong hành lang. Bà lắc đầu và tắt ngọn đèn treo phía trên bàn mổ, căn phòng chìm vào bóng tối. Arthur đã tìm được cái mình cần ở tầng ba của cửa hàng : sợi dây dắt chó tự cuộn sẽ làm cho bà Morrison vui sướng. Vào những ngày xấu trời, bà có thể ngồi dưới mái che của toà nhà để tránh mưa, trong khi Paolo đi sục sạo thoả thích cái rãnh ven đường. Thanh toán tiền xong, anh rời quầy thu ngân ; trên đường đi, một thiếu phụ đang chọn pyjama đàn ông nhìn anh mỉm cười, Arthur cười đáp lại rồi đi ra thang cuốn.
Trên thang cuốn, một bàn tay mảnh dẻ đặt lên vai anh. Arthur quay lại và thiếu phụ bước xuống một bậc thang để đến gần anh. Trong tất cả các cuộc tình của mình, chỉ có một cuộc tình là anh hối tiếc vì đã trải qua…
– Chẳng lẽ anh không nhận ra em à ? – Carol-Ann hỏi. – Xin lỗi, tâm trí anh còn để ở nơi khác. – Em biết, em đã nghe tin anh sang sống ở Pháp. Anh khoẻ hơn rồi chứ ? – cô bồ cũ của Arthur hỏi, vẻ thông cảm. – Ừ, sao em lại hỏi vậy ?
– Em cũng nghe tin là cái cô mà anh bỏ em để chạy theo… tóm lại, em biết là anh đã goá vợ, thật là buồn… – Em nói về chuyện gì thế ? – Arthur bối rối hỏi.
– Em gặp Paul trong một buổi Cocktail hồi tháng trước. Em thật lòng rất buồn. – Anh rất vui được gặp em, nhưng anh hơi bị muộn – Arthur nói. Anh muốn bước xuống vài bậc, nhưng Carol-Ann níu lấy cánh tay anh và tự hào giơ cho anh xem chiếc nhẫn lóng lánh ở ngón tay cô ta. – Tuần sau bọn em sẽ kỷ niệm một năm ngày cưới. Anh có nhớ Martin không ? – Không nhớ rõ lắm – Arthur trả lời và đi vòng theo tay vịn để chuyển sang chiếc thang cuốn dẫn xuống tầng một. – Anh không thể quên Martin được ! Đội trưởng đội khúc côn cầu ! – Carol-Ann trách móc Arthur với vẻ rất hãnh diện. – À, đúng rồi, cái cậu cao to tóc vàng ! – Tóc nâu sẫm. – Tóc nâu, nhưng cao to phải không ? – Rất cao. – Vậy đúng rồi đấy – Arthur nói và nhìn xuống mũi giầy. – Thế anh vẫn chưa làm lại đời anh à ? – Carol-Ann hỏi, đầy vẻ thông cảm.
– Có chứ ! Làm rồi và lại phá rồi, đời mà ! – Arthur nói, mỗi lúc một thêm bực bội. – Anh không định nói với em rằng một chàng trai như anh mà vẫn độc thân chứ ? – Không, anh chẳng định nói với em đâu, vì chắc mười phút sau em sẽ quên ngay và điều đó chẳng có gì quan trọng cả – Arthur lẩm bẩm.
Sang một đoạn cầu thang mới, lại một hy vọng mới là Carol-Ann sẽ cần phải mua sắm gì ở tầng này, nhưng cô ta đi theo anh xuống tầng trệt. – Em có vô số bạn gái độc thân ! Nếu anh đến dự bữa tiệc kỷ niệm ngày cưới của bọn em, em sẽ giới thiệu cho anh người đàn bà tương lai của đời anh. Em là một bà mối cực kỳ mát tay, em có tài đoán biết ai hợp với ai. Anh vẫn thích phụ nữ chứ ? – Anh thích một người trong giới nữ ! Cảm ơn em, rất vui được gặp em và gửi lời thăm Martin nhé.
Anh chào Carol-Ann và chuồn thật nhanh. Khi anh đi ngang qua dãy hàng bày bán đồ mỹ phẩm của một hãng Pháp, một kỷ niệm bỗng trỗi dậy, ngọt ngào như mùi nước hoa thoát ra từ cái lọ nhỏ mà cô bán hàng đang giới thiệu với khách. Anh nhắm mắt lại, nhớ đến cái ngày anh bước trên lối đi này, mạnh mẽ vì một tình yêu vô hình và vững chắc. Vào khoảnh khắc ấy, anh cảm thấy hạnh phúc như chưa bao giờ được vậy trong đời. Anh bước vào chiếc cửa quay. Vòng quay của chiếc cửa đưa anh ra vỉa hè của Union Square. Ma-nơ-canh trong quầy kính mặc một chiếc váy dạ hội trang nhã có chiết eo. Bàn tay gỗ thanh tú giơ một ngón hờ hững chỉ vào người qua lại trên đường phố. Trong ánh mặt trời màu da cam, chiếc giày có vẻ nhẹ bỗng. Anh đứng bất động, lơ đãng. Anh không nghe thấy tiếng một chiếc môtô ba bánh đang lao đến sau lưng anh. Người lái đã không làm chủ được tay lái ở chỗ rẽ của phố Polk, một trong bốn con phố đâm ra quảng trường lớn này. Chiếc môtô cố tránh một người đàn bà qua đường, nó nghiêng ngả, lượn những đường dích dắc, động cơ rú lên. Trên đường phố, mọi người hoảng loạn; một người đàn ông mặc lê lao người nằm bẹp xuống đất để tránh chiếc xe, một người khác lùi lại vấp ở phía sau, một phụ nữ kêu thét lên và nấp sau buồng điện thoại công cộng. Chiếc môtô tiếp tục hành trình điên loạn của nó. Khoang xe chồm lên vỉa hè, giật tung một tấm biển, nhưng nó húc phải chiếc máy đo thời gian đậu xe được chôn chặt xuống nền đường; bằng một nhát cắt ngọt, chiếc máy này đã tách thùng xe ra khỏi môtô. Không còn gì kìm giữ nó lại nữa, với hình thù của một trái phá và tốc độ cũng gần như vậy, nó lao thẳng về phía trước. Khi chạm vào chân Arthur, nó nâng anh lên và hất tung lên cao. Thời gian dường như chùng xuống và đột ngột giãn ra như một sự im lặng kéo dài. Phần trước có hình thoi của khoang xe đâm vào cửa kính. Cái quầy kính rộng mênh mông vỡ tung ra hằng hà sa số mảnh vụn. Arthur lăn dưới nền nhà đến chỗ cánh tay của ma-nơ-canh giờ đây đang nằm trên tấm thảm thuỷ tinh. Một bức màn mỏng lên mắt anh, ánh sáng có màu mờ đục, miệng anh có vị tanh của máu. Cơ thể tê liệt, anh muốn nói với mọi người rằng đây chỉ là một tai nạn ngớ ngẩn. Những lời nói tắc lại trong họng anh.
Anh muốn đứng dậy nhưng hãy còn quá sớm. Đầu gối anh hơi loạng choạng, và có một giọng nói thét lên rất to là cứ nằm yên. Cấp cứu sắp tới. Paul sẽ cáu nếu anh đến muộn. Phải dắt con chó của bà Morrison đi dạo, hôm nay có phải là chủ nhật không ? Không, có lẽ là thứ Hai. Anh phải ghé qua hãng để ký các đồ án. Vé gửi xe đâu rồi nhỉ ? Túi áo của anh chắc bị xé rách rồi. Lúc trước anh để tay trong túi áo, bây giờ tay lại đặt dưới lưng anh và làm anh hơi bị đau. Không nên ngọ nguậy đầu, những mảnh thuỷ tinh vỡ này sắc lắm. Ánh sáng chói mắt, nhưng những âm thanh thì dần dần nghe rõ hơn. Bớt loá rồi. Mở mắt ra. Đó là gương mặt của Carol-Ann. Vậy là cô ta sẽ không buông tha anh, anh không muốn được người khác giới thiệu cho người đàn bà của đời anh đâu, anh đã biết cô ấy rồi cơ mà, giời ạ ! Có lẽ anh sẽ phải đeo một cái nhẫn đính hôn thì mới yên thân được. Tí nữa anh sẽ quay lại cửa hàng mua một cái. Paul sẽ ghét chuyện này đây, nhưng anh thì sẽ được giải trí vui ra trò. Phía xa có tiếng còi xe cấp cứu, nhất định phải đứng dậy trước khi xe đến, không nên để mọi người lo lắng vô ích, anh không đau chỗ nào cả, có lẽ chỉ hơi đau một chút trong miệng thôi, anh đã tự cắn phải má mình. Ở má thì không quan trọng, vết lở sẽ gây khó chịu, nhưng hoàn toàn không đáng ngại. Thật là ngớ ngẩn, cái áo vét của anh chắc là hỏng hẳn rồi, Arthur thích cái áo vải tuýt này lắm. Sarah cho là vải tuýt trông già, nhưng anh chẳng quan tâm đến điều mà Sarah nghĩ, cô ấy đi những đôi giày cao gót thô thiển nhất trần đời, với mũi nhọn hoắt. May mà anh đã nói với Sarah cái đêm ở cùng nhau ấy chỉ là một tai nạn, họ không hợp nhau, đó chẳng phải là lỗi của ai cả. Người lái môtô có bị sao không nhỉ ? Hẳn là cái ông đội mũ an toàn kia. Xem ra ông ta chẳng hề hấn gì với cái vẻ mặt ăn năn ấy. “Mình sẽ chìa tay cho Carol-Ann, cô ta sẽ đi kể cho tất cả đám bạn gái là cô ta đã cứu sống mình, vì chính cô ta đã giúp mình đứng dậy.” – Arthur ? – Carol-Ann ?
– Em đã biết chắc là thế nào cũng có anh trong cái thảm hoạ khủng khiếp này mà – thiếu phụ trẻ hốt hoảng nói.
Anh bình tĩnh phủi vai áo vét, giật đi mảnh túi áo treo lủng lẳng một cách thảm hại, lắc đầu để rũ bỏ những mảnh vỡ thuỷ tinh. – Sợ quá đi mất ! Anh may mắn lắm đấy – Carol-Ann nói tiếp bằng một giọng cao chói tai.
Arthur chăm chú nhìn Carol-Ann, vẻ nghiêm trọng. – Mọi sự đều tương đối, Carol-Ann ạ. Áo vét của anh rách tơi tả, người anh đầy vết xước và anh liên tục có những cuộc gặp gỡ tai hại, ngay cả khi anh chỉ đi mua có mỗi một cái dây dắt chó cho bà hàng xóm thôi. – Dây dắt chó cho bà hàng xóm… Anh may mắn lắm vì đã thoát được khỏi cái tai nạn này mà người vẫn gần như nguyên vẹn đấy ! – Carol-Ann phẫn nộ.
Arthur nhìn cô ta, anh lấy vẻ ngẫm nghĩ, cố gắng hết mức có thể để giữ thái độ lịch sự. Không chỉ giọng nói của Carol-Ann làm cho anh bực tức, mà tất cả mọi thứ thuộc về cô ta đối với anh đều không chịu đựng nổi. Anh thử lấy lại đôi chút thăng bằng rồi nói bằng một giọng cả quyết và bình thản.
– Em có lý, anh không hẳn là đúng lắm. Anh thật may mắn vì đã rời bỏ em, rồi gặp được người đàn bà của đời mình, nhưng lúc đó cô ấy lại đang hôn mê ! Mẹ đẻ cô ấy muốn người ta làm euthanasie cô ấy, nhưng anh may mắn kinh khủng vì cậu bạn thân nhất của anh đã vui lòng giúp một tay để đi bắt cóc cô ấy ở bệnh viện. Lo ngại, Carol-Ann lùi lại một bước, Arthur tiến lên một bước.
– Anh nói “đi bắt cóc cô ấy” có nghĩa là thế nào ? – cô hỏi bằng một giọng rụt rè và ôm chặt cái túi vào sát ngực. – Bọn anh đã đánh cắp cơ thể cô ấy! Chính Paul đã xoáy cái xe cứu thương đấy, chính vì điều này nên hắn tự thấy bắt buộc phải đi kể cho tất cả mọi người là anh goá vợ; nhưng thực ra, Carol-Ann ạ, anh chỉ goá có một nửa thôi ! Đây là một loại rất đặc biệt ! Đôi chân Arthur không còn sức lực, anh hơi lảo đảo. Carol-Ann muốn đỡ anh, nhưng Arthur đã tự đứng thẳng lại. – Không, cái may thực sự là Lauren đã có thể giúp anh duy trì sự sống cho cô ấy. Là bác sĩ dù sao cũng có lợi thật đấy, khi cơ thể và linh hồn của mình bị tách rời nhau. Mình có thể tự chăm sóc chính mình ! Miệng Carol-Ann há hốc ra để tìm kiếm chút không khí. Arthur hoàn toàn chẳng cần thở lấy hơi, anh chỉ cần lấy lại thăng bằng một chút. Anh bám vào tay áo Carol-Ann, cô ta giật nảy mình và rú ngay lên một tiếng. – Thế rồi cô ấy tỉnh dậy, rút cuộc, điều đó cũng là một may mắn kỳ diệu ! Thế đấy, Carol-Ann ạ, em thấy đấy, cái may mắn thực sự, đó chẳng phải là sự đoạn tuyệt giữa chúng ta, chẳng phải là cái viện bảo tàng ở Paris ấy, chẳng phải là cái môtô ba bánh kia, mà là cô ấy, cơ may thực sự của đời anh ! – Anh nói, kiệt sức và ngồi xuống bộ khung của cỗ xe. Chiếc xe cứu thương mới bóng nhoáng của bệnh viện vừa đỗ lại bên lề đường. Trưởng nhóm cấp cứu đi vội về phía Arthur giữa lúc Carol-Ann đang ngớ người ra, nhìn anh chòng chọc.
– Chào anh, ổn chứ ? – Không ổn tí nào ! – Carol-Ann khẳng định.
Nhân viên cấp cứu khoác tay anh và định đưa anh ra xe cứu thương. – Ổn cả mà, tôi đảm bảo với anh như vậy – Arthur nói và tự gỡ mình ra.
– Phải khâu vết thương trên trán anh – Nhân viên cấp cứu dứt khoát yêu cầu trong khi Carol-Ann ra sức ra hiệu cho ông ta là phải đưa Arthur đi càng nhanh càng tốt.
– Tôi chẳng hề đau chỗ nào cả, tôi cảm thấy khoẻ lắm, làm ơn để cho tôi đi về nhà.
– Với cái đống thuỷ tinh tung toé này, rất có khả năng là anh đã bị những mảnh vỡ cực nhỏ rơi vào mắt. Tôi phải đưa anh đi thôi.
Mệt mỏi, Arthur buông xuôi. Nhân viên cấp cứu đặt anh nằm lên cáng. Ông ta phủ lên mắt anh hai miếng gạc khử trùng, trong khi mắt anh còn chưa được rửa, cần phải tránh những cử động có thể làm rách giác mạc. Vòng băng cuộn quanh đầu Arthur lúc này nhấn anh chìm vào một màn tối bất tiện.
Xe cứu thương hú còi đi lên phố Sutter, rẽ sang đại lộ Van Ness và đi về hướng bệnh viện Memorial San Francisco.