Dấu hiệu Athena

Chương 29


Đọc truyện Dấu hiệu Athena – Chương 29

The Mark of Athena _ Chương 26
Piper
SÁNG HÔM SAU PIPER BỊ ĐÁNH THỨC bởi một tiếng còi tàu khác – tiếng kèn ầm ĩ tới nỗi nó thực sự xốc Piper rơi khỏi giường theo nghĩa đen.
Cô tự hỏi không biết Leo đang bày thêm trò gì nữa đây. Rồi tiếng còi rú lên phát nữa. nghe như ở từ cách đó vài trăm thước – từ một tàu khác vậy.
Cô vội vội vàng vàng mặc quần áo. Ngay khi cô lên tới boong trên, những người khác đã tụ tập lại cả rồi – ai cũng áo quần xộc xệch trừ HLV Hedge, người nhận nhiệm vụ trách canh đêm.
Chiếc áo phông Thế vận hội Mùa đông Vancouver của Frank thì lộn trái. Percy thì mặc quần ngủ và giáp che ngực bằng đồng, một tuyên bố thời trang thú vị hết sức. Mái tóc màu hạt dẻ của Hazel bạt cả sang một bên như thể cô mới vừa đi xuyên một cơn lốc xoáy; và Leo vô tình tự thiêu chính mình. Áo phông của cậu đang cháy vụn. Cánh tay cậu bốc khói nghi ngút.
Cách cảng tầm trăm thước, một tàu du lịch đồ sộ lướt qua. Các hành khách vẫy tay với họ từ khoảng mười lăm, mười sáu dãy ban công. Vài người tươi cười chụp ảnh. Chẳng một ai trông có vẻ bất ngờ khi thấy một thuyền ba tầng chèo Hy Lạp Cổ. Có khi Màn Sương Mù khiến nó trông như một thuyền đánh cá hoặc có lẽ các du khách nghĩ tàu Argo II là một chiêu hút khách chẳng hạn.
Tàu du lịch thổi còi lần nữa và tàu Argo II rung lên một đợt.
HLV Hedge nút tai lại. “Họ có cần thổi to thế không?”
“Họ chỉ đang nói xin chào mà thôi,” Frank suy đoán.
“HẢ?” Hedge đáp trả.
Con tàu vượt qua họ, hướng thẳng ra biển. du khách vẫn còn vẫy tay. Nếu họ lấy làm lạ là tàu Argo II toàn lũ con nít đít ranh mắt nhắm mắt mở mặc đồ ngủ cùng áo giáp với một người đàn ông chân dê thì đã chẳng làm thế.
“Tạm biệt!” Leo gọi, giơ lên cánh bay bóc khói nghi ngút.
“Thầy ra chỗ nỏ phóng tiễn nhé?” Hedge hỏi.
“Không,” Leo nói với một nụ cười cố nén.
Hazel dụi mắt và nhìn qua mặt nước lấp lánh ánh xanh lục. “Bọn mình đang ở… ồ… wow.”
Piper nhìn theo ánh mắt Hazel và thở gấp. Không còn tàu du lịch chắn tầm nhìn, cô thấy một ngọn núi nhô ra từ biển cách họ chưa đến nửa dặm về phía bắc. Piper từng thấy nhiều vách đá ngoạn mục trước đây rồi. Cô từng lái xe theo Quốc Lộ 1 dọc bờ biển California. Thậm chí cô từng ngã khỏi Hẻm Núi Lớn cùng Jason và rồi bay ngược trở lên. Nhưng chẳng có cái nào lại tuyệt diệu như cái nắm tay đá khổng lồ trắng lóa mắt chĩa thẳng lên trời này. Ở một bên, các vách đá vôi gần như thẳng đứng hoàn toàn, trượt thẳng xuống biển cả ngàn bộ phía dưới, gần hết mức Piper có thể hình dung. Mặt bên kia, núi dốc thành tầng, rừng xanh bao phủ, tất cả gợi cho Piper nhớ tới một con nhân sư khổng lồ, bị mài mòn qua hàng triệu năm với cái đầu và bộ ngực tổ tướng màu trắng, sau lưng khoác áo xanh.
“Núi đá Gibraltar[1],” Annabeth kinh hãi nói. “Ở mũi đất Tây Ban Nha. Và đằng đó…” cô chỉ phía nam, một ngọn đồi mang sắc đỏ và vàng nâu phía xa hơn. “Đó hẳn là châu Phi. Chúng ta đang ở ngay cửa biển Địa Trung Hải[2].”
[1] Gibraltar là núi đá nằm ở eo biển Gibraltar, cửa biển từ Đại Tây Dương vào Địa Trung Hải.
[2] Địa Trung Hải là một phần của Đại Tây Dương được vây quanh bởi đất liền – phía bắc bởi châu Âu, phía nam bởi châu Phi và phía đông bởi châu Á. Địa Trung Hải có diện tích 2.509.000 km² (969.000 dặm vuông Anh) tới 2.510.000 km² (970.000 dặm vuông Anh). Chiều dài đông-tây là 4.000 km và chiều rộng trung bình là 800 km, nhưng tại chỗ thông với Đại Tây Dương (eo biển Gibraltar) chỉ rộng 13 km (8 dặm Anh) và bề rộng tối đa đạt 1.600 km. Nhìn chung biển này nông, với độ sâu trung bình khoảng 1.500 m, độ sâu tối đa khoảng 4.900 m tới 5.150 m, tại khu vực phía nam bờ biển Hy Lạp.
Sớm mai ấm áp là thế mà Piper lại rùng mình. Dù biển đang trải rộng ngay trước mặt họ, cô lại cảm thấy như đang đứng trước một rào chắn không thể nào vượt qua. Một khi đã đến Địa Trung Hải – Mare Nostrum – là họ đã tới vùng đất cổ xưa. Nếu truyền thuyết có thật, cuộc hành trình của họ sẽ nguy hiểm gấp mười.
“Giờ thì sao đây?” Cô hỏi. “Cứ thế này mà dong buồm vô à?”
“Sao không?” Leo bảo. “Đây là một con kênh vận tải lớn. Thuyền bè cứ đi ra đi vô luôn mà.”
Nhưng không phải mấy cái thuyền ba tầng chèo lóc nhóc á thần, Piper nghĩ.

Annabeth chăm chăm nhìn núi đá Gibraltar. Piper nhận ra được biểu hiện trầm ngâm trên mặt bạn mình. Nó gần như luôn có nghĩa là cô dự kiến sẽ gặp khó khăn.
“Thuở xưa,” Annabeth nói, “người ta gọi chỗ này là những trụ đá Hercules. Ngọn Núi Đá được cho là một trong hai trụ đá. Trụ đá còn lại là một ngọn núi châu Phi. Không ai chắc là núi nào nữa.”
“Hercules hả?” Percy cau mày. “Gã đó như là Starbucks của Hy Lạp Cổ vậy. Đi đâu cũng thấy.”
Một tiếng bùm vang như sấm rung chuyển tàu Argo II, dù Piper không chắc lần này nó tới từ đâu. Cô không thấy bất kì con tàu nào khác và trời thì vẫn sáng trong.
Miệng cô đột nhiên thấy khô khốc. “Thế… những trụ đá Hercules này. Có nguy hiểm không?”
Annabeth vẫn tập trung vào vách đá trắng như thể đang đợi Dấu hiệu Athena cháy sáng xuất hiện. “Với người Hy Lạp, những trụ đá đánh dấu điểm kết thế giới họ biết đến. Người La Mã nói những trụ đá có khắc một lời cảnh báo tiếng latin…”
“Non plus ultra,” Percy nói.
Annabeth trông choáng váng. “Phải. Không Gì Vượt Xa Thêm Nữa. Sao cậu biết?”
Percy chỉ. “Vì mình đang nhìn vào nó mà.”
Ngay phía trước họ, giữa eo biển, một hòn đảo lập lòe hiện ra. Piper chắc chắn là không có hòn đảo nào ở đấy trước lúc đó. Đó là một mô đất đầy các dãy đồi, bao phủ bởi rừng xanh và bao quanh là những bãi biển trắng muốt. So với Gibraltar thì không mấy ấn tượng, nhưng ngay trước hòn đảo, nhô ra khỏi lớp sóng khoảng trăm mét ngoài khơi là hai trụ đá trắng Hy Lạp cao cỡ cột buồm tàu Argo. Giữa hai cột trụ, một dòng chữ bạc vô cùng lớn lấp lánh dưới mặt nước – có thể chỉ là ảo giác hoặc cũng có thể là khảm trên cát: NON PLUS ULTRA.
“Các cậu, ta rẽ hướng được chưa hả?” Leo lo lắng hỏi. “Hay là…”
Chẳng ai đáp lời – có lẽ bởi giống như Piper, họ đã thấy thứ đang đứng trên bãi biển. Khi con tàu tiếp cận cái cột, cô thấy một người đàn ông tóc đen, áo choàng tím, khoanh tay chăm chú nhìn tàu như thể đang chờ họ đến. Piper không thể nói gì nhiều về anh ta từ khoảng cách này, nhưng xét theo tư thế thì anh ta chả vui vẻ gì cho cam.
Frank hít thật mạnh. “Đó hẳn là…?”
“Hercules,” Jason nói. “Á thần mạnh nhất mọi thời đại.”
Giờ tàu Argo II chỉ còn cách mấy cái trụ tầm vài trăm thước.
“Cần câu trả lời đấy,” Leo gấp gáp bảo. “Mình có thể rẽ hay là cất cánh đây. Bộ phận ổn định đang làm việc trở lại rồi. Nhưng mình cần nhanh chóng biết là…”
“Ta phải đi tiếp,” Annabeth bảo. “Mình nghĩ anh ta đang canh gác eo biển này. Nếu đó đúng là Hercules thì có chèo hay là bay cũng chả giúp ích được gì. Anh ta sẽ muốn nói chuyện với bọn mình.”
Piper kiềm chế bản thân không dùng lời nói mê hoặc. Cô muốn hét lên với Leo: Bay lên đi! Đưa chúng ta rời khỏi đây! Không may, cô có cảm giác Annabeth nói đúng. Nếu họ muốn vào Địa Trung Hải thì không thể tránh cuộc chạm mặt này được.
“Hercules sẽ không ở phía bọn mình chứ?” cô tràn đầy hy vọng hỏi. “Ý mình là… anh ta ở bên phe bọn mình, phải không?”
Jason càu nhàu. “Anh ta là con thần Zeus nhưng khi chết lại thành thần. Cậu chẳng chác chắn được gì với các vị thần cả đâu.”
Piper nhớ tới cuộc gặp giữa họ với Bacchus ở Kansas – một vị thần khác từng là á thần. Ông ta chính xác chẳng giúp ích được gì nhiều cho lắm.
“Tuyệt,” Percy nói. “Bảy chúng ta đánh lại Hercules.”
“Và một thần rừng nữa!” Thầy Hedge thêm vô. “Chúng ta xử được gã đó mà.”
“Mình có ý hay hơn,” Annabeth bảo. “Ta gửi đại sứ lên bờ. Một nhóm nhỏ – nhiều nhất một hay hai người. Cố nói chuyện với anh ta.”

“Mình đi,” Jason nói. “Anh ta là con Zeus. Mình là con Jupiter. Có lẽ anh ta sẽ thân thiện với mình cũng nên.”
“Hoặc sẽ ghét cay ghét đắng cậu,” Percy gợi ý. “Anh em cùng cha khác mẹ thường không hòa thuận lắm.”
Jason cau mày. “Cảm ơn, Ngài Lạc Quan ạ.”
“Đáng thử một phen đấy,” Annabeth bảo. “Ít ra Jason với Hercules có điểm chung. Và ta cần nhà ngoại giao tốt nhất mình có. Ai đó giỏi ăn nói.”
Mọi con mắt đổ dồn vô Piper.
Cô gắng tránh không la hét và nhảy sang một bên. Một linh cảm chẳng lành cào cấu trong bụng cô. Nhưng nếu Jason sắp lên bờ thì cô muốn đi với cậu. Có khi vị thần vô cùng mạnh này rút cuộc lại có ích. Ít ra họ cũng phải gặp may lấy một lần chớ, phải không?
“Được,” cô nói. “Để mình thay đồ cái đã.”
Một khi Leo đã neo tàu Argo II giữa hai trụ đá, Jason sẽ triệu hồi gió đưa cậu và Piper vào bờ.
Người đàn ông áo tím đang đợi họ.
Piper từng nghe cả đống chuyện về Hercules. Cô từng xem vài bộ phim và hoạt hình sến súa. Trước ngày hôm nay, nếu cô có từng nghĩ tới anh ta, cô chỉ đảo mắt và tưởng tượng ra anh chàng lông lá ngu ngốc nào đó với bộ ngực vạm vỡ và bộ râu hippie gớm guốc, khoác tấm da sư tử qua đầu và cầm một cái chày tổ tướng, như người tối cổ ấy. Cô tưởng tượng anh ta sẽ bốc mùi hôi hám, ợ chua, gãi ngứa liên tục và hầu như chỉ lẩm bẩm lầm bầm suốt.
Cô chả mong chờ việc này tí nào.
Anh ta để chân trần, bị phủ trong cát trắng. Chiếc áo khiến anh ta trông như giáo sĩ dù Piper chẳng nhớ nổi giáo sĩ cấp bậc nào lại mặc áo chùng tím. Là hồng y? Giám mục? Và phải chăng áo chùng tím thì có nghĩa anh ta là bản thể La Mã của Hercules chớ không phải là Hercules Hy Lạp? Râu anh ta lởm chởm rất hợp thời trang, như cha Piper và những ông bạn diễn viên của ông vậy – trông kiểu như Tôi quên không cạo râu hai ngày mà coi vẫn bảnh.
Anh ta tráng kiện nhưng không quá to. Mái tóc đen như mun cắt sát, kiểu La Mã. Anh ta có đôi mắt xanh đến đáng ngạc nhiên hệt Jason nhưng da lại màu đồng, như thể đã dành cả đời mình nằm trên bàn thuộc da vậy. Đáng ngạc nhiên hơn cả: anh ta trông cỡ hai mươi tuổi. Chắc chắn không già hơn. Anh ta đẹp trai kiểu góc cạnh nhưng không-giống-người-tối-cổ-chút-nào.
Anh ta đúng là có một cái chày đang nằm trên cát ngay cạnh đó, nhưng trông nó giống một cây gậy bóng chày quá khổ hơn – một khúc gỗ gụ hình trụ dài năm bộ bóng loáng với tay nắm bằng đồng lót da. HLV Hedge chắc ghen tị lắm lắm.
Jason và Piper đáp xuống ngay bờ sóng. Họ chậm rãi tiếp cận, cẩn thận không để lộ ra chút động thái đe dọa nào. Hercules quan sát họ chẳng hé ra chút cảm xúc đặc biệt nào như thể họ là một loại chim biển nào đó mà anh ta chưa từng thèm để ý đến trước đây.
“Xin chào,” Piper nói. Luôn có một khởi đầu tốt đẹp.
“Gì thế?” Hercules bảo. Giọng anh ta trầm nhưng rất giản dị, hiện đại. Như đang chào họ trong phòng thay đồ trung học ấy.
“À, không có gì nhiều.” Piper nhăn mặt. “Ừm, thực ra, cũng nhiều đấy. Tôi là Piper. Đây là Jason. Bọn tôi…”
“Bộ da sư tử của anh đâu?” Jason cắt ngang.
Piper muốn thúc cho Jason một cái nhưng Hercules trông thích thú hơn là khó chịu.
“Ở đây 32 độ đấy[3],” anh ta bảo. “Sao tôi lại khoác da sư tử được? Cậu có mặc áo khoác lông thú ra biển bao giờ không?”
[3] Nguyên văn là độ Fa-ren-hai, đổi sang độ C là 32 độ.

“Tôi đoán thế cũng đúng.” Jason nghe có vẻ thất vọng. “Chỉ là mấy bức tranh luôn vẽ anh khoác da sư tử trên mình.”
Hercules chăm chăm nhìn trời vẻ cáo buộc như thể muốn nói gì đó với cha anh ta là Zeus. “Đừng có tin mọi điều họ nói về tôi như thế chứ. Nổi tiếng không vui như cậu nghĩ đâu.”
“Còn phải nói,” Piper thở dài.
Hercules đưa đôi mắt xanh rực rỡ sang nhìn cô. “Cô có nổi tiếng không vậy?”
“Cha tôi… ông ấy đóng phim.”
Hercules cằn nhằn. “Đừng khiến tôi phải bắt đầu với mấy cái phim. Thần thánh trên đỉnh Olympus ạ, mấy thứ đó chả bao giờ có cái quái gì là đúng hết trơn. Cô đã xem phim nào mà tôi trông giống tôi chưa?”
Piper phải ngưỡng mộ anh ta ở một điểm. “Tôi thấy bất ngờ là trông anh trẻ thế cơ đấy.”
“Ha! Bất tử là thế đấy. Nhưng, phải, tôi cũng không quá già lúc chết đâu. Không như tiêu chuẩn hiện nay. Tôi đã làm rất nhiều việc suốt những năm còn là anh hùng… quá nhiều việc, thật ra là vậy.” Ánh mắt anh chuyển sang Jason. “Con trai Zeus hả?”
“Jupiter,” Jason nói.
“Cũng chả khác mấy,” Hercules càu nhàu. “Cha thế nào thì cũng khó chịu cả. Còn tôi hả? Tôi từng được gọi là Heracles. Rồi người La Mã đến và gọi tôi là Hercules. Tôi thực sự không thay đổi nhiều lắm dù cho gần đây cứ nghĩ tới việc đó lại khiến đầu tôi đau muốn nứt ra…”
Mặt trái anh ta co giật. Áo choàng lung linh sáng lên, chuyển sang màu trắng trong khoảnh khắc rồi lại thành màu tím.
“Dù sao chăng nữa,” Hercules bảo “nếu cậu là con của Jupiter, cậu có lẽ hiểu được. Áp lực lắm. Đủ là chả bao giờ đủ cả. Cuối cùng nó có thể khiến một chàng trai nổ tanh bành ra.”
Anh ta quay sang Piper. Cô cảm thấy như cả ngàn con kiến đang bò trên lưng. Có một sự pha trộn giữa nỗi buồn và sự tăm tối trong mắt anh ta, trông có vẻ không sáng suốt cho lắm và chắc chắn là cũng chẳng an toàn.
“Còn cô, cô bạn thân mến à,” Hercules nói. “cẩn thận. Những đứa con trai của Zeus có thể… ừm, thôi kệ đi.”
Piper không dám chắc thế nghĩa là gì. Đột nhiên cô muốn cách vị thần này ra càng xa càng tốt, nhưng cô cố gắng giữ vẻ bình tĩnh, lịch sự.
“Thế, Ngài Hercules,” cô nói, “chúng tôi đang thực hiện nhiệm vụ. Chúng tôi xin được phép vào vùng Địa Trung Hải.”
Hercules nhún vai. “Vì thế tôi mới ở đây. Sau khi tôi chết, Cha biến tôi thành người giữ cửa cho Olympus. Tôi bảo, Tuyệt! Nhiệm vụ trong cung điện! Tiệc tùng liên miên!Nhưng ông ấy lại chả đề cập gì đến việc tôi phải canh giữ cửa tới vùng đất cổ, bị kẹt ngay trên hòn đảo này suốt phần đời vĩnh cửu còn lại. Vui chết đi được.”
Anh ta chỉ vô hai cây trụ đá nhô lên từ sóng. “Mấy cái cột ngu ngốc. Có người cho rằng tôi đã tạo ra toàn bộ Eo biển Gibraltar bằng cách xô mấy trái núi nhô ra ngoài biển. Có người bảo mấy trái núi là cột nữa chớ. Đúng là mớ cứt đái Augeas[4]. Cột trụ là cột trụ.”
[4] Augeas(hay Augeias, /ɔːˈdʒiːəs/, Ancient Greek: Αὐγείας), có nghĩ là ‘sáng’, vua của Elis, cha của Epicaste. Người có chuồng giá súc lớn nhất nước và không bao giờ được dọn dẹp cho tới khi có được Heracles tới giúp.
“Phải,” Piper nói. “Tất nhiên là thế. Thế… bọn tôi vào được không?”
Vị thần gái gãi bộ râu thời trang của mình. “Ừm, tôi phải đưa cho các cô cậu cảnh báo chuẩn mực về độ nguy hiểm của vùng đất cổ xưa. Không phải bất cứ á thần nào cũng sống sót mà qua nổi Mare Nostrum đâu. Do đó, tôi phải giao cho các cô cậu một nhiệm vụ để mà hoàn tất. Chứng minh giá trị bản thân, blah, blah, blah. Thành thật mà nói tôi cũng chả xem trọng lắm đâu. Thường thì tôi bảo á thần làm cái gì gì đó đơn giản như đi mua sắm hay hát một bài tếu táo thôi, đại loại kiểu thế. Sau mấy vụ cực nhọc tôi phải hoàn tất dùm thằng anh họ độc ác Eurystheus[4a],ừm… tôi không muốn làm gã đó đâu, cô cậu biết đấy?”
[4a] Eurystheus (/jʊrɪsˈθiəs/, Εὐρυσθεύς), vua của Tyrins, một trong những cháu trai của Perseus (Percy được đặt tên theo anh này), người được quyền sai khiến Heracles làm 12 việc, lập nên 12 công lao khi xưa.
“Tôi đánh giá cao điều đó,” Jason bảo.
“Ừ, không có gì.” Hercules nghe thoải mái dễ chịu nhưng anh ta vẫn khiến Piper lo lo. Tia ám muội đó trong mắt anh ta nhắc cô nhớ tới than củi ngâm trong dầu hỏa, sẵn sàng bùng lên trong chốc lát.
“Vậy tóm lại,” Hercules nói. “Nhiệm vụ của mọi người là gì thế?”
“Lũ khổng lồ,” Jason nói. “Chúng tôi phải đến Hy Lạp để ngăn bọn chúng đánh thức Gaea.”
“Khổng lồ à,” Hercules lẩm bẩm. “Tôi ghét mấy thằng đó. Hồi tôi còn là một á thần anh hùng … à, kệ đi. Thế thần nào giao nhiệm vụ này cho mấy người thế – Cha? Athena? Có khi là Aphrodite?” Anh ta nhướn một bên mày với với Piper. “Xinh như cô thì tôi đoán chắc đấy là mẹ cô nhỉ.”

Piper đáng ra phải nghĩ tới sớm hơn chứ, nhưng Hercules khiến cô bất an. Quá muộn rồi, cô nhận ra cuộc đối thoại đã thành ra bãi mìn.
“Hera cử chúng tôi đi,” Jason bảo. “Bà ta đưa bọn tôi đến với nhau để…”
“Hera.” Đột nhiên nét mặt Hercules trông như vách đá Gibraltar – một phiến đá rắn đanh, không khoan nhượng.
“Bọn tôi cũng ghét bà ta lắm,” Piper nhanh nhảu nói. Trời ạ, sao việc này lại xảy đến với cô kia chứ? Hera là kẻ tử thù của Hercules. “Bọn tôi cũng chả muốn giúp bà ta làm gì. Bà ta không cho bọn tôi nhiều chọn lựa nhưng…”
“Nhưng các cô cậu lại ở đây,” Hercules bảo, sự thân thiện đã biến mất tăm. “Xin lỗi hai người. Tôi không quan tâm nhiệm vụ hai người đáng giá bậc nào. Tôi không làm bất cứ việc gì Hera muốn. Không bao giờ.”
Jason trông hoang mang. “Nhưng tôi nghĩ anh đã làm hòa với bà ta lúc lên làm thần rồi chứ.”
“Tôi nói rồi đó,” Hercules gầm gừ, “đừng có tin tất cả mọi thứ cậu nghe. Nếu muốn vào Địa Trung Hải, tôi e là phải giao cho mọi người nhiệm vụ khó hơn mức bình thường.”
“Nhưng chúng ta cũng như là anh em mà,” Jason phản đối. “Hera cũng làm rối tung rối mù đời tôi lên. Tôi hiểu…”
“Cậu cóc hiểu gì sất,” Hercules lạnh lùng đáp. “Gia đình đầu tiên của tôi: chết. Đời tôi phí phạm vào những nhiệm vụ ngớ nga ngớ ngẩn. Người vợ thứ hai của tôi chết sau khi bị lừa đầu độc tôi và bỏ tôi chết trong đau đớn quằn quại. Và đền bù? Tôi trở thành một vị thần xíu xiu. Bất tử, nên tôi chả bao giờ quên được nỗi đau. Kẹt ở đây làm tên gác cổng, một thằng gác cửa, một… một gã quản gia cho đám thần thánh trên Olympus. Không, cậu thì hiểu được gì. Vị thần duy nhất hiểu tôi dù chỉ chút chút là Dionysus. Và ít nhất anh ta cũng tạo ra cái gì đó hữu dụng. Còn tôi chả có gì để khoe ngoại trừ mấy thước phim chuyển thể tồi tệ.”
Piper dùng lời nói mê hoặc. “Thật đáng buồn thay Ngài Hercules. Nhưng làm ơn đừng gây khó dễ bọn tôi. Bọn tôi đâu phải kẻ xấu.”
Cô nghĩ cô thành công rồi. Hercules do dự. Rồi anh ta cắn chặt quai hàm và lắc lắc đầu. “Phía bên kia hòn đảo, qua mấy quả đồi, hai người sẽ tìm tìm thấy một con sông. Gã thần sông già nua Achelous sống ngay giữa dòng.”
Hercules đợi chờ như thể tin này phải khiến họ chuồn luôn mới đúng.
“Và…?” Jason hỏi.
“Và,” Hercules bảo. “Tôi muốn hai người bẻ gãy cái sừng kia của gã mang về cho tôi chớ sao.”
“Ông ta có sừng hả,” Jason nói. “Đợi chút… cái sừng kia của ông ta ư? Cái gì…?”
“Tự tìm hiểu lấy,” vị thần chua cay đáp. “Đây, cái này có thể giúp ích.”
Anh ta nói từ giúp như thể nó có nghĩa là giết[5] vậy. Từ dưới áo chùng, Hercules lôi ra một cuốn sách nhỏ và thảy nó cho Piper. Cô suýt không bắt được nó.
[5] Nguyên văn là ‘help’ – giúp và ‘hurt’ – đau nhưng tác giả chơi vần nên để như thế đọc thuận hơn.
Bìa sách bóng loáng có hình bức ảnh các ngôi đền Hy Lạp với mấy con quái vật tươi cười. Con Minotaur[6] đang giơ ngón cái. Tựa sách ghi: Cẩm nang hướng dẫn của Hercules về Mare Nostrum.
“Mang cái sừng đó về cho tôi trước khi mặt trời lặn,” Hercules bảo. “Chỉ hai cô cậu thôi nhé. Đừng liên lạc với bạn bè làm chi. Con tàu của hai người sẽ ở nguyên vị trí. Nếu hai người thành công, thì tất cả có thể vào Địa Trung Hải.”
“Nếu không thì sao?” Piper hỏi, khá chắc rằng cô không muốn nghe câu trả lời.
“Ừm, thì Achelous giết hai người, tất nhiên là thế,” Hercules nói. “Và tôi sẽ tay không đập thuyền của hai người làm đôi rồi cho bạn hai người xuống mồ sớm.”
Jason di di chân. “Bọn tôi hát lấy một bài vui vui không được sao?”
“Tôi sẽ làm thật đấy,” Hercules lạnh lùng nói. “Mặt trời lặn. Không thì bạn cô cậu bỏ mạng cái chắc.”
[6] Minotaur hay nhân ngưu là một quái vật nửa người nửa bò trong thần thoại Hi Lạp. Mọi chuyện bắt đầu khi Minos muốn làm vua xứ Crete nên ông cầu xin thần biển Poseidon. Poseidon đã cho ông một con bò trắng đẹp tuyệt trần để ông chứng tỏ lòng thành của mình. Nhưng mê mẩn trước vẻ đẹp của con bò, Minos đã đem một con bò giả để thế. Tức giận, thần Poseidon đã trừng phạt Minos bằng cách hóa phép cho hoàng hậu của Minos, Pasiphaë, yêu con bò đó. Hoàng hậu đã ra lệnh kiến trúc sư Daedalus làm một con bò cái bằng gỗ cho bà chui vào để giao phối với con bò đó và kết quả là sự ra đời của.
Minotaur đã gieo rắc kinh hoàng cho toàn đảo Crete nên vua Minos ra lệnh cho Daedalus làm một một mê cung để nhốt nó lại. Mỗi năm, ông đem bảy người con trai và bảy người con gái từ Athena vào cho Minotaur ăn thịt.
Minotaur đã bị tiêu diệt bởi anh hùng Theseus sau khi chàng nghe việc làm tàn ác của vua Minos. Anh đã giết được Minotaur nhờ sự giúp đỡ của Ariadne, con gái vua Minos. Nhờ cuộn chỉ của cô đưa mà anh đã tìm đường thoát được khỏi mê cung.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.