Đâu Chỉ Mình Anh

Chương 14


Đọc truyện Đâu Chỉ Mình Anh – Chương 14

Ánh mặt trời xuyên qua cửa sổ tạo thành một dải nắng vàng trên sàn nhà gỗ trống trơn. Alice nhẹ nhàng hất chăn lông vịt ra rồi xỏ chân vào đôi dép đi ở nhà và khẽ khàng rời phòng ngủ, lúc ra cửa chính cô dắt theo Snoop đang ngái ngủ.

Joe vẫn ngáy khò khò khi cô xuống cầu thang, vào phòng bếp, đi quanh phòng mở tất cả cửa lớn và cửa sổ. Snoop lách qua cửa kính ngoài ban công dẫn ra hiên và chạy vụt ra sau vườn.

Aliceđổ đầy ấm nước, đặt ấm nước lên bếp rồi đứng dựa lưng vào cửa sau, cô không thể nén một nụ cười khi hít thở không khí trong lành của buổi sớm mai.

Lúc này đang là giữa tháng Mười, và ngôi nhà đổ nát ở Highfield, như Joe vẫn gọi, gần như không còn nhận ra được nữa.

Họ hoàn tất việc mua ngôi nhà ở Highfield và căn hộ trong thành phố vào cuối tháng Tám, và kể từ đó, Alice dành phần lớn thời gian ở Highfield với nỗ lực biến ngôi nhà nhỏ thành nơi có thể ở được, cô cũng cố gắng làm cho Joe yêu quý nơi đây, và mặc dù vẫn chưa thích chốn này nhưng anh cũng bất ngờ trước sự thay đổi mà Alice tạo ra với một lớp sơn mới toanh và vài chục can xi đánh bóng sàn nhà.

Giờ đây ngôi nhà rất sáng sủa và rạng rỡ, các bức tường toát lên một màu trắng tinh. Phòng tắm vẫn còn nguyên vẹn từ những năm 1970 với đồ dùng bằng nhựa màu xanh của quả lê Tàu mà Joe ghét cay ghét đắng, nhưng ít nhất thì căn phòng cũng rất sạch sẽ, và ngay khi họ tìm được thợ ống nước giỏi, Alice thề sẽ sửa sang và biến nó thành phòng tắm mới.

Phòng bếp rộng và không hiện đại, nhưng Alice thích nó. Đây không phải là địa phận của Joe, thứ duy nhất anh thấy ấn tượng là cái lò sưởi hiệu Viking, lý do đơn giản là vì nó chỉ có thể mua được với mức giá ngất ngưởng. Alice thì thích mặt bếp bằng cẩm thạch xước và bồn rửa bát đã sứt mẻ của người chủ cũ. Cô cũng say mê cái chạn bát quê kiểu cũ và chạn thức ăn rộng rãi có cửa mở.

Chuyên viên quy hoạch đến và đốn không biết bao nhiêu cây quanh nhà rồi mạnh tay xén bớt những cây còn sót lại.

Nước trong ao được xử lý, độ cân bằng pH được đảm bảo, và trông cái ao ngày càng bớt giống bãi lầy và na ná một cái ao hơn, mặc dù vẫn còn nhiều việc phải làm trước khi Alice dám nuôi cá trong đó.

Phía ngoài ngôi nhà cũng được quét sơn, cửa chớp có màu đen bóng, bồn hoa cửa sổ được lắp thêm, và Alice trồng thêm cây lôbêli và cây phong lữ mặc dù mùa hè đã qua và chắc chắn đám cây sẽ chết vì sương giá chỉ trong vài tuần.

Alice xỏ chân vào đôi dép Timberlands và nhét đầy thức ăn cho chó vào hai túi quần (“Em đừng bao giờ đi đâu mà quên mang theo túi thức ăn này”. Harry nói. “Em có thể huấn luyện chó mọi lúc, mọi nơi.”), cô cầm tách cà phê và bước ra “sân”. Thật thú vị, cô thầm nghĩ, khi gọi mười hai ngàn mét vuông rừng và một cái ao là “sân”.

“Lại đây!” cô gọi Snoop, vươn tay ra trước và cho chú chó ăn một miếng khi cu cậu ngoan ngoãn chạy về phía cô, và cả hai cùng tản bộ qua bãi cỏ.

Alice đi chậm rãi, nhấm nháp cà phê và mỉm cười khi nhìn ngó xung quanh. Lúc này, âm thanh duy nhất là tiếng chích chích của đàn chim lông đỏ đang nhảy lò cò quanh bãi cỏ, thi thoảng có tiếng sột soạt của một chú sóc chạy qua.

Cô khua tay xuống nước và ngồi lên một thân cây to hẳn đã bị quất ngã trong một cơn bão lớn. Nước ao vẫn còn bẩn và đen xì, nhưng trong đời, Alice chưa bao giờ vui hơn lúc này.

Uống hết tách cà phê, cô quay trở về nhà và đứng ngoài hiên hồi lâu, rùng mình trong cái lạnh của buổi sớm. Trời vẫn có nắng, tháng Mười vẫn chưa hẳn là mùa đông, và những chiếc lá đang chuẩn bị chuyển sang sắc màu cầu vồng, thứ đã làm cho New England trở nên nổi tiếng.


Alice kiểm tra công việc cô đã tự tay làm. Cô đã nhổ cỏ trên từng bậc đá, chà rêu mốc trong hiên, trồng hoa trên các mảnh đất để bổ sung thêm màu sắc cần thiết trước khi đông tới.

Nơi này gần như không thể nhận ra được nữa. Alice ngồi lên thành chiếc ghế Adirondack màu xanh lá cây và nhìn móng tay cụt ngủn trầy xước của mình, hậu quả của tất cả những việc cô đã làm nhầm biến ngôi nhà thành mái ấm gia đình.

Cô vẫn còn phải làm rất nhiều việc. Phải thay cửa sổ, sửa ống khói trước khi đông đến. Sang tuần phải lắp máng nước, và cô muốn cơi nới phòng bếp nhưng sẽ đợi xem sao đã. Nói cho cùng, Joe vẫn nghĩ họ sẽ xây một biệt thử khổng lồ kiểu McManson ở bên kia ao.

Nhưng Alice rất hạnh phúc. Ngôi nhà nhỏ với sàn nhà xập xệ và cầu thang ọp ẹp này là tất cả những gì cô từng mơ tới, và mới sau hai tháng ở đây, cô đã thấy như thể mình ở đây từ rất lâu rồi.

Cô nghe thấy tiếng sột soạt sau lưng và chậm rãi quay người lại để quan sát. Tuần trước cô đã nhảy lên khi có con gì đó di chuyển trên bãi có. Khi nhìn ra ngoài, cô sửng sốt nhìn không chớp mắt khi thất năm con hươu đang thong thả đi ngang qua vườn. Cô biết đáng ra phải xua chúng đi – mọi người đã cảnh báo cô rằng hươu mang một loại ký sinh trùng có thể gây ra bệnh Lyme chết người – nhưng có điều gì đó thật kì diệu khi được ngắm nhìn đàn hươu trong môi trường tự nhiên của chúng, vì vậy cô chỉ đứng nhìn cho đến khi chúng tha thẩn đi mất.

Bốn tiếng sau đó, Joe bật máy tính xách tay đọc báo trực tuyến, ghé các trang thường ngày, cạnh anh là một tách cà phê đặc. Alice đang mở thùng sách và xếp sách lên giá ở hai bên lò sưởi bằng đá trong căn phòng ngập tràn tiếng nhạc của Pachelbel từ dàn âm thanh nổi – một món đồ mà Joe nhất định phải mua ngay lập tức.

“Xin chào?”

Alice giật nãy mình khi nghe thấy giọng nói lạ, cô quay người lại thì thất một người phụ nữa tầm tuổi mình đang đứng ngoài cửa, trên tay cô ta là một cái đĩa phủ giấy thiếc.

“Vâng?” Alice, với phong cách của người Anh, rất lịch sự và trang trọng, cũng chưa quen với việc người lạ vào nhà, ngay cả khi họ đang mỉm cười.

“Chị là Alice phải không?” Alice gật đầu. “Tôi là Sally. Sandy nói với tôi là chị mới chuyển đến đây và tôi muốn qua chào. Tôi làm tặng chị bánh táo này.”

“Thật ư!” Alice cười vang và bất ngờ trước chi tiết mang đậm phong cách Mỹ này, cô phấn khích vì điều này không bao giờ xảy ra tại Luân Đôn. “Chị thật tốt bụng quá. Mời chị vào trong này. Chị dùng cà phê nhé?”

“Ồ vâng.” Sally vừa bước vào trong thì Alice nghe thấy tiếng cười khanh khách vang lên bên ngoài. “Tôi mong là chị không phiền, tôi đưa con gái tôi sang cùng, con bé tên là Madison. Con bé rất thích chơi với chú chó của chị.”

Alice mỉm cười và đi ra cửa nhìn cô bé khoảng hai tuổi, đang chạy theo sau Snoop, cu cậu dường như hơi sửng sốt vì chưa bao giờ được thấy ai nhỏ như vậy và gần đến vậy. cô bé lại đang hào hứng chạy đuổi theo cu cậu.

“Madison, chào cô đi con.” Sally nói.

“Cô,” Madison nói mà không ngẩng mặt lên. “Chó ơi! Madison bắt chó nhé?”


“Chà, cô bé đáng yêu quá,” Alice mỉm cười. ” Cô bé có muốn uống nước không?”

“Không cần đâu. Con bé rất yêu động vật. Lát nữa cháu sẽ vào đây thôi mà.” Sally đặt đĩa lên bàn và mỉm cười nhìn ngôi nhà. “Vậy là chị sắp xếp được đến đâu rồi?”

Alice hít thở thật sâu. “Chị có nghĩ lúc này là quá sớm để tôi nói rằng tôi rất yêu ngôi nhà này không?”

“Có thể, nhưng chúng tôi chuyển từ Manhattan đến đây từ sáu năm trước, và tôi phải lòng ngôi nhà của chúng tôi chỉ sau năm phút.”

“Sáu năm ạ? Vậy thì chắc chị biết thị trấn rõ lắm.”

“Không phải tất cả, nhưng cũng đủ chị ạ. Tôi có thể nói cho chị biết những thứ chị cần biết.”

“Mẹ ơi.” Madison vụt xuất hiện ở cửa, theo ngay sau cô bé là Snoop, và trong cu cậu có vẻ rất vui sướng vì vừa tìm được bạn mới. “Con nuôi con chó này nhé?”

“Không được, con yêu.” Sally cúi xuống mỉm cười với con. “Con không thể nuôi cậu ấy được, khi nào con lớn và biết có trách nhiệm, con sẽ có hẳn một con chó riêng.”

“Con có một con chó,” Madison nhắc lại, tự gật đầy với mình và sau đó đi quanh nhà để xem xét bên trong tủ chén bát.

“Chị có con không?” Sally hỏi trong khi Alice lấy đĩa ra khỏi giấy bọc và hấp tấp lau sạch.

“Không. Chưa chị ạ. Tôi thích có con lắm. Sẽ sớm thôi.”

“Xin chào.” Joe vào phòng bếp, một bên chân mày anh nhướng lên khi nhìn thấy người phụ nữ lạ mặt. “Tôi là Joe.”

Alice quay sang ngắm chồng, trông anh đặc biệt quyến rũ dù hơi nhăn nhúm trong chiếc quần jeans cũ kỹ và chiếc áo polo bạc màu, anh đi chân trần về phía Sally để bắt tay cô.

“Chào anh.” Sally nói với nụ cười chân thành, cô bắt tay Joe còn Alice thở dài nhẹ nhõm. Có thể cô không tin Joe chỉ là gã đàn ông chuyên ve vãn phụ nữ, nhưng cô đã thấy sức ảnh hưởng từ sự quyến rũ của anh, và cô sẵn sàng xù lông nhím ngay khi thấy một người phụ nữ khác gục ngã trước câu thần chú của anh. Cũng như khi quan sát Gina, giờ đây quan sát Sally, Alice không thể tìm ra dấu hiệu nhỏ nhất của sự tán tỉnh trong giọng nói của họ. Cảm ơn Chúa vì điều đó, cô thầm nghĩ. Một người phụ nữ mà mình có thể tin tưởng.


“Anh chị nên ghé qua nhà tôi,” Sally nói. “Chúng tôi sẽ giới thiệu anh chị với hàng xóm. Anh chị có kế hoạch gì vào thứ Bảy tuần tới chưa?”

“Hoàn toàn chưa chị ạ.” Alice nói. “Chúng tôi vẫn chưa gặp ai cả, vậy nên chúng tôi chưa có kế hoạch cụ thể.”

“Hay quá! Mời anh chị đến ăn thịt nướng ngoài trời với chúng tôi. Lúc năm giờ, có tiện cho anh chị không?”

“Nghe rất tuyệt.” Joe mỉm cười.

“Hay lắm. Trong khi chờ đợi, anh chị phải ăn bánh táo này. Vẫn còn nóng hổi, vừa ra lò xong đấy.”

“Một đầu bếp nữa sao?” Joe mở ngăn kéo tìm nĩa trong khi Alice cắt bánh và đĩa bánh tỏa ra mùi hương tuyệt vời của táo quyện với hương quế thơm phưng phức. “Rồi thì hai người chắc chắn sẽ trở thành bạn thân.”

“Tôi cũng mong vậy.” Sally mỉm cười. “Sandy nói là tôi sẽ mến anh chị, và chị ấy đã đúng.”

“Ồ, tuyệt” Joe khẽ nói và cắm nĩa vào bánh. “Chúng tôi rất vui.”

“Họ thế nào hả em?” Chris, chồng của Sally, chùi tay vào giẻ và đi ra khỏi phòng làm việc.

“Có vẻ họ rất tử tế.” Sally nói và đặt Madison xuống, cô bé chạy ngay vào vòng tay bố.

“Chào bé cưng của bố.” Anh ôm con lên. “Con chơi có vui không?”

“Con có một con chó.” cô bé lẩm bẩm. “Chó Snoop.”

“Xúp chó à? Eo!” Chris nhăn mặt và Madison cười thích chí. “Thế thì béo ngậy lên rồi.”

“Bố ơi, không phải xúp chó!” cô bé cười khúc khích. “Chó Snoop.”

“Họ nuôi một chú chó tên là Snoop.” Sally cười vang, “Ý con là thế.”

“Và? Mình sẽ kết bạn với họ chứ?” Chris đặt con xuống và quay sang Sally.

“Anh sẽ mến họ thôi. Họ mang đậm phong cách của người Anh và hơi dè dặt, nhưng rất dễ mến, và anh chồng thì rất quyến rũ với cái nháy mắt nguy hiểm.”


“Ý em là anh ta tán tỉnh em à?”

“Không!” Cô bẩy anh ra. “Không phải em. Nhưng anh ta có vẻ thuộc hạng người thích bỡn cợt. Ôi chết thật, anh có nghe em nói không đấy? Nói thế thì thật khó nghe quá. Dù sao thì năm giờ thứ Bảy tới họ cũng đến đây ăn thịt nướng ngoài trời, đến lúc đó anh có thể tự nhận xét về họ.”

Về lý thuyết, Joe rất thích thú khi có một ngôi nhà ở miền quê, anh không thể đợi thêm để khoe với đồng nghiệp và khách hàng về “ngôi nhà cuối tuần” của vợ chồng anh, nhưng miền thôn quê chưa bao giờ là sở thích của anh, và anh vui vẻ để một mình Alice tiếp quản ngôi nhà trong suốt mấy tuần qua.

Joe thích sống ở New York, anh rất hạnh phúc khi không phải đi xa hơn số nhà Chín mươi mốt ở phía Bắc hay Soho ở phía nam, vì anh làm việc ở phố Wall. Anh yêu mến nhịp sống, con người, phong cách sống ở đây, và nếu có trở ngại thì đó chỉ có thể là Alice.

Anh vẫn đang cố gắng với Alice, thề có chúa chứng giám cho nỗ lực của anh. Anh đã – một lần nữa – tự nhắc lại cam kết của mình với vợ và đang nỗ lực hết sức để trở thành một người chồng mà cô muốn anh trở thành, nhưng anh đang ở New York – ở đó mọi con đường đều có cám dỗ, và anh có thể cảm thấy ham muốn đang trỗi dậy.

Mới tuần trước thôi,anh ăn tối với khách hàng ở Le Colonial. Anh đến sớm, lên quầy rượu với hy vọng được yên tĩnh nhấm nháp một ly rượu, có thể đọc qua vài tờ báo, nhưng tiếng nhạc đạp bùm bùm và căn phòng thì chật ních người bảnh bao, xinh đẹp. Anh thích thú quan sát họ và nhận thấy bọn họ cũng đang nhìn ngó xung quanh để xem có bỏ lỡ cái gì, hay để lỡ ai đó, thú vị hơn không, và anh thấy mình bị hớp hồn bởi một người phụ nữ da ngăm đen có vẻ ngoài quyến rũ với chiếc váy đen nhỏ xíu và đôi bốt da cao cổ.

Anh thích thú trước những ánh nhìn ve vãn liên tục và một nụ cười kín đáo khi cô ta thấy anh đang nhìn mình, ấy nhưng đúng lúc đó thì khách hàng của anh đến. Ái chà chà. Tốt hơn hết là cứ để sự việc kết thúc như vậy trước khi nó bắt đầu. Dù sao thì anh cũng quay trở lại quầy rượu sau khi ăn xong bữa tối, hy vọng cô ta vẫn còn ở đó, nhưng tất nhiên là cô ta đi mất rồi.

Còn Alice thì sao? Hịên giờ Alice thấy New York cũng giống với London. Cô thấy dễ hòa nhập hơn, vì ở New York không ai biết cô, cô không cảm thấy áp lực phải trở thành người vợ hoàn hảo. Nhưng Alice bắt đầu dành nhiều thời gian hơn cho ngôi nhà ở miền quê, và càng ở đó lâu cô càng có nhiều việc để làm, càng yêu mến ngôi nhà hơn và càng ít muốn phải rời đi hơn.

Alice dỡ tường và phát hiện ra các ván gỗ được dấu từ năm 1960. Cô chà vải sơn lót sàn bếp và thấy các tấm ván gỗ sồi cũ kỹ to bản. Cô khám phá ra căn phòng chắc chắn từng là phòng làm việc của nhà văn Rachel Danbury, và cô có thể dành nhiều thì giờ trên chiếc ghế cạnh cửa sổ trong căn phòng, nhìn ngắm cây cối và suy ngẫm về cảm giác yên bình trong tâm hồn.

Càng khám phá thêm nhiều điều về ngôi nhà, cô càng có cảm giác như thể cô biết nữ nhà văn đấy rất rõ. Cô vẫn chưa được cầm trên tay cuốn The Winding Road, nhưng dường như tính cách của Rachel Danbury đã thấm sâu vào tận bên trong các bức tường, bộ phận quan trọng nhất của ngôi nhà, và Alice dần dần đắm chìm vào câu thần chú của bà, mỗi ngày qua đi cô càng yêu quý ngôi nhà nhiều hơn.

Tuy nhiên vẫn có những lúc Alice phải vào thành phố. Dù hết sức miễn cưỡng nhưng cô vẫn ở New York từ thứ hai đến thứ sáu – hoặc từ thứ ba đến thứ năm nếu cô có thể thoái thác. Cô đi rạp hát với Joe, tham dự các buổi khai trương ở Met, dự các buổi gây quỹ từ thiện tại Frick, đến nhà hàng, quán bar và các câu lạc bộ. Cô vào thành phố để nhuộm tóc high light ở Frederic Fekkai, để mua những bộ váy áo đi dự tiệc ở Bergdorf Goooodman, để ăn trưa với Gina tại Jeans – George hoặc Le Cirque 2000 – đây là việc duy nhất khiến cô thực sự thích thú khi vào thành phố.

Alice ngạc nhiên vì chỉ trong một thời gian ngắn mà cô với Gina đã thân thiết với nhau như vậy.”Một người thế chỗ tớ”, Emily nói với một cái khịt mũi ghê tởm giả tạo,nhưng xét trên nhiều phương diện thì điều đó đúng. Emily là người bạn lâu nam nhất và sẽ luôn là người bạn than nhất của Alice, nhưng hiện giờ khoảng cách đang chia cách họ, vì vậy Emily không thể hiểu rõ cuộc sống của bạn mình.

Dường như Alice và Gina có rất nhiều điểm chung. “Chúng ta quả là may mắn”, Gina liên tục nhắc lại như vậy. “Tôi và chị có hai người chồng tuyệt vời. Chị có tin là chúng ta may mắn đến thế không?

Mỗi lần như vậy Alice đều mỉm cười đồng ý, và trong lòng cô trỗi dậy biết ơn vì Joe đã trở lại là người đàn ông mà cô lấy làm chồng, người đàn ông mà cô đem lòng yêu thương ngay từ khi còn ở tuổi học trò. Anh về nhà đều đặn mỗi tối, gọi diện thông báo với cô nơi anh sẽ đi. Điện thoại di động của anh luôn luôn mở, và lần đầu tiên trong nhiều năm, cô không phải nằm trên giường thao thức mỗi đêm, tim đập thình thịch khi nghĩ đến chuyện anh đang ở đâu và làm gì.

Cô không còn trằn trọc về những năm tháng bất an và hoảng hốt, không phải chiến đấu để đẩy lùi nỗi sợ hãi ra khỏi tâm trí bởi sự thật có thể khủng khiếp quá sức tưởng tượng của cô.

Giờ đây, ngay cả trong những buổi tối Alice ở miền quê và Joe ở thành phố làm việc, cô vẫn thường gọi điện cho anh và anh vẫn đều đặn nghe máy. Những ngày này không có chuyện anh bận này bận nọ, không có chuyện anh biến mất một cách khó hiểu hay đi công tác đến những khách sạn không tên. Cô gọi điện đến căn hộ ở thành phố cho anh lúc nửa đêm, anh luôn bắt máy và nói với cô rằng anh nhớ cô vô vàn.

Vào ngày cuối tuần, khi anh bắt tàu về Highfield vào tối thứ sáu hoặc sáng thứ bảy, cô lái chiếc xe Ford Explorer mới của mình ra ga đón anh, anh ôm chầm lấy cô rồi hôn cô say đắm, và không một chút nghi ngờ, cô biết anh yêu cô thật lòng.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.