Đọc truyện Cuộc Gọi Từ Thiên Thần – Chương 34: The Girl in the Dark[1]
[1].Tiếng Anh trong nguyên bản: Cô gái trong bóng tối.
“Tâm trí cứ tìm nhưng trái tim mới thấy”
George SAND
Đoạn băng dài chưa đến ba mươi giây. Chỉ có một khung hình duy nhất quay cận cảnh gương mặt thất thần của cô bé. Nét mặt hoảng hốt, đôi mắt thâm quầng rõ ràng là đang kiệt sức, Alice nhìn đăm đắm vào máy quay. Thứ ánh sáng nhợt nhạt bao quanh Alice cho thấy cô bé đang bị giam trong một tầng hầm hoặc ngục tối. Lời nói của cô bé đứt quãng, xen lẫn những tiếng nức nở. Tuy nhiên cô bé vẫn trực tiếp nói với bố để truyền đạt lại yêu sách của những kẻ bắt cóc.
“Save me, Dad! Change your testimony, please! And well be together again. Right, Dad[2]?”
[2]. Tiếng Anh trong nguyên bản: Bố ơi, cứu con! Bố nhớ đổi lời chứng nhé! Rồi bố con mình sẽ lại ở bên nhau. Được không bố? (Chú thích của tác giả)
Rồi camera lùi ra xa, cho phép nhận thấy thân hình mảnh khảnh của Alice đang bị còng vào một đường ống nước.
– Chúng tôi nhận được cuộn băng hồi sáng nay từ tay một nhân viên giao hàng, Blythe giải thích rồi bấm nút dừng hình.
Danny siết chặt tay thành nắm đấm. Cảm thấy tội lỗi cắn rứt và bất lực, hắn trở lên hết sức bi quan:
– Con bé bị bắt cóc đã mười hai tiếng rồi. Nếu chúng ta không nhanh chóng tìm ra Alice thì dù tôi có làm gì đi nữa chúng cũng sẽ thủ tiêu con bé. Mà nếu không có thuốc, con bé cũng có thể bị biến chứng suy thận bất cứ lúc nào.
Blythe ngồi vào một cái bàn sắt rèn bên trên là ba chiếc laptop.
– Chúng tôi đã thử định vị điện thoại của Alice mà không được, cô ta nói rõ rồi tải đoạn phim về ổ cứng.
Nữ mật vụ xem đi xem lại đoạn phim, tách tiếng và tiến hành chụp lại màn hình hàng chục lần, zoom tới chi tiết nhỏ nhất.
Madeline tiến lại gần mấy chiếc laptop, hết sức lưu tâm đến các phương tiện kỹ thuật. Blythe giải thích cho cô rõ trình tự phân tích:
– Đoạn băng có để ngày giờ rõ ràng ở góc dưới màn hình. Khi khuếch đại phần tiếng, có lẽ ta sẽ phát hiện ra những âm thanh có vẻ không thể nghe thấy: Tiếng tàu điện trên không, tiếng xe cộ qua lại… những chi tiết có thể mở ra cho chúng ta một hướng điều tra.
– Thế còn chiếc camera? Jonathan hỏi.
– Dường như trong bóng tối nhưng chất lượng hình ảnh vẫn rất tốt. Đây là một mẫu camera đời mới, Blythe phân tích.
Bằng vào vài thao tác, cô ta cho chạy một phần mềm có khả năng nhận dạng nhãn hiệu và mẫu mã.
– Đây là một máy quay hiệu Canon có bộ nhớ đệm, vừa xuất hiện trên thị trường cách đây chưa đầy năm. Tôi sẽ yêu cầu văn phòng lập danh sách người mua mới đây nhất tại hệ thống các cửa hàng hoặc qua mạng, nhưng chuyện này sẽ mất thời gian.
Sau đó, Blythe tách chi tiết của một bức ảnh để phóng to trên màn hình:
– Đường ống này khiến tôi lưu tâm! Cô nói và trỏ chuột vào chi tiết được phóng to, đoạn đường ống nơi Alive đang bị còng tay. Nó vừa cũ vừa thô. Thoạt nhìn, tôi cho rằng hệ thống ống dẫn này đã tồn tại ít nhất là một thế kỷ, nhưng tôi sẽ liên hệ với các chuyên gia có khả năng xác định niên đại thật chính xác. Cộng thêm một chút may mắn khi dò tìm trên toàn bộ hệ thống dữ liệu của chúng tôi, ta có thể xác định được nơi Alice bị giam.
Rồi cô ta quay sang hỏi mật vụ đã nhận chiếc USB chứa đoạn băng.
– Anh đã lấy lời khai của tay nhân viên giao hàng chưa Chris?
Gã Man in Black chuyển một tài liệu từ điện thoại di động của mình sang máy tính và cho hiển thị luôn lên màn hình.
– Anh ta làm việc cho Bike Massenger, một hãng giao vận gần phố Wall, nhưng lần giao này thì anh ta không qua hãng. Anh ta nhận giao gói hàng tại ngã tư Dutch giao cắt phố John. Người gửi cũng tự mình di chuyển tới đó: Cao lớn, gốc Kafka, đậm người, tuổi chừng bốn mươi… Hắn thanh toán bằng tiền mặt và không nêu tên.
– Ta có phác thảo chân dung hắn chưa?
– Ờ… Terence đang lấy thêm lời khai của nhân viên giao hàng.
– Được rồi, bảo cậu ta khẩn trương lên! Tôi muốn có thể phát đi dấu hiệu nhận dạng nghi phạm trong vòng mười phút nữa. Kể từ thời điểm này, ta phải tranh thủ từng giây!
Nửa tiếng sau
Cái tên Matchbox[3] hẳn phải được lấy cảm hứng từ khung cảnh chật hẹp của quán. Chúa mới biết làm cách nào chủ quán lại có thể sắp xếp căn phòng nhỏ bé ấm cúng trông ra khoảng vườn hẹp này thành một quán rượu có sức chứa hai chục khách.
[3]. Tiếng Anh nguyên bản: Hộp diêm.
Ngồi trước một suất bánh kẹp cá hồi, Jonathan vừa tường thuật cho Madeline cuộc gặp giữa anh và Francesca.
– Em nghĩ sao?
Anh đã kể hết sức thành thật và chính xác cảnh huống khiến Francesca ngộ sát Lloyd Warner rồi thu dọn cái xác trước khi bày ra chứng cứ ngoại phạm với sự tiếp tay của George. Một kỳ công cho phép vợ cũ của anh không bị khép tội giết người, nhưng buộc phải trả giá bằng cuộc hôn nhân giữa họ.
– Em nghĩ gã đó chết đi thì thế gian này bớt một thằng khốn thôi. Madeline đáp.
Một câu nói dí dỏm đặc kiểu Danny Doyle…
– Em nghĩ vợ anh có được sự bình tĩnh rất đáng nể và một trí thông minh đáng gờm, cô bình luận thêm.
Cô ăn nốt lát bánh mì phết pho mát dê tươi rồi nhấp một ngụm rượu vang.
– Và em nghĩ anh nên quay về với chị ấy.
Jonnathan kinh ngạc. Chỉ trong một ngày, Madeline đã khiến chuyện giữa họ tan thành mây khói.
– Thế còn… chúng ta?
Cô nhìn thẳng vào mắt anh.
– Chúng ta đừng tự dối lòng nữa: Quan hệ của chúng ta còn lỏng lẻo. Tương lai sẽ thế nào đây? Chúng ta sống cách nhau tới hơn mười nghìn cây số, cả hai chúng ta đều mất phương hướng. Thế nào cũng sẽ có ngày anh hối tiếc vì đã không quay về sống cùng với vợ con mình.
Jonanthan cố gắng trấn tĩnh.
– Em đâu biết gì về chuyện đó! Dù thế nào thì chúng ta cũng sẽ không chia tay nhau vì một giả thiết thất bại thảm hại…
– Anh chẳng có chuyện gì làm ở đây cả, Alice Dixon đối với anh chẳng là gì hết. Đây không phải cuộc chiến của anh.
– Cô bé là một phần cuộc sống của anh cũng như của em vậy thôi!
Lần này anh đã cao giọng. Quán chặt đến nỗi mọi ánh mắt đều đang hướng về phía anh. Anh ghét nơi này vì những chiếc bàn kê san sát, không cho thực khách được tự do cử động hay chút riêng tư nào hết.
– Nghe này Jonathan, câu chuyện này đã bắt đầu trong máu và kết thúc trong máu. Sẽ không có một kết cuộc tốt lành, và anh chưa chuẩn bị tinh thần để đối diện với sự tàn khốc đó đâu. Em vốn là cảnh sát, Blythe đang làm việc cho FBI, Danny đã quen giết người, nhưng, anh thì…
– Anh thì chỉ là một tay chủ nhà hàng hiền lành thôi chứ gì?
– Anh thì đang có một gia đình…
– Anh nghĩ em có thể là một thành viên của gia đình đó mà, anh vừa nói vừa đứng dậy.
Anh để hai tờ bạc trên bàn rồi rời khỏi quán.
Đây là lần đầu tiên Madeline thực sự cảm thấy yêu một người đàn ông. Thế nhưng cô không tìm cách giữ chân anh.
– Anh bảo trọng nhé, cô thì thầm.
Nhưng anh đã đi rồi.
Lẽ hiển nhiên là cartel ma túy Mexico đứng đằng sau vụ bắt cóc Alice sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn. Bị chạm tự ái, Jonathan không hiểu rằng chính vì yêu anh mà Madeline không muốn lôi kéo anh vào dòng sông tăm tối.
Bến tàu điện trên đại lộ Bedford chỉ cách đó một khối nhà. Jonathan bước vào bến và quay trở lại Greenwich.
Về đến căn hộ của Claire, anh đứng lặng dưới vòi hoa sen suốt hai mươi phút, kiệt sức vì chênh múi giờ và thiếu ngủ, lại vừa phải trải qua hàng loạt cảm xúc cùng tình cảm trái ngược.
Ba giờ chiều. Anh gọi về San Francisco nói chuyện với con trai hồi lâu. Charly không hiểu tại sao bố lại không ở bên mình khi ngày mai đã là Giáng sinh. Nhưng Marcus đã tỏ ra xứng đáng với lòng tin của anh và cố gắng hết sức mình thế chỗ anh trong vai trò người bố mà chính Jonathan không bao giờ thực sự biết cách.
Cuộc trò chuyện với con trai càng khiến anh buồn thêm. Để chạy trốn nỗi cô đơn, anh thay quần áo rồi bước vào quán bar đầu tiên gặp trên phố Mac Dougal uống cà phê. Anh hy vọng rằng cafein sẽ giúp đầu óc mình tỉnh táo hơn. Trong một lúc, những hình ảnh về một gia đình tái hợp chen chúc trong tâm trí anh như một loạt phim dương bản khiến anh yên lòng. Anh hồi tưởng lại tất cả những khoảnh khắc hạnh phúc đầy đủ đã có với vợ cũ và Charly. Những lời thú nhận của Francesca đã giải phóng anh khỏi nỗi đau khổ vốn giam hãm anh từ hai năm nay, dìm anh trong một màn sương mù khiến anh đánh mất niềm tin và điểm tựa trong cuộc sống.
Lúc này, anh đang có cơ hội tìm lại “Cuộc sống trước đây”. Rốt cuộc đó không phải là điều anh hằng mong muốn sao? Hai tiếng nữa, anh có thể đáp một chuyến bay tới California, đón Charly rồi quay trở lại New York đón Giáng sinh cùng Francesca.
Triển vọng đó giúp anh thấy vững lòng. Anh nhớ tới câu nói của một đồng nghiệp: “Một cái cây mà không có rễ thì chỉ là một khúc gỗ.” Anh cần một nền tảng để không cảm thấy hụt hẫng. Tuy nhiên, hình ảnh Francesca mờ dần, thay vào đó là hình ảnh Madeline. Dĩ nhiên là cô nói đúng: Chuyện giữa họ chỉ như một cơn gió thoáng qua. Vậy mà…
Vậy mà anh lại không thể nghe theo tiếng nói của lý trí. Madeline đã làm tan nát trái tim anh rồi rỏ vào đó thứ chất độc của nỗi nhớ nhung.
Anh máy móc rút từ túi ra một cây bút rồi bắt đầu chép vội lên tờ giấy ăn một dòng cảm hứng bất chợt. Ba phút sau, anh nhận ra rằng mình vừa sáng tạo ra một món tráng miệng dựa trên hình ảnh của cô gái người Anh: Một chiếc bánh nhiều tầng phết lớp kem mỏng màu hồng và tím, thêm lớp mứt caramen mỏng xếp lớp vị cam ngọt Tunisie. Anh là người đầu tiên cảm thấy ngạc nhiên. Hai năm nay, năng lực sáng tạo của anh đã cạn kiệt và anh không nghĩ ra được món nào. Hôm nay thì cái then đã bật ra và tình yêu một lần nữa gợi cảm hứng cho anh.
Viễn cảnh này khiến anh bình tâm và cho anh thêm lòng tin vào tương lai. Tại sao anh không mở một nhà hàng ngay tại New York kết hợp với một ngôi trường nhỏ dạy nấu ăn nhỉ? Tóm lại là một dự án có ý nghĩa.
Jonathan đã học hỏi từ những sai lầm của bản thân và sẽ không phạm phải cùng những sai lầm ngu ngốc đó đến lần thứ hai. Hội chợ phù hoa, cuộc chạy đua tới những ngôi sao cũng như cuộc tìm kiếm sự công nhận của giới truyền thông đã kết thúc. Anh nung nấu ý định tạo dựng một nhà hàng có dấu ấn riêng, phục vụ kiểu ẩm thực độc đáo và cầu kỳ, nhưng không phải trong một khung cảnh xa hoa. Không còn những chiếc ly pha lê và những bộ đồ ăn bằng sứ do các nhà thiết kế thời thượng sáng tạo. Anh sẽ không bao giờ gắn tên mình lên những sản phẩm phái sinh hay những món ăn đông lạnh ghê tởm bán trong siêu thị nữa. Kể từ giờ trở đi, anh sẽ làm công việc của mình theo cách thủ công, với mục tiêu duy nhất là nhận về và cho đi cái thú ẩm thực.
Anh rời khỏi quán cà phê, trong lòng đã nhen nhóm chút hy vọng. Nhưng anh biết rằng tương lai đó di nhiên phải thông qua việc Alice Dixon còn sống. Hôm nay anh sẽ ở đâu nếu không tình cờ gặp cô bé? Chắc chắn là nằm sâu dưới sáu tấc đất. Anh nợ cô bé cuộc đời này: Đó là món nợ lớn nhất anh từng mắc. Một món nợ máu mà anh đã quyết tâm phải trả bằng được.
Mười tám giờ. Những hình ảnh Alice bị giam cầm xâm chiếm tâm trí anh. Mọi thứ đều hỗn độn. Anh thử hồi tưởng lại những lời nói sau cùng của cô bé nhưng không thể. Anh đi ngược lên Phố 20. Bóng tối bắt đầu bao phủ. Bất chấp cái lạnh quất vào mặt, anh vẫn tiếp tục dạo bước qua các phố, vừa đi vừa nghĩ đến số phận khác thường của Alice. Nghĩ tới cuộc đời mà cô bé đã sống, chẳng khác nào một cuộc chiến đấu. Phải nhiều nghị lực đến thế nào thì cô bé mới có thể thoát khỏi xiềng xích và làm chủ đời mình. Từ khi còn nhỏ, cô bé đã phải chiến đấu một mình, không có cả gia đình lẫn bạn bè, mỗi lúc lại chọn con đường cam go hơn: Con đường hướng tới mục tiêu là không dính đến sự tầm thường, tránh bị những kẻ thô lậu và thảm hại lôi xuống đáy. Một hướng đi vốn sẵn khó khăn kể cả khi người ta đã trưởng thành, huống chi bấy giờ cô bé mới có mười ba tuổi…
Anh đã tới khu phía Đông Chelsea. Lúc này trời đã tối hẳn và một vài bông tuyết lấp lánh ánh bạc nương theo gió đang bay phấp phới dưới bóng đèn đường. Cái lạnh thôi thúc anh đẩy cửa bước vào Life & Death, một quán bar cooktail nổi tiếng. Một thứ nhạc lounge nổi lên từ bốn góc phòng. Dĩ nhiên Jonathan không thích những nơi kiểu này, nhưng những chuyển động và những cuộc trò chuyện giúp anh cảm thấy bớt cô đơn. Còn âm nhạc thì ngược đời thay lại tạo ra một dạng bong bóng giúp anh suy nghĩ, nghiền ngẫm các ý tưởng, ngâm cứu các vấn đề. Alice… Anh phải tập trung nghĩ về Alice…
Linh tính mách bảo anh rằng cuộc điều tra mà Blythe Blake và Madeline đang tiến hành sẽ chẳng dẫn đến đâu cả. Về phần mình, anh không có phương tiện nào để điều tra. Anh chỉ có các nơ ron thần kinh và những kiến thức tâm lý học. Rượu đang thiêu đốt dạ dày anh, nhưng lại khiến các giác quan nhạy bén hơn. Anh gọi thêm ly nữa để giữ cho cảm xúc thật nhanh nhạy. Là nhà sáng tạo, anh luôn đặt cược vào một dạng trí tuệ của xúc cảm. Dần dần, hàng rào ký ức đổ rạp và nội dung cuộn băng hiển hiện trong tâm trí anh: Ánh mắt bồn chồn rực sáng của cô bé, vẻ bối rối, căn phòng giam nhớp nhúa, hai mắt còng siết lấy cổ tay cô bé, giọng nói khàn khàn và lời kêu cứu:
“Save me, Dad! Change your testimony, please!
And well be together again. Right, Dad?”
Anh cố gắng trút rỗng tâm trí để tự đặt mình vào địa vị Alice. Nỗi kinh hoàng hiển hiện trên gương mặt cô bé không thể là giả, nhưng trong mắt cô bé vẫn có thứ gì đó mãnh liệt khôn cùng… Bất chấp nỗi sợ hãi, cô bé vẫn giữ được trí thông minh và vẻ linh hoạt của mình. Như thể cô bé không chỉ tìm cách khơi gợi lòng trắc ẩn mà còn… tìm cách gửi gắm một thông điệp…
Không, không thể có chuyện đó được. Bọn bắt cóc hẳn đã đưa cho cô bé một đoạn viết sẵn để đọc lên, hay chí ít thì cũng là những chỉ dẫn chính xác. Làm sao có thể ứng tác điều gì đó chỉ trong một vài lời thế này?
Tuy vậy, anh vẫn vớ lấy tấm bìa các tông lót ly cooktail rồi viết bốn câu đó ra:
Save me, Dad!
Change your testimony, please!
And well be together again.
Right, Dad?
Được rồi, sau đó thì sao? Căn cứ vào những gì Danny giải thích thì cô bé biết rõ những rủi ro đang gặp phải. Cô bé biết có lẽ kẻ bắt cóc mình hành đồng dưới sự sai khiến của cartel ma túy Mexico. Vậy thì thứ cô bé tìm cách truyền đạt đây không phải danh tính của kẻ bắt cóc, mà nhiều khả năng là những thông tin về nơi giam giữ, trừ phi…
Một ý tưởng vụt qua tâm trí anh như một sự thật hiển nhiên. Anh chộp lấy bút và tô đậm chữ cái đầu tiên của mỗi câu:
Save me, Dad!
Change your testimony, please!
And well be together again.
Right, Dad?
Theo đúng thứ tự, các chữ in hoa tạo thành một từ gồm bốn chữ cái: SCAR
Tiếng Anh nghĩa là “Sẹo”…