Đọc truyện Charlie Bone và lâu đài gương (Tập 4) – Chương 15
CHIẾC ÁO CHÙNG BỊ PHÙ PHÉP
“Cái gì! Hoàng hậu?!”
Manfred bước lui lại để tránh cái phun phì phì của ông cố. Tuy thế, vẫn có một bãi rớt xuống ngay trên đôi giày đã được đánh xi bóng láng của hắn. Asa đứng khúm núm bên cạnh, đang cố gắng nén tiếng cười khúc khích.
Việc này đang khiến cho ngày thứ hai của Manfred càng thêm tồi tệ. Ngày cuối tuần đã quá đủ khi cái thằng Billy Raven trốn thoát khỏi tòa nhà và vụ tai nạn chết người. Đó là chưa đề cập đến sự thất bại của lời nguyền và việc Florence phát điên. Tiếng thét của nó, khi chúng phải nhốt nó vào trong căn phòng lạnh lẽo, vẫn còn văng vẳng bên tai của hắn. Hi vọng là bây giờ nó đã tỉnh trí lại.
Và trên tất cả những điều xui xẻo này, Asa lại bò vào với cái tin là cuộc thí nghiệm vĩ đại đã không thành công theo hướng mà chúng nghĩ. Thay vì trả lại sự sống cho một con ngựa chiến với trái tim độc ác, hung bạo thì lại là một con ngựa trắng với trái tim của bà hoàng hậu nhân ái.
“Hãy nhìn theo hướng tích cực hơn, ông à,” Manfred nói, cẩn thận chùi sạch cái bãi gớm ghiếc trên chiếc giày bên trái bằng mũi giày bên phải. “dù sao nó cũng đã thành công.”
“Tao không muốn bà hoàng hậu!” Ezekiel hét lên. “tao muốn Borlath.”
“Vâng, ông đã có hoàng hậu,” Manfred nói một cách dửng dưng “hay là Charlie Bone đã có bà ấy và bây giờ nó đang cùng Billy trên đường đến lâu đài bằng gương”
“Đang trên đường đến.” Asa lặp lại, trông nó có vẻ tự mãn.
“Đó là lỗi của mày,” Ezekiel lên giọng, chỉ một ngón tay xương xẩu vào Asa. “mày đã tìm thấy tấm bia mộ và mày đã mang cho ta trái tim.”
“Nhưng tôi đâu biết nó là của ai,” Asa khịt mũi. “chỉ có một chữ “B” trên tấm bia. Chẳng có ai nói cho tôi biết hoàng hậu được gọi là Berenice.”
“Trời ơi!” Ezekiel gầm gừ.
Asa trở nên dũng cảm. “tôi đã làm tốt,” nó khăng khăng. “tôi đã theo dấu Palton Yewbeam, và tôi đã tìm ra Crowquill. Tôi đã trải qua nhiều giờ ẩn mình trong khu vườn rác rưởi bẩn thỉu của nhà Silk, và rồi ngồi mai phục trong khu rừng ẩm ướt, bây giờ xương cốt tôi đau nhức kinh khủng. Nếu không có tôi, ông sẽ không biết Billy đã đi đâu, đúng không?”
“Được rồi!’ Ezekiel gào lên. “đi nghỉ đi”
“Tôi không muốn nghỉ,” Asa lẩm bẩm một cách cáu kỉnh “tôi chỉ muốn được công nhận.”
“Mày đã được công nhận,” Manfred thúc vào sườn Asa.
“Chúng đã đi quá xa rồi,” Ezekiel lại gầm lên. “cả bọn chúng nó. Lysander , Torrson, Gabriel Silk – phải dừng chuyện này lại ngay. Gọi đứa con trai nhà Tilpin lại đây.”
“Joshua ?” Manfred nhướng mày. “nó thì có thể làm gì?”
“Mày sẽ ngạc nhiên đấy, Manfred ,” ông cố hắn bảo. “Nhưng mày sẽ sớm biết thôi. Còn bây giờ thì biến đi, cả hai đứa chúng mày.”
Manfred phản đối việc bị đối xử như một đứa trẻ. Hắn xứng đáng được đối xử tốt hơn. Với nét mặt sa sầm, hắn dậm chân qua những hành lang và những dãy cầu thang dẫn đến phòng của ông cố trong khi Asa không ngừng lải nhải.
“Ông ấy muốn Tilpin làm gì cơ chứ?” Asa phàn nàn, “nó không thể làm được gì. Nó quá nhỏ, và chẳng có kinh nghiệm gì.”
“Chúng ta biết là nó có từ tính,” Manfred đáp lại. “tao nghĩ là nó tùy thuộc vào việc nó làm gì với khả năng ấy. Cũng có thể thú vị lắm đấy.”
“Hừm!” Asa khịt mũi.
Manfred bắt được Joshua khi nó đang đi ra khỏi căn phòng để áo khoác màu xanh lá cây. Giờ luyện tập đã kết thúc và bọn trẻ đang đi đến giờ học đầu tiên của bọn chúng.
“Ông Ezekiel muốn gặp mày,” Manfred nói, chụp lấy vai của đứa bé.
“Ủa?” Joshua tặng cho Manfred một nụ cười với bộ răng thưa dị thường, và một lần nữa Manfred cảm thấy một cảm giác râm ran khó chịu khiến hắn đáp trả lại nụ cười của Joshua mặc dù chỉ vài phút trước cười là điều cuối cùng trong suy nghĩ của hắn.
“Em có biết phòng của ông Ezekiel ở đâu không?” Manfred hỏi một cách tử tế.
“Vâng, thưa thầy. Ở chái tây, ngay trên cùng.”
“Tốt lắm chú bé. Đi ngay đi. Tốt hơn là nhanh lên.”
“Vâng thưa thầy.”
Thật là hết sức hài lòng khi được gọi là “thầy”. Manfred mang nụ cười trên mỗi bước đi của hắn ngang qua hội trường lớn, nhưng nó đột ngột tắt ngấm khi hắn trượt chân lên một miếng vỏ táo và suýt nữa thì té xuống.
“AAAAAAaaaaaaa!” Manfred hét lên.
Hội trường bây giờ vắng lặng ngoại trừ giáo sư Saltweather , người đang bước chậm rãi xuống cầu thang chính với một tờ báo dưới nách, vẻ mặt sầu muộn.
“Lại là đứa con gái Vertigo đó,” Manfred hét lên với giáo sư Saltweather . “Nó bỏ vỏ táo khắp nơi. Phải làm điều gì đó đi chứ.”
“Không phải khoa của tôi,” giáo sư Saltweather lầm bầm, “tôi phụ trách âm nhạc” rồi thơ thẩn đi mất trông có vẻ xúc động hơn bao giờ hết.
Manfred rên lên một cách cáu kỉnh và đi về phía văn phòng của hắn.
Giáo sư Saltweather bây giờ đang đi xuống hành lang nơi có những bức chân dung. Ông rất lo lắng, ông đã quên mất mình đang định đi đâu. Tờ báo của ông có đăng một bản báo cáo chưa được làm sáng tỏ. Hai người đã biến mất khỏi một thị trấn nhỏ ở phía đông bắc. Thường thường những loại thông tin này sẽ gây cho ông một mối quan tâm lo lắng; ông có một trái tim nhân hậu và thậm chí sự không may của những con người hoàn toàn xa lạ cũng ảnh hưởng đến ông. Nhưng bản tin ngày hôm nay thì rắc rối hơn cả.
Hai người đàn ông đang được nói đến một là hiệu trưởng tên là Tantalus Wright và một người đưa thư tên là Vincent Ebony. Điều này có vẻ như chỉ là một sự trùng hợp, tất nhiên, nhưng chính thói quen kì lạ của những người đàn ông này đã khiến cho giáo sư Saltweather cảm thấy sự biến mất của bọn họ có vẻ như là một tai họa chứ không chỉ là sự ngẫu nhiên. Môn học của người hiệu trưởng là lịch sử trung cổ và ông ta bị một chứng bệnh gọi là rối loạn giấc ngủ. Nói cách khác, ông ngủ gục mà không có báo hiệu gì, ở những nơi khác thường nhất, khiến cho bọn học sinh của người đàn ông không may này có rất nhiều trò đùa vui vẻ.
Giáo sư Saltweather mở tờ báo và đọc lại mẩu tin ngắn ở trang sau. “ông Vincent Ebony là một người đàn ông vui vẻ rất có óc hài hước. Ông ta dễ dàng cười với những câu chuyện đùa ngu ngốc nhất và thường bị bắt gặp là đang hát bài Gershwins Bess You Is My Woman Now. Vợ của ông, Bess, đang quá đau buồn nên không thể trả lời phỏng vấn.
Cả hai người đàn ông đều biến mất vào cuối tháng tám gần thị trấn nhỏ Yorwynde. Tantalus Wright, một người say mê đi bộ để luyện tập đã không bao giờ trở về từ cuộc đi bộ hôm chủ nhật, và chiếc xe tải của Vincent Ebony đã được tìm thấy đang nằm chỏng chơ ở cạnh bìa rừng. Không có dấu vết gì của người đàn ông đưa thư. Hai người đàn ông đã bị mất tích 3 tuần rồi.
“không thể nào! Làm sao có thể như thế đươc? Hai trong một? Hai trong một?” ông khẽ lắc đầu. ông không thể thảo luận vấn đề với hiệu trưởng, bởi vì chính ông Bloor đã khăng khăng bổ nhiệm Tantalus Ebony. Thật khó mà biết được chính xác ai là ai – hay ai là cái gì – trong cái học viện Bloor này.
“Chào buổi sáng!” bà đầu bếp quẹt qua giáo sư Saltweather trong bóng tối khu hành lang. “Ông gặp rắc rối à, giáo sư.”
“Vâng.” Giáo sư Saltweather quay lại và trông thấy bà bếp đang vội vã lên hành lang. ông nhận ra rằng bà chính là người mà ông có thể trông cậy vào. Ông không chút nghi ngờ là bà bếp ở bên phe “bên này”, mặc dù ông cũng không hiểu mình nghĩ vậy là có ý gì.
“bà bếp!” ông gọi khẽ “tôi có thể nói chuyện với bà một chút được không?”
Bà bếp nhìn quanh, ngạc nhiên vì cái giọng điệu bí mật của ông. “Tất nhiên rồi, giáo sư.” Bà bước về phía ông.
Giáo sư Saltweather trải trang báo đằng sau ra và đưa nó về phía bà đầu bếp, chỉ tay vào một cột báo nhỏ gần cuối. “bà nghĩ gì về cái này?”
Bà bếp lướt nhanh qua bài báo và há hốc mồm. “tôi nghĩ gì à?” bà kêu lên một cách khiếp sợ. “tôi nghĩ nó là một vấn đề, giáo sư Saltweather . Một vấn đề tệ hại, đặc biệt là đối với một số người trong thành phố này.”
“Như ai?” người giáo sư hỏi.
“Như Charlie Bone và ông cậu của nó,” bà bếp bảo.
“À.” Giáo sư Saltweather sờ cằm. “Charlie không có trong buổi luyện tập ngày hôm nay cả Billy Raven cũng vậy.”
“Tôi đã có tin tức về nó,” bà bếp nói, “nhưng cái này – bà đập nhẹ vào tờ báo – điều này cực kỳ nguy hiểm. tôi phải gọi điện thoại ngay bây giờ.”
“Nhưng bà bếp này, làm sao nó có thể như vậy được?” Giáo sư Saltweather nói, trông càng bối rối hơn bao giờ hết. “hai người trong một. Làm sao có thể xảy ra?”
“Hãy tin tôi, nó có thể làm được thứ đó,” bà bếp nói, vội vã quay trở lại hướng mà từ đó bà đến.
“Nó?” giáo sư Saltweather gọi với theo.
“Vâng, chính nó.” Bà bếp vừa đáp vừa chạy nhanh hơn nữa. “Tôi sẽ giải thích vào lúc khác. Còn bây giờ, tôi phải gọi điện đã. Cám ơn ông, giáo sư, cám ơn ông rất nhiều. Chúng tôi có mọi lý do để biết ơn về thông tin này.” Giọng bà tan loãng ra khi bà khuất dạng qua một góc tối.
Giáo sư Saltweather chợt nhớ ra là mình phải có mặt tại cuộc họp ở căn phòng Gió với ông Paltry và Tantalus Ebony. Ông đã trễ cuộc họp, nhưng khi ông bước vào, Tantalus không có ở đó.
“Ông ta không có ở trong trường,” ông Paltry vừa nói, vừa xỉa răng bằng một que diêm. “Ông thấy không? Ông ta không có trong phòng họp.”
“Không. Không, tôi không để ý.” Giáo sư Saltweather cảm thấy mình thật là lố bịch, hoang mang và lẫn lộn lên hết cả. “tôi mong là ông không hút thuốc,” ông nói. “nó tạo nên một tấm gương xấu.”
“Tôi đâu có hút.” Ông Paltry đút que diêm vào túi.
“Tôi có thể ngửi thấy mùi thuốc lá, Reginald.” Giáo sư Saltweather nói.
Và ông ta phác một cử chỉ cáu kỉnh. “Chúng ta nên tiến hành cuộc họp mà không có ông Ebony.”
***
Bà bếp chạy không kịp thở vào nhà bếp và nhấc ống nghe được đặt trên tường đằng sau cánh cửa tự động. Các nhân viên nhà bếp đang tán gẫu với nhau ở phía sau và bà chẳng phải lo lắng gì về vấn đề bị nghe trộm cả. Bà nhanh chóng quay số và lắng nghe tiếng chuông điện thoại vang lên ở căn số 9 đường Filbert.
“A lô.” Một giọng nói cáu kỉnh vang lên.
Bà bếp trầm giọng xuống, giả giọng như một người đàn ông già, nói, “tôi muốn nói chuyện với ông Palton Yewbeam .”
“Ông ta không có ở đây,” bà nội Bone nói.
“Bà Jones cũng được.”bà bếp nói.
“Chuyện này là sao?” bà nội Bone hỏi gặng.
“À… ờ… là chuyện giặt đồ…”
“Cái gì? Không phải là cái áo đẹp nhất của ta chứ? Cái áo màu đen với cổ bằng nhung.” Bà hét to đến nỗi bà bếp phải đưa ống nghe ra xa.
“Không, không. Cái đang được nói đến màu đỏ và…”
“Maisie, điện thoại này! Có chuyện gì với quần áo của bà đấy.” ống nghe được đặt xuống bàn và bà bếp nghe tiếng bước chân xa dần trên nền nhà lát gạch. Một lúc sau, giọng của ngoại Maisie lo lắng vang lên, “a lô? Có chuyện gì vậy?”
“Bà Maisie tôi đây, bà bếp đây. Đừng nói gì cả,” bà bếp trở lại giọng bình thường. “tôi muốn nói chuyện với ông Palton Yewbeam nhưng có vẻ như ông ấy đã ra ngoài.”
“Không chỉ là ra ngoài đâu.” Ngoại Maisie hạ thấp giọng, “ông ấy đã đi đâu rồi. Amy và tôi rất lo lắng. Ông ấy nhận được tin từ Charlie rồi ông ấy và…và bà biết đấy ông Crowquill cũng đi rất sớm sáng này.”
“Ôi trời ơi.” Bà bếp chẳng còn biết phải làm sao với tình huống này nữa. “và bà có biết họ đi đâu không?”
Ngoại Maisie che miệng lại ngay trên ống nghe rồi thì thầm, “lâu đài gương!”
“Càng ngày càng tồi tệ. Tôi sợ là có ai đó cũng đang trên đường tới đó rồi. Bà có cách nào liên lạc với ông Palton Yewbeam không?”
“Không,” ngoại Maisie nói. “ông ấy đã để điện thoại di động ở nhà.”
Một giọng nói ngay bên cạnh ngoại Maisie vang lên. “Tại sao bà lại thì thầm với người ở tiệm giặt vậy?”
“Đâu có. Tôi bị mất giọng. Có chuyện xảy ra với cái áo len màu đỏ.” Giọng của ngoại Maisie loáng thoáng trong điện thoại nhưng đột nhiên nó trở nên rõ ràng. “Cám ơn vì đã báo tin cho tôi,” bà nói với bà bếp. “Tôi sẽ đến đó để lấy những gì còn sót lại của nó. Tạm biệt”
Bà bếp đặt ống nghe xuống. “Chẳng làm được gì cả.” bà lầm bầm.
“Làm được rất nhiều ấy chứ.” Một trong những người phụ bếp vấp vào bà với một cái khay bánh bị cháy. “Chúng ta sẽ phải nướng thêm nữa.”
“Cậu mới là người phải nướng,” bà bếp làu bàu, “Tôi đâu có làm cháy nó.”
***
Mỗi phút trôi qua, Fidelio Gunn càng trở nên lo lắng. Gabriel đã thì thầm vào tai nó điều gì đó trong phòng họp nhưng nó hầu như không thể nghe ra là cái gì. Tất cả những từ nó nghe chỉ là, “Charlie… một tòa lâu đài… và Billy Raven.” Fidelio không thể tưởng tượng được điều gì đã xảy ra cho Charlie. Nó không tin là bạn nó lại đi đâu mà không báo cho nó biết.
“Fidelio, em đang không tập trung kìa,” cô Chrystal, người đang đệm đàn với nó, nói.
Fidelio hạ thấp cây đàn violon và nghiên cứu những nốt nhạc đặt trên một cái trụ đứng trước mặt. “Xin lỗi cô.”
“có chuyện gì vậy?” cô Chrystal đu đưa trên cái ghế. “em đã chơi rất tốt bản nhạc này tuần rồi mà.”
Cô Chrystal là một giáo viên còn rất trẻ. Cô có một mái tóc vàng óng và những đặc điểm xinh đẹp mời gọi bọn trẻ phải tin tưởng vào cô. Cô biết giữ những bí mật và chưa bao giờ phản bội lòng tin của chúng.
“Em đang lo lắng cho người bạn thân của em,” Fidelio thốt lên.
“Charlie Bone?”
“Vâng. Nó không đến trường và em không biết chuyện gì đã xảy ra cho nó.”
“Giáo sư Saltweather có thể nghe ngóng được điều gì đó. Cô sẽ cho em biết những gì cô đã điều tra được trong giờ nghỉ trưa nhé?” cô chỉ mỉm cười khích lệ.
“Vâng, cám ơn cô, cô Chrystal.” Fidelio sửa lại cây đàn dưới cằm và bắt đầu chơi lại bản nhạc.
Tiết học vẫn không thành công, và ngay khi chuông vừa reo lên, nó lao ra ngoài và vọt vào phòng để áo khoác để treo áo choàng của mình. Nó vừa định đi ra ngoài thì thấy Dorcas Loom đang tiến đến cánh cửa của lớp âm nhạc. nó đang mang một cái áo choàng màu xanh da trời cuộn lại bên dưới cánh tay.
Nó cảm thấy nghi ngờ. “Của ai đó, Dorcas?” nó hỏi.
Dorcas hơi giật mình. “Ồ, của thầy Pilgrim.” Nó nói, lúc này đã lấy lại bình tĩnh. “tao tìm thấy trong thư viện nên mang nó đến phòng âm nhạc.”
“Nhưng thầy Pilgrim đã để nó lại.”
Dorcas nhún vai. “thế thì sao?”
“Thế thì…” Fidelio ngập ngừng. Vẻ xảo quyệt của Dorcas khiến nó bực mình. Dorcas đã có tiếng tăm về những thứ quần áo phù thủy. Liệu nó có xía vào chuyện cái áo chùng màu xanh da trời?
“Không có gì.” Fidelio bước ra khu vườn.
Gabriel không thấy đâu, nhưng Fidelio phát hiện Tancred đang nói chuyện với đứa con trai mới đến Joshua Tilpin. Fidelio chạy đến chỗ chúng. “Tancred, mình có thể nói chuyện riêng với bồ được không?” nó liếc thằng Joshua.
Tancred vỗ vai Joshua và bảo, “thôi đi đi. Josh. Cám ơn vì đã tìm thấy cuốn sách đó nhé.”
Joshua tươi cười bảo Tancred . “Bất cứ khi nào anh cần, anh Tancred. Gặp lại anh sau.” Đứa bé bỏ đi, hai cái chân nó nhỏ tới nỗi trông như chúng khó có thể mang trên mình ngay cả một con chim chứ đừng nói đến một thân người.
“Nó kì dị quá nhỉ.” Fidelio nhận xét một cách vui vẻ.
“Không có gì,” Tancred nói. “Thằng nhóc đó được đấy, rất có ích.”
Fidelio chuyển đề tài. “Mình tự hỏi không biết bồ có biết chuyện gì đã xảy ra cho Charlie?”
“Tất nhiên là mình biết. đi dạo một chút nào.”
Fidelio theo Tancred đến bức tường bao quanh lâu đài, nơi đó chúng trông thấy Emma và Olivia đang ngồi trên một đống gỗ. Olivia có vẻ như có một nguồn cung cấp táo vô tận, bởi vì nó đang ngồi ở đó, tiếp tục gọt táo với một con dao bạc mà nó mang theo khắp nơi. Emma đang cau mày nhìn nó.
“Hai đứa này đều biết chuyện gì xảy ra.” Tancred nói, rồi ngồi xuống trên đống gỗ bên dưới.
“Coi bộ mình luôn là người cuối cùng được biết mọi chuyện.” Fidelio ngồi xuống trên một đống gỗ lưng chừng.
“Đó là tại vì anh không được ban phép thuật,” Olivia nói , “cả em cũng vậy. Và em cũng chẳng thích vậy.”
Fidelio phớt lờ con bé. “Tancred , nói cho mình biết đi, Charlie đã đi đâu?”
Tancred hít một hơi dài. “Nó bắt đầu vào buổi sáng chủ nhật khi Billy Raven trốn khỏi nhà cha mẹ mới của nó.” Rồi nó bắt đầu kể cho Fidelio mọi chuyện.
“Phù!” Fidelio liếc nhìn vào những bức tường thành màu đỏ to lớn. “Thì ra tất cả những thứ lộn xộn đó xảy ra là vì vậy đó hả? nó đánh thức mình dậy. Chó sửa, xe hơi bấm còi ầm ĩ còn cảnh sát thì báo động, lại thêm sấm chớp nữa – đó là bồ à?” nó nói với Tancred .
“Tội lỗi, tội lỗi!” Tancred giơ tay lên cười nhăn nhở. “Nhưng Sander đã cứu nguy. Nếu không có cậu ấy, mình không nghĩ là mình còn ở đây.”
Chúng có thể thấy Lysander đang cãi nhau với Asa Pilgrimke ở phía bên kia của sân chơi, và Tancred nói, “Asa đang trả thù Sander hôm nay. Đầu tiên nó nói cà vạt của Sander không thẳng, rồi nó bảo cậu ấy quá ồn ào trong khi cậu ấy không hề nhúc nhích, và bây giờ thì nhìn nó kìa.”
“Em cảm thấy ngày hôm nay thật là tệ,” Emma nói lặng lẽ.
Fidelio hiểu ý nó nói gì. Có lẽ phải làm điều gì đó về sự vắng mặt của Charlie . “lâu đài gương là cái gì?” nó hỏi.
“Cô của em biết về nó qua một cuốn sách,” Emma nói. “hằng trăm năm trước, một trong những đứa con của vua Đỏ đã đốt cháy tòa lâu đài với gia đình của người anh mình vẫn còn bên trong. Nhưng một người trong số họ đã trốn thoát và đó chính là tổ tiên của Billy. Các bức tường của tòa lâu đài đã biến thành gương. Hãy tưởng tượng đi.”
“Và Charlie nghĩ là nó có thể tìm thấy cha mình ở đó.” Tancred thêm vào.
Olivia chợt nhảy lên và quăng trái táo vào bụi rậm, “mình ước gì Charlie có ở đây,” nó nói.
Fidelio cũng cảm thấy như vậy.
Đêm đó, nhiệt độ trong phòng nhà vua lạnh lẽo một cách rõ rệt. Lạnh thấu xương tủy và Emma đã không thể ngừng run rẩy. Con bé rung mạnh đến nỗi cây bút rớt ra khỏi tay nó. Lần thứ ba nó làm rơi cây bút, cây bút lăn qua cái bàn và Emma chắc chắn là Inez và Idith đã hút nó. Hai đứa sinh đôi cứ nhìn trừng trừng vào Emma với đôi mắt xanh như những con búp bê bằng sứ, và nó cảm thấy thật là khó mà tập trung.
Joshua Tilpin đã chiếm lấy cái ghế trống của Charlie bên cạnh Emma, và thằng bé nhoài người qua bàn, nhặt lấy cây bút rồi đưa trả lại cho nó. Thằng bé cười với Emma bằng một nụ cười như kim châm cho tới khi nó bị bắt buộc phải cười lại. Nhưng cười thôi chưa đủ, thằng bé muốn nó phải bay. Emma đột nhiên tưởng tượng cảnh mình biến thành một con chim ưng to lớn, sà xuống trên các bạn của mình, tấn công vào đầu, vào tay họ… Nhưng làm sao Emma có thể làm cái chuyện khủng khiếp đó được? Nó quay đi tránh cái nhìn của Joshua. Thằng bé gây cho Emma một cảm giác sợ hãi.
Gabriel lúc này đang ngồi đối diện với Emma, thì thầm, “bạn ổn chứ, Emma?”
Emma gật đầu.
“Im lặng!” Manfred nói. “không được thì thầm.”
Inez và idith chuyển cái nhìn lạnh lẽo sang Gabriel, con mắt vàng của Asa sắt lại và Dorcas Loom nở một nụ cười bí hiểm.
Emma liếc dọc theo dãy bàn bên cạnh nó. Gabriel, Tancred, và Lysander đang cúi xuống trên những trang sách của mình. Chúng cau mày một cách buồn rầu càng khiến Emma cảm thấy cực kỳ khó chịu.
Khi bài tập về nhà kết thúc, những đứa trẻ được ban phép thuật bắt đầu ra ào ra khỏi phòng với Manfred dẫn đầu. Emma đang đợi Gabriel, lúc này đang tốn nhiều thời gian hơn bình thường để thu xếp sách vở. Điều này cũng xảy ra đối với Tancred và Lysander . Sách rơi, những thứ khác thì không đóng lại được. Bút lăn đi và giấy phất phơ bay khỏi tay chúng.
“Có cái gì đó không ổn.” Emma nói.
“Chính thế,” Lysander rên rỉ.
“Chúng đông hơn,” Gabriel nói . “Bốn chọi năm, hay sáu, nếu tính luôn Manfred .”
Cuối cùng ba đứa con trai cũng thu dọn lại được mọi thứ, và Emma đi theo chúng đến phòng ngủ tập thể. Khi chúng đang đi băng qua hành lang, Gabriel tách ra khỏi nhóm và bắt đầu chạy xuống hội trường.
“Đi đâu vậy, Gabe?” Lysander gọi . “Manfred sẽ bắt em đấy.”
“Em được phép có nửa tiếng thực hành trong tòa âm nhạc,” Gabriel nói . “Ông Ebony đã đặc biệt cho phép em vào ngày thứ sáu.” Nó lôi một tờ giấy trong túi ra. “Cho nên Manfred sẽ phải chịu thua thôi.”
Tuy đều nở nụ cười nhưng cả ba đứa đều cảm thấy một nỗi băn khoăn không thể giải thích được khi chúng trông theo Gabriel băng qua hội trường vào tòa tháp âm nhạc.
Gabriel cũng có cảm giác ngăn cấm, nhưng nó rất yêu thích thực hành trên cây đại dương cầm, và cảm giác đó hoàn toàn chính xác bởi vì nó đã cảm thấy lo lắng quá đến nỗi nó không thể đợi để lỡ mất cơ hội cho âm nhạc được.
Phải leo lên khá nhiều bậc thang để lên đến tòa tháp, và khi Gabriel tới được phòng âm nhạc, nó phải ngồi xuống ghế để điều hòa hơi thở. Khi nó nhấc nắp đàn piano lên, nó để ý thấy một cái áo choàng màu xanh da trời vắt trên ghế bên cạnh cửa sổ. Tất nhiên nó là của ông Pilgrim. Gabriel đã luôn luôn gắn kết với ông Pilgrim. Người giáo viên kì lạ này là một người chơi đàn thiên tài và mặc dù rất ít khi ông đưa ra lời bình luận nào nhưng Gabriel vẫn cảm nhận được sự nhiệt thành của ông.
Người giáo viên dạy piano đang ở đâu? Điều gì đã xảy đến cho ông ấy? Gabriel ít khi sử dụng phép thuật của mình. Nó có thể ảnh hưởng rất tệ đến Gabriel nếu nó mang vật dụng của ai đó mà đã phải chịu nhiều đau đớn, buồn khổ. Nhưng lần này sự tò mò đã thắng, nó cảm thấy bị lôi cuốn phải khoác cái áo choàng kia lên.
Ngay khi nó trùm cái mũ qua đầu, hiện thực bắt đầu mờ đi và Gabriel bị tống vào một nơi tối tăm sâu thẳm và khủng khiếp đến độ nó không thể nào thoát khỏi. Nó cố gắng giật cái mũ trùm đi nhưng hai tay nó đã trở nên vô dụng và nó bị bắt phải chịu đựng cái điều khủng khiếp ấy cho tới khi bất tỉnh trên nền nhà.