Charlie Bone và Hiệp sĩ đỏ (Tập 8)

Chương 7phần 2


Đọc truyện Charlie Bone và Hiệp sĩ đỏ (Tập 8) – Chương 7: phần 2

“Rất vui lòng mà, Orvil.” Bác Silk đi vô chỗ ngồi bên tay lái và đóng cửa lại trong khi ông Onimous leo lên ngồi cạnh vợ.
Bất thình lình, người đàn ông nhỏ bé lại nhảy ra khỏi xe và chạy đến chỗ Charlie. “Giữ cái này giùm ta,” ông nói, ấn một chiếc chìa khóa nhỏ bằng vàng vô lòng bàn tay Charlie. “Cháu biết nó dùng để làm gì rồi.” Ông nháy mắt với Charlie và chạy trở lại chiếc xe. Bác Silk nhấn còi một tiếng, chiếc xe lạch xạch lăn bánh trên con hẻm rồi quẹo vô đường Đồi Cao.
“Cái đó để làm gì vậy?” Gabriel hỏi khi Charlie đút chiếc đùa khóa vô túi quần.
“Nó dùng để mở cánh cửa đi vô đường hầm lâu đài,” Charlie nói khẽ.
Gabriel và Benjamin nhìn nó như thể chúng mong chờ nó nói thêm nữa.
“Nó sẽ có ích vào lúc nào đó,” Charlie nhún vai.
“Gia đình Onimous sẽ đến sống với nhà anh à?” Benjamin hỏi Gabriel.
Gabriel gật đầu. “Sẽ phải chen chúc một tí vậy, các chị của tôi sẽ không vui về việc này đâu, bởi vì tất cả họ phải ngủ chung. Nhưng gia đình ông Onimous đáng thương còn biết đi về đâu nữa? Nhà tôi có một khu chuồng gia súc khô ráo để chất đồ đạc của họ, còn lại một số sẽ cất trong nhà chuột của tôi, một lượng nhỏ thôi. Nhưng nhà tôi không thể chứa hết cả bàn và ghế của quán cà phê. Chúng đã bị mang đi rồi.”
“Em ước gì em có thể mời gia đình Onimous đến sống với em ” Benjamin rầu rĩ nói. “Bà Onimous làm đồ ăn cho thú cưng mê ly luôn.”
Vừa lúc đó tên thi hành án và trợ tá của hắn bước ra khỏi quán, đóng sầm cửa lại đằng sau chúng. Tên thi hành án rút ra một chùm chìa khóa, cẩn thận chọn ra một chiếc và khóa cửa lại. Hắn xoa hai bàn tay vào nhau, tuyên bố, “Xong!”
Khi hai gã đàn ông đi sượt qua chỗ bọn con trai đang đứng, tên áo lưới nói, “Coi bộ trời sắp mưa, bọn nhóc. Hy vọng cái đồ này không ướt!” Hắn xỉa ngón tay cái tới chiếc giường. “Có thể bị hư.”
Lũ con trai giương mắt nhìn hắn và sau đó, khi hai gã đàn ông bước ngược con hẻm, Charlie lẩm bẩm. “Nghĩ coi, trông tưởng hắn nam tính trong cái áo lưới đó chứ, nhưng em có thể nhìn thấy da gà nổi hột trên cánh tay hắn.”

Gã áo lưới dừng bước, quay nhìn lại với vẻ hầm hè trên nét mặt. Hạt Đậu phọt ra một tiếng sủa gằn trong cổ họng nổi đình đám của chú và gã đàn ông vội tếch theo đồng bọn của hắn.
“Hôm nay là một ngày kinh khủng, kinh khủng,” Benjamin rên rỉ ngay khi bọn kia đi khuất mắt.
“Bồ nói ngay chóc đấy,” Charlie tán thành.
“Ý mình còn tệ hơn cả kinh khủng nữa,” Benjamin la to, và nó kể cho cả bọn nghe về quán Cà phê Không Thú Kiểng, về hai chị em sinh đôi ớn lạnh và cái thang biết bay.
“Tụi Branko đó!” Charlie thốt lên. “Thì ra đó là chỗ bọn chúng sống!”
“Branko?” Benjamin chả hiểu gì.
“Chúng là những kẻ siêu năng,” Charlie giải thích. “Mình chắc chắn mình đã kể cho bồ nghe về chúng rồi mà. Chúng hay chơi trò di chuyển đồ khi tụi này đang chăm chú làm bài tập về nhà: sách, viết chì, đồ đạc. Có lần chúng đã kéo đổ một bức tường và suýt nữa thì chôn vùi tớ. Chúng là nô lệ của Manfred.”
Benjamin lại càng sung sướng hơn là nó không phải đi học ở trường của Charlie.
“Tôi cá là Manfred đã sắp đặt cho gia đình Branko phải làm như vậy,” Gabriel bực bội. “Ý tôi là, khi gọi là quán Cà phê Không Thú Kiểng thì giống như một cái tát vô mặt vậy, đúng không, khi mà hắn biết quán cà phê Thú Kiểng là quán yêu thích của tụi mình?”
“Coi kìa!” Charlie bất thần chỉ lên mái ngói xô nghiêng của quán cà phê. Ba con mèo sáng rực đã xuất hiện trên nóc. Sư Tử, con mèo cam đứng trên đỉnh chóp, hai con kia đứng hai bên nó.
“Chúng mất nhà của chúng rồi,” Gabriel âu sầu.

“Không phải, chúng là những kẻ lang thang,” Charlie bảo. “Nhà của chúng là khắp mọi nơi, không nơi nào cả. Em nghĩ chúng đang canh gác nơi này.”
“Còn gì nữa mà canh gác,” Gabriel nói.
“Có một đường hầm bí mật ở bên dưới bức tường dẫn tới lâu đài,” Charlie nhắc nhở cậu. “Và em cá là chút xíu nữa bọn thi hành án sẽ trở lại đây để tìm nó cho mà xem. Gia đình Bloor luôn muốn tìm ra nó, và bây giờ là cơ hội của chúng. Ba em giấu một vật rất, rất quý, một vật mà lão Ezekiel thèm muốn, và giờ em tự hỏi ba có giấu nó ở cuối đường hầm đó không.
Gabriel và Benjamin nhìn chằm chặp vô Charlie với vẻ khó hiểu hằn trên trán và Charlie nhận ra mình phải kể nhiều hơn một chút. “Có một cái hộp,” nó tiếp, “ông cậu của em kể cho em về nó. Ông nghĩ rằng có một bản di chúc ở trong đó, một bản di chúc chứng minh rằng Billy Raven đáng lý ra phải được thừa kế Học viện Bloor và tất cả số tiền mà gia đình Bloor đã tẩu tán.”
“Wow!” Benjamin đổ sụp xuống cái khung giường khiến đống lò xo nảy lưng tưng, rên xiết.
Tuy nhiên, Gabriel vẫn nhìn chòng chọc Charlie với cái trán hằn sâu hơn sau mỗi giây.
“Cái gì?” Charlie nói. “Anh không tin em à?”
“Tại sao ngay từ đầu ba của em phải giấu nó đi,” Gabriel hỏi với giọng từ tốn cố ý, “Nếu ba em biết trong đó có một món quan trọng đến vậy?”
“Ba em đã không biết,” Charlie kiên nhẫn. “Chiếc hộp không thể mở được. Chìa khóa đã bị mất. Trước khi cha của Billy chết, chú ấy nhờ ba của em giữ gìn chiếc hộp. Chú ấy không nói trong đó có gì bởi vì chính chú ấy cũng không biết. Sau đó ba của em bị thôi miên, như mọi người đều biết và…” Charlie nhăn nhó – thật khó cho Charlie thừa nhận rằng ba nó vẫn chưa hoàn toàn hồi phục khỏi thử thách lâu dài ba đã phải chịu, và trí nhớ của ba nó vẫn chưa trở lại. Điều đó có nghĩa là Lyell Bone sẽ không bao giờ trở lại là người đàn ông dũng cảm mà một thời đã đối đầu với gia đình Bloor. Charlie thấy điều đó thật khó chấp nhận.
“Và cái gì?” Benjamin nhẹ nhàng thúc ép.
“Ba mình vẫn chưa nhớ hết tất cả mọi thứ đã xảy ra trước đây,” Charlie nói. “Nhưng ba mình sẽ nhớ cho coi,” nó tự tin nói thêm, “khi ba mình đi nghỉ trở về.”

“Dĩ nhiên rồi,” Benjamin nói.
“Nhưng gia đình Bloor không muốn chú ấy nhớ lại,” Gabriel tư lự. “Phải không, Charlie?”
“Đúng,” Charlie công nhận.
Bác Silk phải đi mất hai chuyến mới chở hết đồ đạc của gia đình Onimous lên khu Đồi Cao. Gabriel đi về cùng với ba của anh trong chuyến cuối, Benjamin và Charlie bị bỏ lại trong con hẻm vắng hoe. Chúng buồn bã nhìn quán cà phê im lìm, và khi chúng đi tới đường Đồi Cao, cả hai tha thiết hy vọng sẽ không lâu nữa quán cà phê Thú Kiểng sẽ lại đầy ắp những con thú nhai, nuốt, kêu tóp tép và những người chủ hạnh phúc không kém của chúng.
Ba mẹ Benjamin là những thám tử tư và thường làm việc vào ngày thứ Bảy. Nhưng hôm nay cả hai cô chú đều ở nhà và cô Brown đã hứa với Benjamin là nó sẽ có món thịt cừu với sốt thịt trong bữa trưa. Ngay khi chúng về tới đường Filbert, Benjamin hớn hở chạy về nhà số 12, trong khi Hạt Đậu, kẻ đã ngửi thấy mùi xương hấp dẫn, chạy tong tả bên cạnh cậu chủ.
Bữa trưa của Charlie có món súp cà rốt và phó mát. Nội Bone thậm thụt cả ngày với mấy bà em, Ông cậu Paton đã lại lên đường rong ruổi cho một cuộc hành trình khám phá mới.
“Thu thập tin tức, đó là những gì ông cậu của con nói,” ngoại Maisie bảo Charlie. “Ăn xong con có qua nhà Benjamin không?”
“Có.” Charlie nói dối, mặc dù, đồng thời đó không hẳn là nói dối bởi vì rất có thể nó sẽ tới nhà Benjamin. Chỉ là càng suy nghĩ thêm về việc đó, thì nó càng ngứa ngáy muốn trở lại quán cà phê Thú Kiểng.
Khi giúp ngoại Maisie rửa chén xong, Charlie đi vô phòng nó và làm bài tập về nhà. Đến lúc ba giờ rưỡi, hét um nhà lên “Tạm biệt ngoại Maisie,” nó rời nhà và đi trở lại quán cà phê vắng tanh. Áp sát mặt vô cửa sổ, nó tìm ánh đèn có thể còn sáng bên trong nhà bếp. Nhưng nơi đó tối om và im lặng. Không có gì chuyển động. Charlie khao khát cháy bỏng muốn vô trong quán cà phê, nhưng nó không có chìa khóa và nó đã thấy tên thừa phát lại khóa cửa rồi. Tuy vậy nó vẫn cố thử. Tay nắm cửa có xoay nhưng cánh cửa không nhúc nhích. Charlie tự nhủ mình là thằng ngu – bất cứ ai muốn lục lọi nơi này họ phải đợi cho đến khi đêm xuống. Nhưng đúng lúc đó nó bỗng nghe thấy tiếng những bước chân trong hẻm.
Charlie vọt lẹ ra bên hông quán và ép mình vô trong góc, nơi bức tường quán giáp ranh với bức tường thành cổ. Nó nghe thấy tiếng chìa khóa va vào nhau lách cách. Cánh cửa mở ra rồi đóng lại, Charlie nín thở chờ, và rồi nhón chân đi vòng ra cửa trước của tòa nhà. Nó nhìn qua cửa sổ, nhưng chẳng thấy gì. Thật khẽ hết sức, nó xoay nắm cửa và đẩy. Cánh cửa mở ra. Charlie lẻn vô.
Tiếng những bước chân cọt kẹt phía trên đầu nó. Bất cứ kẻ nào vô quán cà phê đều đang bắt đầu lục soát trên lầu. Charlie có cơ hội đến được chỗ nó muốn trước khi bị ai đó trông thấy. Nó lén đi qua nhà bếp và vô hành lang dài. Nó càng đi sâu thì càng tối và hẹp. Chẳng bao lâu sau sàn nhà lát đá nhường chỗ cho một lối đi bằng đất nện. Và mái trần ốp gạch thấp đến nỗi Charlie có thể sờ những ngón tay vô. Cuối cùng nó tới một căn phòng nhỏ hình tròn nơi ông Onimous trữ thực phẩm cho quán. Những sọt táo, cùng với những bao tải, những cái thùng đựng trà kê tựa vô các bức tường. Có lẽ không bao giờ có kẻ nào tìm thấy nơi này, Charlie nghĩ. Tuy nhiên nó không hy vọng nhiều lắm về điều đó. Kẻ nào nhà họ Bloor đã quyết định lục lọi quán cà phê Thú Kiểng, thì kẻ đó nhất định không từ bỏ cho tới khi chúng đã khám xong từng căn phòng và từng lối đi. Chúng sẽ xê xịch từng bao hàng, từng cái hòm gỗ và cuối cùng chúng sẽ tìm thấy cánh cửa mà Charlie sắp sửa mở đây.
Hự lên một tiếng gắng sức, Charlie bắt dầu đẩy hai cái thùng đựng trà nặng trĩu ra khỏi tường cho tới khi nó làm lộ ra một cánh cửa cổ xưa, cao chưa tới một mét. Ép mình ra sau những thùng đựng trà, Charlie tra chiếc chìa khóa của ông Onimous vô ổ. Tiếng khóa xoay một cái tách nhẹ và cánh cửa kẹt mở ra. Đằng sau cánh cửa là bóng tối đen đặc đến nỗi Charlie chùn lòng. Nó đã vô đường hầm này hai lần rồi, nhưng chưa bao giờ vô đây một mình. Đây là thời gian cho tài phép từ tổ tiên người xứ Wales của nó phát huy tác dụng.
Charlie được thừa hưởng hai dòng phép thuật. Tài đi vô tranh ảnh của nó là hưởng từ Vua Đỏ; và cây đũa phép là từ thầy pháp xứ Wales, Mathonwy. Cây đũa phép giờ là một con bướm trắng – một con bướm có đôi cánh bạc, có thể phát sáng tại nơi tối đen như mực. “Claerwen!” Charlie nói khẽ.

Nghe gọi tên mình, con bướm bò ra từ dưới cổ áo Charlie, nơi cô nàng đang ngủ. Dịch sang tiếng Anh, tên của Claerwen có nghĩa là “ánh sáng trắng”. Cô nàng đã chín trăm tuổi.
Con bướm trắng bay lướt vô đường hầm và Charlie đi theo, cúi đầu khi nó bước qua ô cửa thấp. Trước khi đi sâu vô tiếp, nó đóng cửa lại, hy vọng nó không bị nhìn thấy đằng sau hai thùng đựng trà. Phải chi Charlie khóa cửa luôn, thì chắc hẳn mọi sự sẽ khác đi. Nhưng nó đã quên mất.
Đường hầm nhớp nháp và yếm khí. Mấy lần Charlie trơn té vì mặt đất ướt. Ánh sáng của Claerwen khiến những bức tường ẩm sáng mờ hơi sương. Đường hầm bắt đầu cong quẹo và Charlie phải tì một tay lên tường để giữ thăng bằng. Đi xuống được nửa đường hầm, có một khe nứt dài hiện ra trong tường. Charlie ép người chui qua đó, vô một đường hầm khác, cái này hẹp đến nỗi nó phải lách đi theo chiều ngang. Con bướm nhỏ chao liệng phía trên làm cho nó vững bụng hơn, và sau năm phút dài lê bước nữa, Charlie đi vô một căn phòng kỳ lạ.
Bên ngoài, bầu trời xám đìu hiu, nhưng ở đây tất cả mọi thứ đều tắm đẫm trong ánh nắng mặt trời. Nền nhà lát những ô vuông màu, nhỏ li ti: màu vàng, đỏ và cam; một bức tranh ghép hình mặt trời tỏa sáng. Những bức tường khoe kiến trúc hình vòm màu vàng kim, vẽ những đám mây bạc và những lùm cây lá xum xuê, nơi có những người mặc áo thụng đi dạo cùng nhau, hoặc ngồi nghỉ trên những băng ghế dài bằng đá hoa cương. Và trên trần nhà hình vòm lại có một mặt trời vẽ xuất hiện, nhưng ở chính tâm lại là một vòng tròn mở thẳng ra bầu trời.
Charlie bước quanh chu vi của sàn nhà hình tròn, chạm vô những cây cột chống tại những quãng nghỉ giữa các bức tường vẽ tranh. Nó mong đợi sẽ tìm thấy gì? Một cái hộp gỗ để ngay ngắn đằng sau một cây cột, hay nhét vô giữa những kẽ nứt trong tường? Bởi vì căn phòng này rất đặc biệt. Trước kia nó từng là phòng của Vua Đỏ, biệt lập với thế giới. Bây giờ chỉ một số ít người biết về nó, và Charlie chắc chắn gia đình Bloor không ở trong số đó. Đây quả là một địa điểm cất giấu hoàn hảo.
Charlie sờ vô mặt tường láng; nó quỳ xuống và nghiên cứu kỹ sàn nhà lát gạch, rà bàn tay khắp những ô vuông màu. Nó nheo mắt nhìn lên trần nhà vòng cung và chọc chọc những viên gạch ở chân từng cây cột. Nhưng không có dấu hiệu nào của chiếc hộp. Hay là ba nó đã cất chiếc hộp ở trong lâu đài? Giờ này đã quá trễ để mà lùng sục trong khu đổ nát. Charlie quyết định bỏ cuộc vào lúc này, nhưng khi nó ngó chằm chặp quanh căn phòng sáng rực, nó cảm thấy dấy lên tia hy vọng. Nó tin chắc là nó sẽ tìm thấy chiếc hộp. Có lẽ không phải hôm nay, mà lúc nào đó rất gần thôi. Và Billy sẽ có quyền thừa kế của nó – nếu thằng bé được cứu khỏi xứ Badlock.
Charlie lần trở lại dọc theo lối đi hẹp và bước vô đường hầm. Nó cần phải trở lại lối nó đã đi qua. Nếu nó đi tiếp vô khu đổ nát, nó sẽ bị kẹt ở trong sân trường.
Có ánh sáng của bướm Claerwen dẫn đường, Charlie bắt đầu bước trở lại cánh cửa nhỏ, hy vọng chưa có ai tìm thấy nó. Rẽ một khúc quành trong đường hầm, Charlie đột nhiên thấy mình bị chộp vô vòng sáng của một quầng lửa nhảy nhót.
“À ha!” Một giọng móc mỉa. “Chúng ông có cái gì ở đây? Một thằng bé với một chiếc hộp, không sai.”
Charlie đứng ngây như phỗng tại chỗ. “Tôi không có chiếc hộp,” giọng nó đặc lại vì sợ hãi.
“Không á? Tao thì nghĩ là mày có!” Cái đốm lửa nhún nhảy tiến đến gần hơn, và Charlie có thể thấy bộ mặt nhơn nhơn của gã thi hành án trong quầng sáng lòe nhòe của một cây gậy dài tẩm nhựa.
“Ông đang cầm… cầm… cái gì đó?” Charlie hỏi lạc cả giọng.
“Lửa! Chứ còn cái gì,” gã thi hành án cười lục cục. “Amos Byme tới sưởi ấm cho mày đây, Charlie Bone.”


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.