Đọc truyện Charlie Bone và Hiệp sĩ đỏ (Tập 8) – Chương 3
CHƯƠNG 2: CHÚA TỂ GRIMWALD TÁI XUẤT
Charlie Bone vừa mới ngủ thiếp đi. Giờ đột nhiên nó không còn ngủ được nữa. Có tiếng người lao xao trong mảnh sân gạch bên dưới. Charlie phóng khỏi giường, băng vèo qua phòng ngủ chung tới ngó ra cửa sổ. Có hai người đàn ông đang tiến về phía cánh cổng chính của học viện. Một gã Charlie nhận ra là Norton Cross, tên gác cửa quán cà phê Thú Kiểng. Hắn đang nửa kéo, nửa khiêng một người nhỏ con hơn hắn, đội mũ rộng vành cắm một chiếc lông chim rũ quặt ra sau.
“Khiếp!” Charlie lầm bầm. Nó không thể thấy gương mặt của gã đàn ông bên dưới mũ sùm sụp đó, nhưng tiếng hắn rên rỉ mới kinh khủng làm sao. Charlie mở cửa sổ, chỉ hí hí, để có thể nghe ngóng xem chuyện gì đang diễn ra.
“Suỵt!” Norton rít. “Ngài đánh thức toàn trường dậy bây giờ, thưa ngài.”
Hai gã đàn ông leo lên những bậc thang tới cánh cổng chính và Norton nhấn chuông. Loáng sau, có tiếng loảng xoảng ầm ĩ và một trong hai cánh cổng mở ra. Gã Weedon, gã sai vặt, đứng ở ngưỡng cửa. Đó là một gã to con bặm trợn, đầu trọc lóc, lúc nào cũng đeo bộ mặt nhăn nhó.
“Tôi tưởng ông ta không được ra ngoài chứ,” gã Weedon nói.
“Ngài muốn xem thành phố.” Norton kéo kẻ đồng hành của hắn qua cánh cửa.
“Ông ta bị sao vậy?” Gã Weedon hỏi, quạu quọ dòm thanh gươm lượn rập rềnh qua người gã.
Cánh cửa đóng lại trước khi Charlie có cơ hội nghe lời đáp của Norton. Nhưng sau đó sự chú ý của nó bị lôi kéo về phía phái đoàn thứ hai đang tới. Ba người phụ nữ đi trên lối vào uốn khúc và băng qua mảnh sân gạch. Cái mũi nhọn của mụ Grizelda Bone dẫn đầu. Mụ này là bà nội của Charlie. Mấy bà em của mụ, Eustacia và Venetia, bám theo sát gót. Cả ba đều cao nhẳng, mắt đen hí rị, và lông mày đậm như chổi sể. Tóc nội Bone trắng xóa đến giật mình, tóc mụ Venetia đen, còn tóc mụ Eustacia thì pha trộn giữa hai màu.
Charlie nhìn bọn họ leo lên cầu thang, bà nội của nó hơi chệch choạng trên đôi giày ống cao gót. Khi bà ta nhấn chuông, mụ Eustacia chẳng hiểu sao lại bất giác ngó lên cửa sổ chỗ Charlie đang đứng.
Charlie thụt vô trong bóng tối. Eustacia hay khoe khoang là mụ có tài tiên tri bằng thần giao cách cảm, mặc dù Charlie chả tin tẹo nào. Tài phép của mụ thuộc loại ba hồi thịnh, ba hồi suy. Đêm nay chắc là nó đang tới hồi phát tiết.
Như thế đồng lõa với những sự kiện dưới kia, cánh cửa phòng ngủ chung đột nhiên bật mở và Charlie bị chụp gọn vô tròng ánh sáng từ hàng lang rọi vô. Mụ giám thị, bà em thứ ba của nội Bone, Lucretia, đứng lù lù ở khung cửa, hạch hỏi, “Mày làm gì mà ra khỏi giường hả.”
“È, hít thở chút không khí.” Charlie lí nhí.
“Không khí? Hừ, ở đây có đủ không khí để dộng đầy buồng phổi cho cả ngàn đứa, huống hồ là mười hai thằng.”
“Thế à?” Charlie ngó qua mười một thằng nhỏ đang ngủ đằng sau nó. Không đứa nào thức giấc, dẫu cho mụ giám thị chẳng mảy may cố hạ thấp giọng xuống.
“Trở lại giường!”
Không chờ Charlie tuân lệnh, mụ giám thị đã đóng ập cửa. Tiếng bước chân của mụ rời xa hấp tấp đến nỗi Charlie tưởng tượng chắc chắn mụ đang chạy trên hàng lang. Suốt hai năm ở trong học viện này, nó chưa bao giờ biết là bà cô Lucretia của nó lại chạy. Đêm nay hẳn là mụ đang chạy trốn khỏi cái gì đó rất khó chịu, hoặc là mụ đã trễ một cuộc gặp vô cùng quan trọng.
Ai mà đi triệu tập họp hành vào cái giờ khuya lắc khuya lơ thế này? Chỉ có lão Ezekiel thôi, Charlie kết luận. Ở tuổi một trăm lẻ một, lão Ezekiel chẳng thèm phân biệt ngày và đêm. Buổi sáng lão hay ngủ khò trong chiếc xe lăn, buổi chiều lão đọc mấy thứ sách bùa chú gớm ghiếc. Chỉ đến ban đêm là bộ óc ác hiểm của lão mới thật sự sống dậy, và khi đó thì đau thương sẽ xảy ra với bất kỳ ai không ăn khớp với những kế hoạch của lão.
Charlie đang định đóng cửa sổ lại thì một cái mùi kỳ cục trôi đến chỗ nó: một mùi muối pha lẫn tảo biển lờm lợm cứ lẩn vẩn nơi đầu lưỡi. Lại cái mùi kinh khủng quen thuộc. Ngó xuống mảnh sân gạch nó không ngạc nhiên khi thấy một bóng người kềnh càng hiện ra ở cổng vòm. Kẻ này mặc áo khoác vải dài và mang ủng dài của ngư dân. Hắn di chuyển trên sỏi bằng những sải bước loay xoay quái đản, như thể hắn đang đi trên boong của một con tàu.
Charlie phóng vội trở lại giường. Tuy nhiên trước khi nó leo lên giường, có một tiếng lầm thầm khản đặc từ chiếc giường ngoài chót, cùng hàng giường với nó.
“Cửa sổ. Đóng cửa sổ lại.”
Charlie kéo khăn trải giường trùm kín đầu. Nó hầu như không chịu nổi cái việc nhìn Dagbert Endless, chứ đừng bảo là nói chuyện với thằng ấy. Dagbert vẫn chối đây đẩy về vụ nó đã dìm chết Tancred, nhất mực cho rằng đó chỉ là một tai nạn. Thậm chí cả ông hiệu trưởng cũng tin câu chuyện của nó. Cả trường đều bảo Tancred Torsson vô tình té xuống phòng Điêu khắc và bị chết đuối do nước đổ ra từ một cái vòi hỏng. Charlie thừa biết. Dagbert là kẻ dìm chết người. Thậm chí nó còn hay phô trương tài phép của mình. Thế nhưng cả thằng đó lẫn gia đình Bloor đều không biết rằng Tancred đã được cứu sống. Bạn bè của Tancred dự định cứ để sự việc tiến triển theo cách như thế.
“Cửa sổ. Đóng cửa sổ lại coi.” Lần này giọng nói lớn hơn. Cái mùi tảo biển từ bên ngoài trộn lẫn với mùi cá tanh tưởi bên trong do Dagbert thỉnh thoảng bốc ra.
Charlie bịt mũi lại, vẫn nằm yên.
“ĐÓNG CỬA SỔ LẠI!”
Tiếng quát dựng phân nửa phòng ngủ chung dậy. Vài thằng ngáp ngái ngủ và trở mình nằm úp xuống, nhưng Bragger Brain, thằng du côn lớp trên, ngồi bật dậy, gầm gừ “Đứa nào vừa nói đó?”
“Tao đấy.” Dagbert trả lời bằng giọng ảo não. “Charlie mở cửa sổ ra mà không chịu đóng lại.”
“Đóng cửa sổ lại, Charlie Bone.” Bragger ra lệnh.
Thằng lâu la sốt sắng của Bragger, Rupert Small, nhai lại câu nói của đại ca nó bằng giọng lạo xạo nhớt nhầy, “Đóng cửa sổ lại, Charlie Bone.”
Charlie nín thở. Nó quyết định không tuân lệnh Bragger Breain lẫn thằng bậu xậu đáng khinh kia.
“ĐÓNG CỬA SỔ LẠI.” Dagbert quát.
Tiếng quát lần này dựng cổ Fidelio Gunn đang ngủ trên chiếc giường sát bên giường Charlie dậy. “Thôi đừng lâm ly thống thiết nữa, thằng cá ươn!” Cậu thét, đập đập gối cho nó phồng trở lại. “Để mấy người bình thường ngủ cái coi.”
Trong vòng vài giây, sự im lặng đã thống trị. Charlie mỉm cười thầm trong bóng tối và lẩm bẩm tán dương, “Giỏi lắm, Fido.”
Tiếng lẩm bẩm đó khiến Bragger điên tiết. Nếu giường của nó mà ở sát giường Charlie thì chắc hẳn nó đã uỵch Charlie rồi. Nhưng chúng ở cách xa nhau cả nửa phòng ngủ chung, với lại nguyên cả ngày đánh đấm người khác và làm ngôi sao trên sân bóng đã quay cho Bragger mệt lử rồi. Giờ thằng đó chỉ muốn ngủ yên thôi. Lần tiếp theo Dagbert lặp lại đòi hỏi của nó, Bragger bảo “Mày tự ra mà đóng lấy, thằng cá ươn!”
Charlie chờ Dagbert tuột xuống khỏi giường để ra đóng cửa sổ lại, nhưng thằng người cá không động cựa. Chẳng mấy chốc cả phòng lại chìm trong tiếng thở nhịp nhàng của bọn trẻ ngủ mê mệt. Charlie lật người lên và nhắm mắt lại.
Mấy phút trôi qua. Cố hết sức, Charlie không sao ngủ được. Một luồng ánh sáng nhẹ cứ thúc ép qua mí mắt nó. Nó mở hi hí một mắt ra. Một quầng ánh sáng xanh nhợt, chói lóa gợn dạ quang giống như nước trong hồ bơi. Charlie cố nhắm tịt mắt lại, ráng cầu cho ánh sáng ma quái kia tắt đi. Hiện tượng này thường xảy ra mỗi khi Dagbert lo sợ hoặc phấn khích. Có lẽ nó đã linh cảm biết được về cuộc viếng thăm của Lord Grimwald. Charlie biết Dagbert gườm cha nó – hai cha con nhà họ hiếm khi gặp nhau, bởi vì Lord Grimwald hãn hữu lắm mới rời khỏi lâu đài ảm đạm của y ở quần đảo Phương Nam.
Ở cuối hàng cùng bên với giường Charlie phát ra tiếng giường kêu cọt kẹt và nó nghe thấy tiếng chân bước cập rập trên nền nhà trần trụi. Ai đó đóng sập cửa sổ nhưng không đứa nào thức giấc. Charlie co người lại, chuẩn bị trôi vô giấc ngủ, bỗng có gì nặng nề thả phịch xuống giường nó, ngay bên dưới đầu gối nó, và một giọng lào khào, “Charlie mày còn thức không?”
Không, tao ngủ rồi. Charlie thầm nói một mình. Nó không nhúc nhích.
“Charlie, dậy đi.”
Đáng ra Charlie vẫn nằm im lìm như cũ, nhắm tịt mắt, nhưng cơn điên tiết đột ngột dấy lên khiến Charlie ngồi bật dậy, gắt gỏng “Cái gì?”
“Cha tao ở đây.” Dagbert nói, giọng khản đặc và nguy cấp.”Tao có thể ngửi thấy mùi ông ta.”
“Còn tao thì ngửi thấy mùi mày.” Charlie ậm ừ. “Cút khỏi giường tao.”
“Charlie, tao nghĩ tao cần mày giúp đỡ.”
“Gì hả?” Charlie kêu rống lên. “Tao giúp mày, sau khi mày đã dìm chết bạn tao?”
“Đó là một tai nạn,” tiếng thì thầm của Dagbert trở thành tiếng rên khàn đục. “Tao không cố ý.”
“Ố, mày cố ý quá đi chứ.” Charlie càu nhàu. “Emma Tolly đã thấy tất cả. Cút khỏi giường tao mau.” Charlie đá vô lưng Dagbert.
Dagbert đứng dậy, nhưng vẫn không đi khỏi cạnh giường của Charlie. Charlie có thể thấy thân hình cứng đờ của nó in bóng trên bức trường nhấp nháy ánh sáng xanh lục. Cuối cùng một trang làu nhàu từ Dagbert lộn xộn tuôn ra. “Mày biết bí mật của gia đình tao, lời nguyền dòng họ của tao. Mày biết định mệnh của tao là chết vào năm tao mười ba tuổi… trừ phi cha tao chết trước tao. Phải là một trong hai cha con tao, và bây giờ ông ta đã bất ngờ đến đây, ngay giữa đêm khuya, và năm nay tao mười hai tuổi, Charlie. Vậy chuyện gì sẽ xảy ra? Làm ơn tìm hiểu giùm cho tao đi. Không ai khác ngoài mày, Charlie. Không ai khác làm được điều đó.”
“Tự mày tìm hiểu đi.” Charlie chàu bạu. Quay lưng khỏi Dagbert, nó ngọ nguậy bên dưới tấm khăn trải giường.
Vài giây trôi qua, Dagbert lề nhề, “Tao sợ.”
“Tội quá.” Charlie đáp lại.
“Nhưng tao muốn biết tại sao cha tao lại ở đây.”
“Hừ, tao thì không muốn. Chả quan tâm.” Charlie kéo tấm khăn trải giường lên trùm kín đầu. Nó chờ lời đáp của Dagbert, nhưng không nghe thấy. Trước khi ngủ thiếp đi, Charlie mở hé mắt ra và thấy phòng ngủ chung đã lại chìm vào trong bóng tối. Hy vọng Dagbert đã mò trở về giường nó rồi.
Charlie đã không nói thật với Dagbert cho lắm. Nó rất quan tâm đến sự xuất hiện của Lord Grimwald. Đúng ra, nó cực kỳ tò mò muốn biết tất cả mọi việc mà nó đã mục kích từ cửa sổ lúc nửa đêm. Có điều nó không tò mò đến nỗi liều mình bị bắt bởi kẻ nào đó trong số những vị khách trông chẳng dễ ưa của ngôi trường này.
Trong hàng lang tối om nối với tiền sảnh, hai cánh cửa cổ xưa cao ngất bóng loáng mở vô một phòng khiêu vũ nguy nga tráng lệ nhưng hiếm khi sử dụng. Tối nay, phòng khiêu vũ kê đầy ghế và những vị khách của lão Ezekiel Bloor ngồi thành hàng bên dưới bốn chùm đèn treo chói lóa. Ánh sáng rực rỡ từ những bóng đèn pha lê chiếu ra hình như đang làm cho một vài vị khách trông hom hem của lão Ezekiel khó chịu. Bọn chúng vốn là những kẻ khoái ở trong bóng tối: bọn trộm cắp, bọn tù nhân, lũ lừa đảo, tụi bắt cóc, tụi bịp bợm và thậm chí cả lũ sát nhân. Hầu hết bọn chúng sống ở đường Piminy, một con đường hẹp nằm ở khu cổ xưa của thành phố. Có thời nó là nơi cư ngụ của giới thầy pháp, thầy phù thủy, pháp sư và những người đại loại như thế. Quả thực, trong số bọn lưu manh đang ngồi trong phòng khiêu vũ đêm nay có những kẻ được thừa kế tài phép từ những tổ tiên khét tiếng của chúng. Nổi đình đám nhất bọn là một mụ thầy bói tên là Dolores Slingshot – sở dĩ mụ già này mang họ SlingShot là do khả năng bắn giằng ná chính xác chết người của mụ. Dolores đã tám mươi tuổi và đội một bộ tóc giả quăn tít màu đỏ như máu.
Trong một góc ở đằng cuối phòng có dựng một hình khối sừng sững màu trắng. Dẫu được dựng trong góc nhưng xem ra nó thống lĩnh cả căn phòng. Tất cả mọi người bước vô đều nghía mắt dòm cái khối ấy với vẻ sửng sốt pha lẫn tò mò. Chắc có lẽ vì bọn họ không hiểu nổi cái khối vuông màu trắng khổng lồ thế này có thể xoay xở bằng cách nào mà lách được vô đây qua dãy hành lang hẹp bên ngoài. Thật ra nó đâu có đi đường hành lang. Gã Weedon đã bị ép phải mở những cánh cửa không sử dụng ở bên hông phòng khiêu vũ để đẩy cái khối này (với sự trợ giúp của bốn công nhân khuân vác) qua vườn và vô căn phòng này. Toàn bộ quy trình đó khó khăn và tốn hao sức lực khôn cùng. Ngay cả gã Weedon cũng không biết cái gì ở bên dưới lớp vải phủ. Đám khách khứa thì cứ thắc mắc liệu mình có sắp được khám phá nó hay không.
Người cuối cùng tới, ngoài mụ tóc đỏ và gã Weedon, là một kẻ đốt phá trông bệnh hoạn tên là Amos Byrne. Khi tên này vừa ngồi vô chỗ xong, gã Weedon đóng cửa lại và tất cả mọi cặp mắt đổ dồn lên sân khấu.
Cây đàn piano đã bị đẩy ra cuối phòng và thế vô chỗ của nó là một chiếc bàn hình ô-van trải khăn màu tím. Ở một đầu bàn có một lão già cú đế trong xe lăn ngồi cười nhăn nhở với khách khứa. Mái tóc trắng bết như sáp của lão Ezekiel Bloor đóng khung một bộ mặt hõm hốc và xương xẩu đến nỗi trông nó giống như sọ người chết hơn là mặt của một người sống. Ngồi kế bên lão, không nhếch mép mỉm cười lấy một lần, là thằng chắt nội lão, Manfred, ngồi hơi quay lưng lại người bên cạnh của hắn, một phụ nữ mặt xám như tro bếp, tóc bết từng chùm xám xịt và cái mũi xanh sẫm như một cục bầm.
Ở đầu kia chiếc bàn, ông hiệu trưởng, tiến sĩ Harold Bloor, đang thực hiện giữa chừng một bài diễn thuyết, tẻ nhạt chưa từng thấy thì một vị khách nữa tới. Đó là một gã cơ bắp cuồn cuộn mặc độc có cái áo ba lỗ may bằng vải lưới và quần rằn ri. Hắn kéo xoạch một chiếc ghế từ cuối phòng ra, xoay tít trong một tay rồi dằn mạnh nó xuống sàn cho nó dừng lại, nghe một tiếng rầm, ông hiệu trưởng trừng mắt nhìn vị khách đến trễ, sau đó trở lại bài diễn văn của mình. Nó kéo dài thêm mười phút nữa trước khi từ từ ngừng lại, và những khán thính giả chưa ngủ gật có thể vỗ tay.
Tiếng vỗ tay không kéo dài lâu như ông hiệu trưởng mong muốn, tuy nhiên, đó là do bởi cánh cửa đôi thình lình mở ra cái rẹt và một mùi muối nồng nặng phả vô phòng, theo sau nó là một người đàn ông vạm vỡ.
“Lord Grimwald!” Miệng tiến sĩ Bloor há xệ ra. “Chúng tôi không ngờ… nói một cách khác là chúng tôi hầu như không dám hy vọng là ngài sẽ tới vào hôm nay. Như ngài thấy đấy, cái… cái… của ngài,” ông ta chỉ cái khối màu trắng.
“Quả cầu Đại Dương.” Lord Grimwald mỉm cười với cái khối màu trắng một cách đắc ý. “Ừm, ta đã đến đây rồi, vì vậy, hãy phối hợp cho ăn ý.” Y liểng xiểng đi vô lối đi hẹp giữa những hàng ghế như thể chân cẳng y có chiều dài không bằng nhau. Mái tóc xám quăn dúm của y nổi những vân sọc màu xanh tảo biển và mắt y màu xanh ngọc lạnh lẽo. Mùi tanh tưởi đi kèm y khiến nhiều người hắt xì và ho sặc sụa.
“Cho tới bây giờ chúng ta đã nắm vài vấn đề rồ,i” tiến sĩ Bloor nói, “nhưng tôi vẫn chưa giới thiệu…”
“Đúng. Đúng. Tiếp đi.” Lord Grimwald leo những bậc thang lên sân khấu và Manfred nhổm phắt dậy, vội vàng lôi chiếc ghế chèn giữa hắn và bà hàng xóm ra.
Lord Grimwald ngồi ịch xuống chiếc ghế trống, “Grimwald,” hắn nói, chìa tay về phía người phụ nữ ở bên trái y.
Mụ bắt những ngón tay giống lươn với vẻ ghê tởm hầu như không che giấu. “Titania Tilpin,” mụ nói, rồi nhổm người đứng lên. “Tới phiên ta chuẩn bị nói.”
Tất cả mọi người trong phòng xem ra đều biết Titania và tiếng vỗ tay phát rồi phát dại nổ ra. Mụ thảy cho khán giả một cái mỉm cười được xu nịnh và nói. “Ta biết các người đang mong đợi điều gì và ta sẽ không làm các người thất vọng”.
Thêm tiếng vỗ tay nữa. Ông hiệu trưởng nhăn mặt. Lúc này ông ta đã không nhận được sự tán thưởng hào phóng như vậy. “Hãy cho phép cô Titania Tilpin nói,” ông ta nhắc nhở.
Người phụ nữ mỉm cười và lôi từ trong những nếp gấp của chiếc áo chùng đen nhánh ra một tấm gương hình tròn lồng trong khung vàng. Tấm gương chiếu ra ánh sáng chói đến độ vài vị khách phải che mắt lại. Rồi sau vài cơn thở hốc sung sướng, đám đông bị bỏ bùa im bặt.
“Gương Thần Amoret,” mụ Tilpin tuyên bố. “Hầu hết khán thỉnh giả của ta đã được trông thấy nó rồi, nhưng vì lợi ích của ông, Lord Grimwald à, đây là tấm gương do chính tay Vua Đỏ làm cho con gái của ngài, bà Amoret. Nó đã chín trăm năm tuổi.”
“Và là một phương tiện để di chuyển,” Lord Grimwald cắt ngang bằng giọng chán chường. “Phải, ta đã nghe nói về nó rồi.”
“Còn hơn cả một phương tiện,” mụ Tilpin căm phẫn. “Ta chỉ mới bắt đầu hiểu vô số đặc tính của nó thôi. Trước kia ta đã dùng nó để mang tổ tiên của ta, thầy bùa bá tước Harken, vô thành phố này. Cuối cùng ngài đã bị trả về thế giới của ngài – ta sẽ không nói chi tiết – nhưng ta hy vọng ngài sẽ trở lại lần nữa. Bây giờ ta có một thứ để chỉ cho tất cả các người”. Mụ xoay người, hất tấm áo chùng đính đầy kim sa ra sau, và giơ tấm gương lên cho ánh sáng chói lọi của nó chiếu lên bức tường đằng sau mụ.
Một quầng sáng rừng rực xuất hiện trên bức tường. Nó loang to dần bằng một chiếc bàn nhỏ. Sau đó, bên trong vòng tròn sáng hiện ra những đường nét lờ mờ hình cây thân thảo và cây to. Khi một khu rừng xanh ngắt lọt vô cận cảnh, một thằng bé được nhìn thấy, đang đi lơ thơ qua hàng cây cùng với một con cọp sát bên mình. Thằng bé có mái tóc trắng như tuyết và đeo mắt kính tròng dày. Rủi làm sao, có một được lằn lởm chởm vắt chéo qua, cắt khung cảnh ấy làm đôi.
“Tấm gương của mụ bị nứt.” Lord Grimwald nhận xét.
“Charlie Bone đã làm,” mụ Tilpin hằn học. “Thằng khốn kiếp. Ta đã nhận được lời hứa từ lão Ezekiel đây là lão sẽ giúp ta sửa lại tấm gương. Nhưng cho đến nay, lời hứa của lão chẳng đi tới đâu.”
“Ta già rồi, Titania,” lão Ezekiel kháng cự. “Phép thuật của ta đang suy giảm, ta buộc phải bảo tồn sức mạnh của ta. Ta đã bảo ngươi hãy hỏi ý kiến Dorcas Loom rồi mà. Con bé đó có thể làm được, ta chắc chắn thế.”
“Cái đó không quan trọng.” Lord Grimwald nói kèm một cái ngáp. “Chúng ta có thể thấy rõ thằng bé, vậy là đủ. Tiếp đi, Tilpin.”
“Không quan trọng ư!” Mụ Tilpin quắc mắt nhìn Lord Grimwald. Mụ lắc lắc hai vai như một con gà mái rũ lông và tấm áo chùng đen phát ra nhưng tia sáng kêu lắc rắc. “Tấm gương của ta là quan trọng bậc nhất.”
“Tất nhiên, tất nhiên rồi, Titania,” ông hiệu trưởng vuốt ve. “Nói cho chúng tôi nữa đi… khán giả đang đợi.”
Quẳng một cái nhìn thách thức tới Lord Grimwald, mụ Tilpin chỉ thằng bé tóc trắng và nói, “Đây là Billy Raven, và con cọp mà không phải cọp thật – một ảo ảnh do thầy bùa hóa ra để làm thú tiêu khiển cho thằng bé.”
Lão Ezekiel bỗng tớn lên nói lảm nhảm một lèo. “Thật thú vị làm sao khi thấy thằng oắt con khốn khổ đó bị kẹt trong xứ Badlock, không bao giờ trở về được. Không bao giờ đòi hỏi quyền thừa kế của nó. Có một bản di chúc, các ngươi biết đấy, các bạn của ta.” Lão tự đẩy xe lăn ra trước sân khấu và huỵch toẹt với khán giả. “Đó là chỗ cho các ngươi nhúng vô. Giấy tờ đã được ký bởi cụ tằng tổ Septimus Bloor của ta. Trong đó ghi, ngài để lại tất cả đất đai và tài sản của ngài, thậm chí cả tòa nhà này cho con gái cả của ngài, bà Maybelle, và những người thừa tự của bà. Hậu duệ duy nhất còn lại của bà là Billy Raven”, lão Ezekiel quay xe lăn và chỉ lên bức tường, “vẫn đang đi dạo trong khu rừng bùa phép. Billy không hề hay biết, như các ngươi thấy đấy, và duy chỉ có mình ta biết sự thật đó bởi vì ta đã được báo cho biết điều đó bởi bà cô của ta, bà Beatrice, một phù thủy, người đã đầu độc bà Maybelle và lập một bản di chúc giả để lại tất cả mọi thứ cho nhánh dòng họ của ta. Nhưng bản di chúc thật vẫn còn tồn tại.” Lão Ezekiel đập vô thành xe lăn của lão một cái mạnh đến kinh ngạc. “Và ta tin rằng, Lyell Bone, thằng cha của Charlie, đã giấu nó.”
Tới điểm này thì Manfred bật đứng lên và, nhoài người qua bàn, tuyên bố, “Nó tuyệt đối không bao giờ được tìm ra bởi bất kỳ ai ở bên ngoài căn phòng này, các người hiểu chứ?”
Tiếng lầm bà lầm bầm đồng loạt bùng ra. Có những cái gật đầu hăng hái kèm tiếng thét, “Không bao giờ!” và “Chúng tôi sẽ tìm thấy nó!”
“Tìm thấy nó là điều bắt buộc cho các người.” Manfred nối lời, ánh mắt đen thui truyền điện của hắn quét khắp lượt bọn du thủ du thực đang tập hợp tại đây. “Tìm ra nó là điều bắt buộc cho các người. Hủy nó đi là điều bắt buộc cho các người. Lyell Bone đang ở ngoài biển, hy vọng sẽ không bao giờ trở về.” Hắn liếc qua Lord Grimwald. “Nhưng rất có thể hắn đã bóng gió tiết lộ một manh mối, một ngụ ý cho con trai hắn, Charlie. Chúng ta sẽ đối phó với thằng nhóc này. Các người bắt buộc phải tìm thấy bản di chúc.”
“Hãy suy nghĩ cẩn thận,” tiến sĩ Bloor nhắc nhở. “Không được bạo động. Chúng tôi không muốn gây nghi ngờ hoặc làm manh động đến luật pháp. Quán cà phê Thú Kiểng là nơi lý tưởng để bắt đầu. Hội đồng Loom và Norton Cross,” ông ta nhìn Norton đang ngồi ở hàng đầu và tên này gật đầu một cái, “họ đã giúp chúng tôi đóng cửa nơi ấy. Một khi hai vợ chồng chủ quán bị đuổi đi thì chúng ta có thể lục soát nơi đó. Hình như có một đường hầm dẫn tới khu lâu đài đổ nát. Hãy tìm nó! Hãy điều tra!”
“Để đó cho tôi,” tên phá hoại Amos nói.
“Còn tôi,” gã mặc áo lưới gào tướng. “Tôi rất lanh trí.”
“Đừng gây nghi ngờ,” tiến sĩ Bloor cảnh cáo.
“Phần thưởng?” Mụ già Dolores xen vô, nguẩy những lọn tóc đỏ của mụ. “Bọn ta sẽ được gì khi giúp ông?”
“Tiền,” lão Ezekiel phán. “Rất nhiều. Bà còn muốn gì nữa không?”
“Tiền thì được,” mụ già Dolores nói. “Mười ngàn nếu tôi tìm ra bản di chúc.”
Lão Ezekiel gãi cái mũi dài của lão, suy tính xem cuối cùng lão có thể giữ được lời hứa không. “Mười ngàn,” lão đồng ý, có phần lưỡng lự.
“Một ngàn cho cố gắng!” Một gã tóc trắng mặc comlê tím đòi hỏi – hắn là kẻ tạo ảo ảnh tên là Wilfred Coalpaw.
Tiến sĩ Bloor lắc đầu. “Chỉ cho cố gắng thôi sao? Thà là…”
“Đồng ý!” Lão Ezekiel hét lên, lão đã quyết định rằng giữ lời hứa không phải là một việc quá khó khăn đến nỗi không làm được. “Một ngàn cho mỗi người các ngươi. Sẽ có rất nhiều để vi vu nếu bọn ta tìm thấy nơi Septimus cất giấu số tài sản còn lại của ngài. Các ngươi có thể đi được rồi”. Lão thô bạo phẩy bàn tay một cái đầy miệt thị.
Tiếng cạ ghế, tiếng dậm chân, tiếng lê bước vang lên rầm rầm khi khán giả nhổm khỏi ghế và tiến ra cửa. Vài kẻ tò mò liếc dòm cái khối màu trắng. Một tiếng động phát ra từ đó. Hình như là tiếng sóng. Loáng thoáng tiếng thủy triều chồm lên một bãi biển sỏi đá.
“Nhân thể,” Manfred gọi, cố ý nhằm đánh lạc hướng bọn tọc mạch, “tiệm sách Ingledew. Hãy để mắt tới nó. Cứ xông hẳn vô nếu các người có thể. Sách cũ là nơi cất giấu tốt.”
Lũ khách khứa lao nhao với nhau một hồi rồi tếch khỏi phòng.
Sáu người vẫn còn ngồi lại ở hàng ghế đầu: Grizelda Bone cùng ba bà em ngồi ở dãy bên này, Norton Cross và tay kiếm sĩ ở dãy bên kia.
“Mang cho chúng tôi một ít trà!” Tiến sĩ Bloor ra lệnh khi gã Weedon thò đầu vô qua cánh cửa.
“Cả bánh quy nữa,” lão Ezekiel thêm. “Và bánh nướng!”
“Cho tất cả ạ?” Gã Weedon hỏi trong khi đếm đầu người.
“Tất cả,” tiến sĩ Bloor nói. “Mười một, chính xác.”
Càu nhàu một tiếng nóng nảy, gã Weedon rụt đầu ra khỏi phòng và đóng cửa lại.
“Cuối cùng, những người ưu tú,” lão Ezekiel cười xởi lởi với sáu vị khách nán lại. “Nào bây giờ chúng ta bàn luận một cách… toàn diện hơn. Ashkelan Kapaldi, chào mừng ngài đến đây.”
Tay kiếm sĩ đứng lên và cúi đầu thật sát, trước là về phía sân khấu sau là qua nội Bone và các em bà. Tấm thân của hắn là cả một khối sắc màu sặc sỡ, với áo chẽn xanh lá cây, cổ rộng viền đăng ten, thêu màu vàng chóe. Cổ tay áo cũng được may bằng đăng ten, còn chiếc quần ống túm thì may bằng vải nhung xanh lá cây. Đôi ủng da rộng miệng cao gần tới bắp đùi, cộng thêm với dải khăn thắt lưng màu đỏ tía quấn quanh eo. Lại còn cả một vòng dây nịt da rộng bản vắt chéo qua ngực hắn, suốt từ vai xuống tận eo dưới, treo lủng lẳng trên đó là một bao kiếm màu xanh lá cây đậm.
“Trong thế kỉ thứ mười bảy,” lão Ezekiel rao giảng, “Ashkelan Kapaldi là tay kiếm vĩ đại nhất châu Âu.”
“Tay kiếm sĩ?” Nội Bone thắc mắc.
“Thế kỉ mười bảy…” bà cô Eustacia lẩm bẩm một mình.
“Ta đã làm đấy,” mụ Tilpin mở mồm. “Nói cho ngay, chính ta đã làm điều đó với sự trợ giúp của tấm gương và của con trai ta, Joshua, thằng bé được ban phép từ tính. Cùng nhau,” mụ ngoáy bàn tay một vòng tròn nhỏ, “bọn ta đã kéo Ashkelan Kapaldi ra khỏi bức tranh vẽ ông ấy. Và giờ, ông ấy ở đây… cùng thanh gươm của mình!”
Nghe vậy tức thì Ashkelan rút thanh gươm ra khỏi bao và buông cho nó lao về phía bốn chị em. Cả bốn bà nhất tề bật dậy, nhất tề lạc giọng, và thanh gươm dừng lại, khẽ đu đưa trên mũi của nó. Cái vết rạch sâu dưới nền nhà bóng loáng đập tan mọi hồ nghi về hiệu lực của thanh gươm.
“Đừng sợ, các quý bà.” Ashkelan nói khi thanh gươm trôi lùi trở về phía hắn. “Thấy đó, nó tuân theo mệnh lệnh của ta.” Hắn chộp lấy thanh gươm và cà thọt tiến lại gần lão Ezekiel. “Ta được bảo dằng, tâu đức ngài, dằng mọi đứa trẻ được ban phép thuật ở phần thế giới lày ở trong phạm vi những bức tường lày suốt cả tuần.”
“Đúng vậy,” tiến sĩ Bloor thừa nhận.
“Không phải.” Ashkelan tuyên bố dõng dạc. “Ta có tài nhận biết được kẻ được ban phép thuật, ta đã trông thấy một đứa, chưa tới một giờ kể từ đó, ở trong sân phía trước cơ ngơi lày của các người. Một thằng bé cao trung bình, một thằng mất dạy, do thám, phát gớm. Và nó được bảo vệ, tâu đức ngài, bởi không ai khác ngoài chính Hiệp sĩ Đỏ.”
“Hiệp sĩ Đỏ,” lão Ezekiel nín thở, chồm hẳn người về phía Ashkelan. “Hiệp sĩ Đỏ, ngài nói gì thế?”
“Đúng. Bệ cưỡi của hắn là một con ngựa trắng,” tay kiếm sĩ tiếp, “áo chùng của hắn màu đỏ, chùm lông chim bay phất phới trên mũ hắn cũng màu đỏ. Hắm đã làm ta bị thương, các ngài à. Hắn đã làm ta bị thương và ta sẽ không thể bỏ qua chuyện lày.”
“Dĩ nhiên là không, thưa ngài,” lão Ezekiel nói, lúc này người lão gần như gập làm đôi, hơi thở lọc khọc trong lồng ngực. “Dù cho tên hiệp đó là kẻ nào, thì chúng ta cũng sẽ kết liễu hắn.”
“Trước tiên là thằng bé.” Manfred nói lạnh tanh. “Chúng ta không thể để một thằng bé được ban phép thuật đi lang thang ngoài phố mà chúng ta không biết”.