Charlie Bone và Hiệp sĩ đỏ (Tập 8)

Chương 2


Đọc truyện Charlie Bone và Hiệp sĩ đỏ (Tập 8) – Chương 2

CHƯƠNG 1: THANH GƯƠM MA THUẬT
Đối với người đàn ông nhỏ choắt đang vội vã đi trong thành phố đây, những tòa nhà đen lù mọc sững phía trên đầu ông không bao giờ mang vẻ gì là hăm dọa cả.
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại . .com – gác nhỏ cho người yêu sách.]
“Bị đe dọa,” ông Orvil Onimous lẩm bẩm. “Ấy vậy mà đó là tình thế của chúng ta đấy, những con mèo yêu quý của ta à, bị đe dọa.” Ông đang nói chuyện với ba con mèo đi cùng – những sinh vật lộng lẫy có bộ lông màu lửa ấy, con màu đồng đậm thì đi đằng trước ông, con màu cam chói và con màu vàng ánh sao chạy hai bên ông.
“Các bạn là nguồn an ủi lớn lao đấy, các bạn có biết không, những con mèo lửa?” Người đàn ông nhỏ bé thở dài.
Họ rời khỏi đường Đồi Cao và rẽ vô hẻm Ếch, một ngõ hẻm hẹp dẫn tới những bức tường mà thời cổ xưa đã bao quanh thành phố. Đêm nay là một đêm lạnh, trời ẩm ướt, những đường phố rải sỏi đẫm nhoét sương giá đang tan. Mỗi bước chân người đàn ông nhỏ bé lê tới lại mỗi thêm nặng nề. Ông quẹo một góc cua và lọt vô tầm nhìn của một cái quán trông khác thường, xây hẳn vô giàn khung của những bức tường cổ. Phía trên một cửa sổ gắn lưới mắt cáo của quán là dòng chữ Quán cà phê Thú Kiểng, được kẻ trên tấm biển vẽ chen chúc hình thú vật.
Ông Onimous hầu như không thể nhấc nổi chân được nữa. Ông ngẩng mặt lên trời, hớp không khí. Gương mặt râu ria và mái tóc nâu bù xù làm cho ông trông giống như con chuột đồng bự trong một chiếc áo khoác vải tuýt chẳng vừa vặn tẹo nào.
Lũ mèo quấy lại quanh ông, meo lên khích lệ, nhưng ông Orvil Onimous vuột ra một tiếng nấc não lòng và chỉ tờ giấy đính trên cánh cửa sơn màu xanh lá cây. Tờ thông báo ghi:
Cơ ngơi này bị đóng cửa theo lệnh của Hội đồng Thành phố, chiểu theo Mục 238 của đạo luật Sức khỏe Cộng đồng.
Lũ mèo tuy không đọc được nội dung của bản thông cáo kia nhưng chúng cảm nhận được đầy đủ ý nghĩa của nó. Phương kế sinh nhai của bạn chúng đã bị tước đoạt. Quán cà phê Thú Kiểng, nơi mọi khách đến đều bắt buộc phải mang theo thú nuôi, bây giờ đã phải dẹp tiệm. Tiếng liếp chiếp chíu ríu, tiếng kêu be be, tiếng chó sủa, mèo ngao rộn ràng mà một thời từng đón chào mọi du khách giờ không còn nữa.
Bên trong quán, ghế bị chất đống hết lên những cái bàn trống trơn, đèn đóm trong dàn đèn lồng treo thòng từ trên trần nhà xuống hết thảy đều tắt ngúm, và trong bếp, bà Onimous vẫn không ngơi nghỉ, cứ nhét đầy vô lò bao nhiêu bánh nước và bánh quy nhân mà sẽ chẳng có ai ăn.
Nghĩ đến vợ, ông Onimous dấn một bước khẳng khái về phía cánh cửa màu xanh lá cây, nhưng rồi lại lần chần. Có tiếng động vọng tới từ đầu con hẻm khiến ông thận trọng ngó he hé qua khúc cua.
Một dáng người đang sải bước hùng hồn về phía ông.
“Chúng tôi đóng cửa rồi,” ông kêu to. “Đến đây cũng vô ích thôi. Ngoài ra,” ông rầu rĩ thêm “anh không mang theo thú cưng… trừ phi anh đút nó trong túi quần. Đi đi.”
Người lạ kia vẫn không đếm xỉa đến lời của ông. Anh ta chủ đích tiến tới gần hơn. Một thằng bé, ông Onimous nghĩ, để ý dáng người dong dỏng và những bước sải chân trẻ trung. Một chiếc khăn quàng màu vàng quấn che kín hết nửa mặt phía dưới của cậu bé, còn chiếc mũ trùm đầu liền với chiếc áo khoác xanh da trời thì kéo sụp hẳn xuống, che kín trán cậu ta.
Ông chột dạ thụt lùi khỏi góc quẹo. Tim ông đập dồn hơn, nhưng tâm trạng thảm não trong ông đã bị thay thế bằng cơn giận bừng bừng. Cái kẻ lạ câm nín đó là ai mà hùng hổ đi về phía ông trong khi ông đã bảo hắn hãy đi đi?

Lũ mèo bình thường sẽ tức tốc triển khai thế trận bảo vệ ông, nhưng chúng vẫn đứng tại chỗ trong ngõ hẻm, đuôi nhổng cao, hít hít không khí với vẻ chờ đón.
Một luồng gió mạnh đồng hành với kẻ lạ – một cơn gió độc địa, theo như ý kiến nhận xét của ông Onimous. Không thể là gió từ con nít, ông nghĩ. Không thể là gió của một trong những đứa được ban phép thuật. Tối hôm nay là thứ tư. Tất cả bọn trẻ được ban phép thuật đang ở trường, và hầu hết đã lên giường ngủ. Ông chạy ù tới cánh cửa xanh lá cây, rút phăng chiếc chìa khóa từ trong túi quần ra, run rẩy tra nó vô ổ.
“Ông Onimous!” Tiếng gọi đó thì thầm, khàn khàn và gấp gáp.
Người đàn ông bé nhỏ sợ hãi quay người lại và nhìn vô cặp mắt xanh thẳm trông quen quen. “Tancred Torsson!” Ông reo lên.
“Suỵt!” Tancred đặt một ngón tay lên môi.
“Ôi chao, cưng, anh chàng yêu quí của ta.” Ông Onimous chộp lấy cả hai bàn tay của Tancred mà bóp thật chặt. “Ối, cháu không biết cháu đã nâng tinh thần của ta lên cao biết chừng nào đâu. Bọn ta cứ tưởng cháu bị chết rồi chứ.”
“Cháu chết rồi, ông Onimous à.” Tancred thì thào. “Ít nhất là chết đối với BỌN CHÚNG. Cho cháu vô được không? Cháu sẽ giải thích tất cả.”
“Được, được, được chứ.” Ông Onimous mở khóa cửa và kéo Tancred vô quán vắng tanh. Ba con mèo nhanh chóng nhảy chồm theo sau họ và ông bấm ổ khóa, cài chốt cửa lại.
Tancred tháo khăn quàng cổ ra và ngây người nhìn trừng trừng đống ghế bị úp ngược, chổng những cái chân nhọn hoắt lên trần nhà tối thui. “Thế này thì buồn quá, ông Onimous ạ. Chúng ta phải làm gì đó về việc này thôi,” cậu nói.
“Dĩ nhiên phải làm chứ, nhưng bộ óc già nua tội nghiệp của ta không kham nổi.” Ông Onimous dẫn đường đi vòng qua quầy ở phía sau quán và bước vô nhà bếp sáng trưng.
Một phụ nữ cao quá khổ, có gương mặt dài sầu muộn, đang phết mứt lên những chiếc bánh tạc trông hơi nhờn nhợt. Đã có năm, sáu đĩa bánh như thế bày ra khắp trên bàn bếp, và nếu không nhìn vào nét mặt rầu rĩ của bà Onimous thì chắc hẳn người ta nghĩ là bà đang chuẩn bị cho một bữa tiệc.
“Đừng nhắc gì nữa,” bà Onimous lầm bầm, vẫn không ngẩng đầu lên. “Ai sẽ ăn hết hàng trăm chiếc bành tạc này? Em không sao ngưng được, Orvil. Em còn biết làm gì khác nữa?”
“Onoria yêu dấu,” ông Onimous không ngăn nổi tiếng rít phấn khởi trong giọng nói của mình. “Chúng ta có một vị khách đây này.”
Bà ngước nhìn lên, há hốc miệng, hét lên một tiếng, lảo đảo lùi lại và đổ sụp người xuống chiếc ghế bành cũ. “Tancred Torsson!” Bà thở dốc. “Cháu chết rồi mà!”
“Chưa đâu ạ, bà Onimous.” Tancred kéo mũ trùm ra, để lộ mái tóc dày màu vàng trái bắp. “Như bà thấy đấy, cháu vẫn còn sống nhăn.”
“Tin đã lan truyền khắp thành phố. Người ta bảo cháu bị chết đuối.” Hai dòng nước mắt đậm to lăn dài xuống má của bà Onimous. “Một tai nạn thương tâm, họ nói thế, nhưng bọn ta đoán rằng chính cái thằng ôn dịch Dagbert Endless đã dìm chết cháu chứ không ai.”

“Đúng thế, chính nó đã làm vậy đó.” Tancred công nhận. “Cháu đã mém đi đời rồi thì Emma cứu cháu. Và ngay sau khi ba cháu mang thân xác bất động của cháu về thì nhà cháu có khách.” Tancred ngồi bên bàn và vuốt ve cái đầu của con mèo vàng, con Nhân Mã, nó khoái chí kêu rừ rừ sâu trong cái cổ họng mềm mịn như tơ. “Cháu nghĩ ông bà đã phái chúng tới chỗ cháu”.
“Lũ mèo ư!” Ông Onimous kêu lên, chập hai bàn tay lại với nhau. “Đáng lẽ ra ta phải biết chứ nhỉ. Nhưng chúng sống một cuộc đời bí ẩn lắm. Ta không bao giờ biết chúng đi đâu hết.”
“Thì chúng cũng đã cứu sống ông đấy thôi, Orvil,” bà vợ nói trong lúc rót trà ra cho cậu khách. “Thật kỳ diệu, không biết làm sao mà chúng luôn luôn biết khi có một đứa trẻ của Vua Đỏ gặp tai ương.”
“Tôi không phải là đứa trẻ,” ông Onimous cười khúc khích, bồng hẳn con Sư Tử vào lòng mình.
“Thì ông là hậu duệ của ngài – nhiêu đó là đủ cho chúng cứu ông rồi.” Bà Onoria mỉm cười khi Dương Cưu, con mèo màu đồng xoắn người nó quanh chân của bà.
“Chúng đã ngồi trên giường cháu suốt đêm hôm ấy.” Đôi mắt của Tancred nháng lên một tia nhìn xa xăm khi cậu bắt đầu mô tả cảm giác ấm áp và dễ chịu mà lũ mèo đã đem đến cho tứ chi đau nhức ê ẩm của cậu, rồi cậu kể tiếp tiếng meo meo của chúng đã làm dịu cơn đau đầu kinh khủng và làm bình ổn trái tim đập loạn xạ của cậu ra sao.
“Ta biết, ta biết.” Ông Onimous liên tưởng đến cuộc bình phục ngoạn mục của chính mình.
Bà Onimous ngồi xuống, đẩy đĩa bánh bà vừa quết mứt xong cho Tancred. “Ăn hết cả đĩa đi nhé, cháu ngoan,” bà bảo. “Hãy mang về nhà cho mẹ cháu nữa. Chúng tôi hiếm khi thấy bà ấy xuống đây ghê.”
“Mẹ cháu không có thú cưng,” Tancred nói với cái miệng đầy ứ bánh tạc. “Mẹ cháu đã thử nuôi chó, nuôi mèo, chuột lang, thỏ, thậm chí cả ngựa lùn nữa, nhưng bọn chúng đều bỏ đi hết ráo. Chúng không thể chịu nổi sấm chớp của ba cháu.”
Cha của Tancred nổi tiếng với biệt danh Ông Bão Tố, do thời tiết khắc nghiệt liên tục xảy ra ở những nơi ông có mặt.
“Thế Charlie Bone có biết là cháu đã được cứu sống không?” Ông Onimous hỏi, cắn một chiếc bánh tạc do vợ ông làm.
Tancred gật đầu dứt khoát. “Cả mấy đứa kia cũng biết rồi: Lysander, Gabriel, cả bọn luôn, ngoài ra thì không một ai khác được biết cả. Cháu sẽ hữu ích cho chúng nó hơn nếu Dagbert và gia đình Bloor tưởng rằng cháu đã chết.”
“Chúng ta sẽ không hé răng cho một sinh linh nào.” Ông Onimous hạ thấp giọng như thể gia đình Bloor đang ở ngoài cửa ngay tại khoảnh khắc này. “Ta thấy tội nghiệp cho Charlie quá. Ba mẹ nó đi xa đã hơn tháng nay rồi, và mặc dù ta không thích chỉ trích một người tốt như Lyell Bone, nhưng ta thấy chú ấy bỏ thằng con duy nhất ở lại một mình sau khi đã chia cách nó hơn mười năm ròng như thế là quá lâu đấy.”
“Cháu đồng ý ạ.” Tancred nói. “Nhưng Charlie là đứa trẻ tuyệt…” Bỗng nhiên có tiếng gõ cửa rầm rầm khiến cậu ngừng nói giở chừng và gồng vai lên cảnh giác.
“Ai thế nhỉ?” Ông Onimous mở cửa bếp và ngó đăm đăm qua quán tới một thân hình cao lớn hiện ra ở khung cửa sổ. “Lạy trời, Norton, để ta…”

“KHÔNG, ông Onimous!” Tancred đứng bật dậy và đẩy người đàn ông nhỏ thó trở vô bếp. “Charlie bảo cháu phải cảnh báo cho ông bà. Chính vì thế mà cháu mới tới đây. Norton Cross đã phản bội ông, ông Onimous ạ”.
“Cái gì?” Ông Onimous nhăn mặt với Tancred, không tin nổi. “Sao cháu lại nói như vậy? Norton? Chú ta là người gác cửa giỏi nhất mà chúng ta có”.
“Ông phải tin cháu, ông à.” Tancred nói bằng giọng hạ thấp. “Hắn đã bị nhìn thấy đi cùng với mụ phù thủy Tilpin và bọn khác. Chính xác là đi với một số bọn côn đồ ở đường Piminy.”
“Norton?” Bấu chặt lấy cạnh bàn, ông Onimous chìm lỉm xuống chiếc ghế. “Thế giới đang biến thành cái gì thế này?”
“Ồ, ít nhất là chúng ta phải cảnh giác, Orvil,” vợ của ông bảo. Bà lắc đầu. “Kẻ nào mà biến Norton dễ mến của chúng tôi thành đồi bại thế không biết?”
Không ai có thể trả lời bà.
Tiếng gõ cửa cuối cùng cũng im, ló nhìn ra khỏi quán tối om, Tancred bắt gặp hai hình thù đang đi ra khỏi con hẻm. Dáng hình của Norton thì không thể nhầm lẫn, thân người dềnh dàng của hắn bọc kín trong chiếc áo jacket độn bông màu xanh lá cây, in toàn những con voi màu vàng. Kẻ đi kèm hắn lùn hơn, mặc áo chùng đen, đội mũ có cắm một chiếc lông chim rũ oặt xuống. Chiếc mũ đó bằng vải nhung, mềm nhũn và mang hình thù quái dị. Nó gợi nhắc Tancred tới một cái mũ nào đó mà cậu đã từng trông thấy. Không biết là nó ở trong sách hay trong hình vẽ? Cậu không tài nào xác định được.
“Cháu nghĩ tốt hơn cháu phải về ngay đây.” Tancred bảo ông bà Onimous.
“Cẩn thận nhe cưng,” bà Onimous đi tới ôm chầm lấy cậu. “Cháu còn trẻ mà ra ngoài một mình trong một đêm tối trời như thế này.”
Tancred đã mười bốn tuổi và đã quen với việc đi ra ngoài đêm hôm. Tài phép của cậu là thứ duy nhất bảo vệ cậu khi cần, hoặc là cậu nghĩ vậy. Một luồng chớp hay một cơn gió giật luôn luôn đủ để làm nhụt chí của kẻ có ý đồ tấn công cậu. “Cháu tự lo cho mình được,” cậu nói, tự giải thoát mình khỏi vòng ôm của bà Onimous.
Một cơn gió cỡ cấp bảy quạt xuyên qua nhà bếp và ly tách đựng trong tủ va lách cách vào nhau, hòa thành một mớ âm thanh hoang dại.
“Được rồi, cậu bé Bão Tố, cậu không cần phải chứng minh đâu,” ông Onimous cười khà khà.
Tancred lanh lẹn đi qua quán, ngoái lại chào: “Chúc ông bà ngủ ngon. Ông bà nhớ cẩn thận.”
Bước ra ngõ hẻm, Tancred đóng cửa quán lại và đứng nghe ngóng một chút. Những tiếng bước chân có thể được nghe thấy quẹo phải lên đường Đồi Cao. Kéo cái mũ trùm lên, Tancred nhón chân đi lẹ trong hẻm và nhìn ra khỏi khúc quanh.
Hai bóng người đó vội vã đi về hướng học viện Bloor. Tancred kéo chiếc khăn quàng cho nó bọc kín phần dưới gương mặt mình rồi hối hả đi theo bọn chúng. Mới đầu Norton và tên đồng bọn hầu như không nhận biết được kẻ theo đuôi, nhưng bất thình lình cái gã áo khoác đen quay ngoắt lại. Tancred phóng vội vô một khung cửa. Lưng cậu áp sát vô cánh cửa, thở hổn hển.
Chắc chắn hắn đã thấy mình, Tancred nghĩ, bởi vì mình đã nhìn thấy hắn.
Đó là gương mặt mà Tancred nhận ra ngay lập tức. Đóng khung trong những xoắn tóc đen dài tới vai, nét mặt của kẻ lạ nổi bật với đôi mắt đen thô lố và đôi lông mày rậm rì hình vòng cung. Hắn có bộ râu quai nón ngắn, nhọn chĩa ra và hai chót ria mép tỉa cong vút lên tới tận hai bên má.
Nếu cái gã đó đã nhìn thấy Tancred thì rõ ràng gã cũng hờ hững như không, bởi vì tiếng chân của bọn chúng đã trở về những sải bước gấp gáp.

Phải mấy phút sau Tancred mới dám nhúc nhích trở lại và đến lúc cậu ló mặt ra đường Đồi Cao thì hai bóng người kia chẳng còn thấy đâu nữa. Không nghi ngờ gì, bọn chúng đã rẽ vô con đường nhánh dẫn tới học viện.
Dấn bước tiếp đến gần cụm tòa nhà quen thuộc, Tancred quyết định bám theo chúng. Cậu đến quảng trường phía trước học viện đúng ngay lúc thấy Norton leo lên những bậc thang dẫn vô trường.
Một cơn rùng mình chạy lạnh sống lưng Tancred. Cậu đã học ba năm tại ngôi trường này, và dẫu kết được nhiều bạn bè thân thiết ở đó, cậu vẫn luôn luôn nhận thức rằng bất kỳ giây phút nào lão già Ezekiel Bloor và đám con nít bị lão nắm đầu đều có thể thực hiện điều hiểm ác gì đó, mà sẽ để lại hậu quả không thể cứu vãn. Và Dagbert-kẻ-dìm-chết-người xuất hiện, cái ác cuối cùng cũng ra tay. Dagbert đinh ninh nó đã dìm chết Tancred Torsson – thật vậy, nếu không có quyền năng huyền diệu của những con mèo lửa thì Tancred đã chết rồi.
Cậu nhìn Norton leo lên tới bậc thang trên cùng, xong cậu quay lại nhìn đài phun nước nằm chính giữa quảng trường. Một bầy thiên nga quây tròn, nghếch mỏ lên trời, phun những dòng nước bạc lên bầu không trung rực ánh đèn. Tancred núp sát vô tường, chỗ ánh sáng đèn đường không thể rọi tới. Norton làm một dấu hiệu kỳ cục bằng bàn tay của hắn: một kiểu như ra dấu đồng ý bằng tất cả những ngón tay. Rồi, trước khi Tancred kịp nhận biết chuyện gì xảy ra, bàn tay Norton gập xoắn lại, nguẩy một vòng cho ngón tay trỏ chĩa thẳng vô cậu. Tancred tự nguyền rủa mình sao mà ngu hết sức. Cậu đã quên phéng kẻ đi cùng Norton.
Cái gã đó bây giờ đã xộc ra từ đằng sau vòi phun nước và đang phóng về phía Tancred.
“Mài là ai? Lói tên cho bọn tau”. Giọng của gã gằn sâu và khản đặc. “Lói!”
Áp sát lưng vô tường, Tancred sàng lết ngang qua, cố lỉnh trở lại ngõ hẻm.
“Đứng lại!” Gã người lạ rống vang, và Tancred đông cứng cả người khi mà, từ bên dưới những nếp gấp áo chùng của mình, gã rút ra một thanh gươm sáng loáng. “Do thám! Lói tên mài!”
Tancred thấy mình không thể thở được – chân cẳng bủng rủn đến nỗi cậu sợ chúng sẽ sụm xuống bất cứ lúc nào… Cậu cố triệu hồi một cơn gió có thể mang mưa đá đến trám đầy không gian nhưng trước sự hiện diện của kẻ lạ kia cậu chỉ đủ sức tập hợp được một luồng gió ẩm. Gã đàn ông sắp tới được chỗ cậu, thanh gươm chém loang loáng những vòng cung sáng lóa vô không khí.
“Lẽ nào mình phải chết lần thứ hai?” Tancred lảm nhảm một cách hoảng loạn.
Tuyệt nhiên không hề có nhân chứng. Cả thành phố tựa như hoang mạc, ngay cả tiếng xe cộ cũng đã im hẳn, âm thanh duy nhất Tancred có thể nghe được là một tiếng thịch yếu ớt, mà cậu lầm tưởng là tiếng tim mình đập. Nhưng tiếng lịch thịch đang rõ dần lên. Và giờ thì âm thanh đó nghe như tiếng vó ngựa chạy nước kiệu trên sỏi đá, thế rồi một tiếng thét cắt phăng màn đêm “ASHKELAN!”
Tay kiếm sĩ xoay ngoặt lại và Tancred chớp mắt kinh ngạc khi một hiệp sĩ cưỡi ngựa trắng phi như bay vô quảng trường. Hiệp sĩ bọc kín từ đầu đến chân trong bộ áo giáp hợp bởi những vòng thép xâu vào nhau, sáng lấp lánh, ngài đội mũ giáp kim loại sáng bóng, có cắm một chùm lông chim màu đỏ phấp phới trên chóp và tấm áo chùng đỏ tía bay phần phật đằng sau ngài như một cánh buồm. Trong bàn tay phải, ngài nắm chắc một thanh gươm sáng chói, cán gươm khảm châu báu hào nhoáng, và tấm khiên ngài vung lên khỏi yên cương vẽ biểu tượng một mặt trời đang chiếu rực rỡ.
“Ngươi!” Gã đàn ông được gọi là Ashkelan gầm thét, gươm vung cao và lao sầm sập về phía hiệp sĩ.
Chém phập thanh gươm của mình một nhát, hiệp sĩ gạt phăng thanh gươm khỏi tay kẻ tấn công, nó rớt lạch xạch xuống mặt sỏi. Đồng thời với một tiếng thét đau đớn vang lên, tiếp liền là tiếng gầm cuồng nộ khi chủ nhân của thanh gươm kia ngã oạch xuống đất, ôm chặt lấy cánh tay.
Một tràng những từ ngữ bí hiểm không thể giải mã được tuôn ồ ạt khỏi miệng gã đàn ông khi gã nhoài tới nhặt thanh gươm của gã. Tancred đáng lẽ đã chạy trốn khỏi hiện trường nguy hiểm đó nhưng cậu cứ đứng chôn chân tại chỗ, không dám tin vô mắt mình. Bất thần thanh gươm đang nằm dưới đất tự động nhấc bổng lên không và bay về phía hiệp sĩ. Giương vũ khí của mình lên, hiệp sĩ đã đánh bạt cú đòn mà nếu trúng đích thì có lẽ nó đã chặt đứt cánh tay ngài, nhưng thanh gươm ma thuật lại đâm bổ tới lần nữa, và lại một lần nữa ngài gạt phăng cú đòn đi. Một trận đọ kiếm tay đôi quái lạ đang diễn ra trước mắt Tancred, và cho dù sợ kinh hồn bạt vía, cậu không sao bắt mình rời khỏi quảng trường.
Hiệp sĩ và ngựa cưỡi của ngài hầu như hòa nhập làm một, bởi vì con ngựa chuyển động nhanh như tia chớp. Nó hết nhảy cao hơn đài phun nước lại chạy quanh quảng trường, rồi móng guốc tung hoành, bắn ra những tia lửa. Thanh gươm ma thuật, bây giờ như một luồng sáng biết bay, tấn công hiệp sĩ từ mọi góc. Làm sao ngài có thể chống đỡ nổi trước ánh sét liên tục ra đòn như thế thì thật khó mà hiểu được. Thế rồi, cuối cùng thanh gươm ma thuật cũng tung ra được đường gươm chắc chắn sẽ kết liễu ngài. Nó đáp xoẹt qua ngực, rạch đứt lớp áo giáp của hiệp sĩ và móc ra khỏi ngài một tiếng hự đau đớn. Tuy nhiên bằng một thế hất lên dũng mãnh, ngài gạt trúng thanh gươm ma thuật và gẩy nó quay tít lên trời.
Tancred không đợi cho thanh gươm đó rơi xuống đất. Quá choáng váng trước những gì mình vừa chứng kiến, Tancred chạy thục mạng qua con hẻm và rẽ vô đường Đồi Cao. Nỗi sợ hãi pha lẫn sự kích động sinh ra những cơn gió mạnh, giật ù ù trên đầu cậu, chiếc mũ trùm bị lật ra sau và không khí trên đầu cậu kêu xèo xèo vì những tia lửa điện cả trắng lẫn xanh lè phóng ra. Cậu chạy về lại hẻm Ếch và nhắm hướng quán cà phê Thú Kiểng, vừa chạy vừa gọi toáng lên, “Ông Onimous, mở cửa cho cháu vô!”
Một người đàn ông cao lớn từ trong bóng tối bước ra và Tancred tông thẳng vô người đó. Hộc lên một tiếng buông xuôi, cậu bé bão tố nhắm mặt lại và đổ gục xuống đất.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.