Charlie Bone và Hiệp sĩ đỏ (Tập 8)

Chương 19


Đọc truyện Charlie Bone và Hiệp sĩ đỏ (Tập 8) – Chương 19

CHƯƠNG 16: TIẾNG GỌI XA XĂM
“Có rủi ro rồi,” ngoại Maisie nói khi Charlie và Emma bước vô bếp nhà số 9.
“Thôi đừng thêm rủi ro nữa!” Charlie thả mình xuống ghế và hau háu dò la đồ ăn bày trên bàn. “Quá ngon, ngoại Maisie. Con sắp chết đói đây.”
Emma kéo ghế ngồi xuống cạnh nó và Charlie trao cho cô bé một đĩa xăng-quít kẹp thịt gà.
“Emma tới thăm cô Alice,” nó bảo với ngoại Maisie.
Trước khi nó nói thêm câu nào, cô Alice bước vô và ngồi xuống bàn. “Emma, gặp cháu cô mừng quá!” cô Alice cười sung sướng, cả Emma cũng cười tít.
Charlie gấp rút giải thích kế hoạch giải thoát Olivia khỏi bùa mê của nó. Cô Alice chăm chú nhìn nó, đầu ngoẹo qua bên, sau đó cô bảo, “Charlie, ý kiến tuyệt vời đó.” Cô quay qua Emma. “Vậy con có thể mô tả kỹ cho cô về tấm áo gi-lê này được không – từng chi tiết nhỏ về vị trí những kim sa, cỡ ống tay áo, chiều dài và cỡ khuyết áo?”
“Tối nào, khi Liv cởi áo ra trong phòng tắm, con cũng đều quan sát nó rất kỹ,” Emma nói. “Olivia thường chụp đại chiếc áo lên, hầu như không thèm nhìn chút nào, nó mặc áo trở vô. Vì vậy con nghĩ nó sẽ không nhận ra đâu nếu cái áo mới không chính xác trùng khớp.” Emma thò tay vô túi và rút ra một tờ giấy gấp lại, mở ra và đặt xuống trước mặt cô Alice.
“Bản phác thảo! Emma, thế này thật tuyệt!” cô Alice cúi xuống bức vẽ tấm áo gi-lê của Emma và nghiên cứu nó tỉ mỉ.
“Bà, có rủi ro gì vậy ạ?” Charlie hỏi, không thiết tha cho lắm.
“Bà tưởng con không bao giờ hỏi chứ.” Ngoại Maisie đặt một đĩa bánh nướng lên bàn và ngồi xuống. “Tancred bạn con đến đây và…”
“Tancred?” Charlie thốt lên bằng cái miệng phồng thịt gà.
“Ừ, với ria mép,” ngoại Maisie nói.
“Ria mép,” Emma ngạc nhiên. “Con hy vọng không ai trông thấy anh ấy. Con hy vọng anh ấy bình an. Ý con là con hy vọng anh ấy không bị bắt.”
“Hừ, chắc chắn bây giờ bọn chúng đã biết nó còn sống rồi.”
Ngoại Maisie vừa nói dứt câu này xong thì tay Emma vội ập vô tim, mắt cô bé mở to, lóng lánh.
“Bởi vì,” ngoại Maisie tiếp, “nó đã đến đường Piminy, bị bay hết cả nón mũ và rơi mất ria mép. Vả lại căn cứ vô thời tiết nó gây ra cũng đủ biết. Vậy nên cậu ta chỉ phải tự trách mình thôi. Thế đấy, nó đi vô Tiệm Ấm và bắt gặp thằng bé dìm người ta chết, Dagbert gì gì đó. Thằng nhóc phóng chạy ra ngoài đường, hên mà cô Ingledew trông thấy nó láng cháng bên ngoài tiệm sách, nhớn nha nhớn nhác, cho nên cô ấy đã dỗ nó vô tiệm rồi.”
“Sao bà biết hết mọi việc này thế ạ, bà Jones?” Emma hỏi.
“Dì của con gọi điện cho bà ngay trước lúc các con về tới đây. Bà bảo cô ấy có muốn nói chuyện với ông Paton không thì cô ấy trả lời dứt khoát là không.”
“Dì ấy từ bỏ ông ấy rồi.” Emma nói.
“Bỏ á?” Charlie nhấp nhổm. “Không thể nào. Mình nghĩ Ông cậu Paton muốn cưới dì ấy mà.”

“Đáng lý ra ông ấy phải nghĩ về việc đó từ trước.” Emma tỏ ra rất lạnh lùng và thực tế. Cứ như Ông cậu Paton làm chính cô bé giận hờn vậy.
Làm như để châm dầu thêm vào lửa, đúng giây phút ấy Ông cậu Paton bước vô nhà bếp. Tất nhiên ông đã nghe rõ lời nhận xét của Emma và không ai là không nhận thấy rằng ông đang rất cáu. Chẳng nói chẳng rằng, ông bước thẳng tới bệ bếp, đặt ấm nước lên và lấy một chai sữa từ trong tủ lạnh ra.
Ngay cả ngoại Maisie cũng không thốt nên lời. Emma tuy nhiên, lại phớt lờ những cảm xúc của Ông cậu Paton. “Vậy Tancred ổn chứ?” Cô bé hỏi. “Bây giờ anh ấy ở đâu ạ?”
“Tất cả ở hết trong tiệm sách rồi.” Ngoại Maisie e dè liếc nhìn Ông cậu Paton. “Bà Kettle và Tancred đã ở đó, đang cố dàn xếp mọi việc, Julia nói thế.” Bà lại liếc Ông cậu Paton một cái nữa. “Có trời biết thế có nghĩa là gì. Nhưng cô ấy gọi là vì Dagbert chỉ chịu nói chuyện với một mình con thôi, Charlie. Nó nói nó không tin ai cả ”
“Con?” Charlie nuốt chửng một miếng bánh nướng to thật to và vội chiêu nó xuống bằng một cốc trà. “Thế thì tốt hơn con nên tới đó.” Nó đứng bật dậy và, đi tới chỗ ông cậu, nó vỗ cánh tay ông và bảo. “Chào, Ông cậu Paton. Con mừng ông đã về.”
Ông cậu Paton hơi mỉm cười với Charlie và nói “Chúng ta nói chuyện sau nhé, Charlie.”
Suốt thời gian này, cô Alice vẫn đang lặng lẽ nghiền ngẫm bức phác họa của Emma. Mặc dù không nói gì nhưng cô đã chăm chú lắng nghe trọn cuộc đàm thoại, lúc này, đột nhiên cô nhìn xoáy vô Charlie và nói, “Đi cùng với con chó, Charlie à. Ngoài đường không hay gì đâu.” Rồi cô gật đầu về phía cửa sổ.
Charlie định hỏi cô xem “con chó” có nghĩa là gì thì chuông cửa reo và, chạy ra mở cửa trước, Charlie thấy Benjamin và Hạt Đậu hiện ra nơi khung cửa.
“Lạ quá trời,” Charlie nói. “Có người nghĩ đến bồ trước khi mình nghĩ tới.”
“Hả?” Benjamin nhăn mũi. “Bồ không làm sao chứ, Charlie?”
“Ừm.” Charlie cố nuốt miếng bánh nướng cuối cùng còn tắc trong cổ họng. “Mình định đi tới tiệm sách đây. Muốn đi không?”
“Thì vì vậy mình mới tới đây nè,” Benjamin nói. “Đi chứ.”
Emma hiện ra ở hành lang đằng sau Charlie, và khi cả hai đứa đã khoác áo jacket và quàng khăn vô xong, chúng nhập bọn với Benjamin trên vỉa hè rồi cả ba đứa bắt đầu đi xuôi đường Filbert, dẫn đầu bởi một con chó vô cùng năng động.
“Mấy bồ có nhận thấy gì không?” Benjamin nói, “Quá trời xe rời khỏi con đường này.”
“Cả người nữa,” Charlie quan sát. Trên đường đi từ trạm xe buýt của trường về hồi nãy, nó đã không để ý đường phố đã trở nên vắng ngắt như thế nào, bởi vì lúc đó nó mải nghĩ đến bữa trà, nhưng bây giờ nó thấy những khoảng trống rộng thênh thang ở chỗ vốn thường ngày những chiếc xe đậu nối đuôi nhau dọc theo con đường. “Tất cả mọi người đi đâu cả rồi?”
“Do sương mù đó,” Benjamin nói. “Hàng xóm hai bên nhà mình cũng đã rời thành phố. Họ nói trên radio thông báo rằng sương mù sẽ rất dày đặc, đến nỗi không thể an toàn để mà đi ra hay đi vô thành phố. Nhưng nhà mình sẽ không đi đâu hết. Ba mình nói nếu tất cả mọi người đều đi cả thì bọn vô lại sẽ rảnh tay.”
“Rảnh tay làm gì?” Emma hỏi.
Benjamin nhún vai. “Cướp bóc và tàn phá, mình nghĩ vậy.”
Nghe sao man rợ giống như thời Trung cổ quá. Charlie chưa bao giờ nghe nói đến sương mù dày đến nỗi không xuyên qua được. Chắc chắn luôn luôn phải có ít nhất cách ra hoặc vô thành phố. Nó nhẹ cả người khi nhìn thấy một chiếc xe cảnh sát đi tuần trên đường Đồi Cao vắng lặng.
Khi tới ngõ Nhà Thờ Lớn, chúng có thể nghe thấy tiếng nhạc trôi lãng đãng về phía chúng. Tiếng nhạc lớn dần và khi chúng đi ngang qua đầu đường Piminy, chúng thấy một đám rước đang thực hiện đủ thứ trò tiêu khiển. Tên thì nhún nhảy giữa đường, trong khi một nhóm nhạc công áo nhung và nón quả dưa, cao như ống khói tấu lên điệu nhạc hoang dã. Vài kẻ còn kéo loại đàn violin tí hon, một kẻ đánh trống trong khi những người khác chơi sáo, trên cây sáo của bọn họ trang trí rua băng sặc sỡ, bay phất phới trong gió, và những vũ công xoay tít theo điệu nhạc và dậm những đôi giày nhọn hoắt xuống đường.

Charlie và Benjamin há hốc mồm ra nhìn khi điệu vũ càng lúc càng quay cuồng và réo rắt. Bỗng nhiên Hạt Đậu cất tiếng sủa, thế là bao nhiêu cái đầu đồng loạt quay về phía bọn chúng. Mặt bọn vũ công xoắn lại đầy hiểm ác, Emma vội giật ống tay áo Charlie, giục giã, “Đi lẹ lên!” Chúng chạy ù té tới tiệm sách.
Tancred, đã gần trở về diện mạo của chính mình, đang sắp xếp lại những quyển sách mà khách hàng của cô Ingledew đã lấy ra xem trong ngày nhưng chưa xếp lại. Vì đã là cuối tuần nên cô Ingledew đang tính toán sổ sách bên ngăn kéo đựng tiền.
Emma chạy ào xuống những bậc thang, reo lên. “Tancred, anh an toàn! Em nghe kể hết về ria mép và những chuyện khác của anh rồi.”
“Ừm, giờ thì bọn chúng đã biết anh còn sống, vì Norton Cross đã trông thấy anh, cho nên chẳng còn cần phải giấu tông tích nữa,” cậu nói và mỉm với Emma một nụ cười chào đón đặc biệt.
“Thế…?” Charlie ngó quanh tiệm sách.
“Dagbert hả?” Cô Ingledew nói. “Nó mệt lử rồi, cho nên cô đã đưa nó vô phòng Emma ngủ một lát.”
“Ôi,” Emma không biết phải phản ứng với cái tin này ra sao.
Tấm rèm đằng sau quầy thu ngân căng phồng lên một cách đáng lo ngại, và Hạt Đậu hộc lân một tiếng tru e sợ khi bà Kettle vén rèm bước ra tiệm. “À, Charlie, cưng đã tới” bà nói. “Tốt hơn cưng đi lên nói gì với thằng bé tội nghiệp trên lầu đi. Nó đang sợ phát sốt.”
“Tội nghiệp á?” Emma phản đối. “Nó không hề tội nghiệp gì hết. Nó đã cố ý dìm chết Tancred.”
“Xem ra giờ nó vô hại rồi,” Tancred bảo, đặt quyển sách cuối cùng vô chỗ của nó. Cậu quay ra nhìn mọi người. “Cháu nghĩ nó đã thay đổi. Chẳng còn gì phải sợ nó nữa. Thậm chí cả mùi cá tanh ở nó cũng không còn.”
“Nói chuyện với nó đi, Charlie,” bà Kettle nói. “Cứ an ủi cho nó bớt sợ. Thành phố này đã quá đủ rắc rối rồi. Chúng ta cần tất cả mọi thủy thủ trên boong.”
Một kiểu nói ví von tức cười quá, Charlie nghĩ khi nó bước quành qua quầy, vô phòng khách của cô Ingledew. Nó giật mình khi thấy Dagbert đứng ở cuối phòng. Tay nó nắm chặt quả cầu bão biển, và Tancred nói đúng, trông nó hoàn toàn bình thường, chỉ như một thằng bé sợ phát hoảng và kiệt quệ. Nó hơi nhếch cười với Charlie và bảo, “Tao nghe thấy tiếng chó sủa. Họ sẽ làm gì tao hả, Charlie? Tao biết Tancred còn sống. Tao cứ tưởng là tao gặp ma.”
Charlie bước vài bước về phía Dagbert và nói khẽ “Họ sẽ chẳng làm gì mày đâu, Dagbert. Mày an toàn ở đây. Tancred không bị chết đuối, như mày đã thấy đó. Anh ấy đã tha thứ cho việc mày làm. Không việc gì phải giận dữ kẻ không tồn tại.”
Vẻ kinh hãi nháng lên trong đôi mắt xanh nhợt của Dagbert. “Nhưng tao tồn tại. Đúng không?”
“Đương nhiên,” Charlie nói rành rọt. “Nhưng thằng bé khác, tức là cái thằng bé ích kỷ, ác ôn, dìm chết người ta, từng là mày, đã đi rồi, phải không nào?”
Dagbert lật đi lật lại quả cầu bão biển trong hai tay. “Hình như đi rồi,” nó lầm bầm. “Tao không còn sợ cuộc đời tao sẽ kết thúc nữa.” Nó giơ quả cầu bão biển và nhìn con mưa sóng bạc rơi từ đỉnh xuống đáy quả cầu. Và rồi nó nhoẻn cười với Charlie một nụ cuời bình thản, sung sướng.
“Giờ mày đã là một người phe chúng ta, Dag,” Charlie nói. “Rồi mày sẽ được cần tới. Biến động sắp xảy ra trong thành phố này.”
Charlie nhận ra một làn sóng người tràn ngập căn phòng. Trước tiên là bà Kettle, rồi đến Emma và cô Ingledew, Benjamin và Hạt Đậu, cuối cùng là Tancred. Mỗi người kiếm một chỗ ngồi xuống rải rác quanh phòng và, cố không lộ liễu quá, nhìn Dagbert xem lời nói của Charlie có tác dụng hay không. Hạt Đậu dường như cũng cảm nhận được vẻ nghiêm trang của tình huống nên không vuột ra tiếng sủa nào.
“Charlie nói đúng đấy,” cô Ingledew bảo. “Có biến cố gì đó sắp diễn ra. Cô nghĩ chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ nữa thôi là chúng ta sẽ được kiểm chứng. Chắc mọi người đã để ý thấy một nửa cư dân thành phố đã rời đi. Cô đoán rằng trong vài ngày tới thậm chí còn có thêm nhiều người nữa bỏ đi, tới khi nào chỉ còn lại một nhúm người mà thôi – Họ cố rời đi trước khi sương mù cô lập chúng ta.”

Bà Kettle đứng dậy và bắt đầu đi đi lại lại trong phòng, mái tóc màu đồng khiến bà giống như đang đội mũ giáp hơn bao giờ hết. Thậm chí cái áo khoác ngắn bóng lộn của bà cũng mang dáng dấp của một tấm áo giáp. “Nhưng chúng ta phải ở lại và chiến đấu, bằng không thì cái bóng sẽ kéo toàn bộ thành phố này về quá khứ, Vua Đỏ và tất cả những gì ngài đại diện thậm chí sẽ không còn được là ký ức.”
“Chiến đấu?” Emma khẽ khàng. “Bằng cái gì?”
“Bằng bất kỳ thứ gì có trong tay, cưng à.” Bà Kettle cười khích lệ cô bé. “Rủi thay chúng ta không cách chi biết lão bá tước Harken sẽ ra tay hành động vào lúc nào và bằng cách nào. Nhưng chắc chắn nó sẽ xảy đến sớm thôi. Việc phình ra của dân cư ở đường Piminy, sự gia tăng số tượng đá, sương mù, tất cả những dấu hiệu này chứng tỏ hắn sắp tới rồi. Đường dẫn của hắn, Gương Thần Amoret, đã bị nứt, sự thật là thế, nhưng hắn sẽ tìm ra một con đường khác. Chúng ta phải thừa nhận điều đó. Dù gì hắn cũng là một thầy bùa.”
Cô Ingledew đứng lên và vỗ mấy cái gối cô vừa tựa vô. “Bà Kettle và cô đã hoạch địch như thế này. Bà ấy sẽ ở với cô và Emma; Dagbert, cả cháu nữa. Chúng ta sẽ dọn một chỗ ngủ trong phòng này. Bây giờ đường Piminy quá nguy hiểm.”
“Con còn một việc phải làm trước khi quá trễ,” Charlie bất thần kêu lên.
Mọi người quay lại nhìn nó. Bà Kettle nhíu mày lại dữ tợn. “Ta hy vọng là việc không quá nguy hiểm,” bà nói.
Charlie nhún vai. “Không hẳn. Cháu phải đưa Billy ra khỏi xứ Badlock. Cháu đã hứa với bà bếp trưởng rồi.”
Những cái nhíu mày biến thành những cái trợn mắt hoang mang.
“Giờ không phải là lúc thuận tiện,” cô Ingledew nhận xét.
“Con nghĩ bây giờ hoặc không bao giờ,” nó đáp. “Nhưng con phải tìm cho ra bức tranh xứ Badlock, không thì con không bao giờ vô đó được. Mụ Tilpin đã dời nó đi khỏi nhà nguyện cổ, nhưng con không biết mụ đã cất nó ở đâu rồi.”
“Hẳn là nó ở trong Học viện Bloor,” cô Ingledew phỏng đoán.
Charlie lắc đầu. “Không phải. Con đã tìm khắp mọi nơi. Tất cả mọi chỗ con biết. Gia đình Bloor không thích nó, cho nên bảo đảm nó không có ở chái phía Tây.”
“Không chừng nó ở Ngách Tối,” Tancred đề xuất. “Đúng ra anh cá rằng chắc chắn nó ở dưới tầng hầm nhớp nháp tại nhà một trong những bà cô của em.”
Charlie ngẫm nghĩ thấy Tancred có lý. Nhưng bà cô nào chứa bức tranh, và làm thế nào nó vô được bất kỳ căn nào trong những căn nhà rùng rợn đó mà không bị tóm? “Để mai tính đi,” Charlie nói.
Đêm buông xuống. Đến lúc Charlie và Benjamin phải về nhà. Chúng không muốn đi ngang qua đường Piminy khi trời tối, cho dù có Hạt Đậu đi cùng.
Tancred xung phong đi với chúng đến đường Đồi Cao. Emma đứng bên ngoài tiệm sách nhìn theo ba người bạn đi tới tận ngõ Nhà Thờ Lớn. “Cẩn thận nha,” cô bé gọi. Tancred quay lại vẫy. Cậu định thả một cái mi gió, ít nhất là trông như vậy đối với cô bé, nhưng rồi cậu nghĩ lại.
Khi chúng chia tay ở đường Đồi Cao, Charlie áy náy nhìn Tancred cô độc sải bước về phía khu đồi. Anh ấy phải đi một quãng đường khá xa. Sau đó anh ấy rút vật gì ra khỏi túi quần, và một ánh chớp bạc mách bảo Charlie rằng anh thời tiết đang gọi điện thoại cho cha. Vài phút sau, tiếng xe lướt gió ầm ầm của ông Torsson sẽ từ khu Đồi Cao lao ào ào xuống dốc. Nhưng trước khi bác ấy tới, có ba hình hài sáng rực phóng ra từ một con hẻm tối và quấn quanh chân Tancred, sát đến nỗi anh ấy suýt vấp phải chúng.
“Những con mèo lửa,” Benjamin nói. “Anh ấy an toàn rồi.”
“Cả tụi mình cũng vậy.” Charlie cười toét với Hạt Đậu, con chó sủa lên một tiếng tán thưởng.
Dầu cảm thấy an toàn vậy nhưng hai thằng bé vẫn nhận biết về những tiếng rì rầm bí ẩn hình như trôi lẩn quất trong không khí phía trên đầu chúng. Đồng thời chúng cũng cảm nhận những âm thanh xuyên thúc dưới đế giày của chúng, làm như bên dưới những lát vỉa hè có nhiều sinh vật sống dưới lòng đất đang động đậy. Xem ra sương mù đã tiến vô gần hơn rồi, khiến cho nhà cửa hai bên đường trông lờ mờ, xa xăm.
Lúc Charlie về đến nhà thì trời đã gần tối. Ngoại Maisie đang đứng bên cửa sổ nhà bếp ngóng ra đường. Benjamin và Hạt Đậu băng qua nhà số 12, Benjamin gào tướng lên, “Mai gặp lại nha.”
Đường Filbert vắng tanh vắng ngắt. Nhà số 12 và nhà số 9 là những nhà duy nhất lên đèn.
“Con trở về làm bà mừng hú hồn, Charlie.” Ngoại Maisie đợi cho Charlie vô nhà xong rồi đóng cửa lại và đứng dựa vô cửa. “Ngoài đó phát ớn.”

Charlie biết bà ngụ ý gì. Không còn kiểu nào khác hơn để mô tả ngoài ấy. “Dạ, ớn thật,” nó đồng ý.
“Cô Alice muốn gặp con,” ngoại Maisie bảo nó. “Cô đang ở trên gác xép.”
Charlie cởi áo jacket và tất tưởi chạy lên tầng trên cùng trong nhà. Một hàng nến cháy trên bậu cửa sổ gác xép, và cô Alice giải thích rằng Ông cậu Paton vừa giúp cô dọn dẹp. Charlie để ý một tấm áo gi-lê nhỏ màu đen đặt trên bàn máy may.
“Đến Chủ nhật nó sẽ xong,” cô Alice bảo Charlie khi cô nhận thấy nó ngó săm soi chiếc áo. “Trước tiên cô phải tìm cho đủ số kim sa bạc để đính vô. Căn phòng này là một kho tìm đồ đấy.”
Charlie đoán rằng chiếc áo gi-lê không phải là lý do thật sự khiến cô Alice muốn gặp nó. Quả nhiên, nó đoán không sai.
“Có một chuyện…” cô ngập ngừng, “rất lạ, không biết mô tả làm sao, nhưng mà lạ còn hơn cả lạ nữa. Thần diệu có lẽ đúng hơn. Phải rồi, có một chuyện thần diệu đã xảy ra ở đây trước khi cháu đi học về, Charlie à. Không có thời gian nói cặn kẽ về nó, nhưng cô nghĩ cháu nên biết, rằng có ai đó… phát tín hiệu gọi cháu.”
“Phát tín hiệu?” Charlie ngồi phịch xuống mép chiếc ghế bập bênh, và một cọng mây kêu cái đét dưới mông nó.
“Cô đã chạm vô cửa sổ, ngay đây này,” cô Alice đặt bàn tay lên tấm kính sát vai cô, “và cảm thấy có một…”
Charlie chờ cô nói tiếp, nhưng cô chỉ cười với nó một cách khó hiểu. “Một cái gì?” Nó hỏi dồn.
“Một người nữa, Charlie. Và cô nghe thấy tiếng cô bé. Cô bé hỏi cô có cháu ở đây không, và cô đành phải trả lời là không, nhưng có lẽ cháu sắp về.”
“Giọng nói đó thế nào?” Charlie hỏi, hầu như không dám thở.
“Mơ hồ, nhưng rất dễ thương. Cô tin là mình đã nói chuyện với người nào đó cách xa hàng mấy trăm năm.”
“Matilda!” Giọng Charlie mơ hồ gần như giọng của bé gái ngàn trùng xa.
Cô Alice đứng xa cửa sổ ra cho Charlie có thể chạm vô đúng chỗ tấm kính. Nó nín thở và đặt bàn tay lên cửa sổ. Mặt kính có cảm giác cứng và lạnh. Nhưng nó cứ để tay ở nguyên đó mấy phút liền.
Một lát sau, cô Alice nhỏ nhẹ, “Cô phải cảnh báo cháu, Charlie à, rằng cháu không bao giờ cảm nhận được sự liên lạc của cô bé đó đâu. Còn cô thì lại đặc biệt nhạy cảm với quá khứ.”
“Cháu sẽ đợi. Cháu sẽ đợi cho tới khi cô bé liên lạc trở lại.”
Cô Alice để mặc Charlie chồm người bên cửa sổ ở đó bàn tay nó bắt đầu tím xanh lại vì tấm kính lạnh. Lúc đóng cửa gác xép cô cảm thấy áy náy vô cùng. Chắc tại cô đã cấy vô Charlie niềm hy vọng hão huyền, khi bảo cho nó biết về bé gái xa xôi. Tuy nhiên, làm làm sao cô có thể không nói điều đó với Charlie?
Một giờ sau cô Alice mang cho Charlie một cốc ca-cao và một ít bánh quy. Nó bảo cô đặt tất cả trên chiếc bàn ọp ẹp bên cạnh nó, để nó có thể nhoài một tay ra với lấy.
“Cô bé đó lúc này chắc là đi ngủ rồi, Charlie,” cô Alice thận trọng nhấc bàn tay nó lên và áp bàn tay mình vô tấm kính. “Có lẽ Matilda không thể chạm tới cánh cổng ngăn cách giữa hai thế giới. Cô nghĩ cháu nên đi ngủ đi, Charlie, để ngày mai hẵng cố tiếp.”
Charlie lắc đầu, khăng khăng, “Cháu sẽ đợi.”
Khi cô Alice đi khỏi, nó nhấp ca-cao và đổi tay thật lẹ. “Matilda!” Nó nói sát vô tấm kính, hơi thở của nó phà cuồn cuộn ra cửa sổ. “Tớ ở đây. Charlie đây. Tớ sẽ tới xứ Badlock.”
Nhưng làm sao nó tới đó?
Charlie ngồi lại xuống chiếc ghế bập bênh và, một tay vẫn chạm vô cửa sổ, nó ngủ thiếp đi.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.