Đọc truyện Charlie Bone và Hiệp sĩ đỏ (Tập 8) – Chương 18
CHƯƠNG 15: MÀN SƯƠNG ĐỘC
Giường của Billy là một kiện rơm đâm lên ngứa ngáy, đèn thắp sáng của nó chỉ là một cây đèn cầy ốm tong mà luôn luôn cháy tàn trước khi hết đêm. Nếu không thế thì chắc hẳn là Billy đã nhận ra được khi nào đêm bắt đầu và kết thúc. Không có cửa sổ trong xà lim lạnh căm của nó. Dầu gì ít nhất nó vẫn còn có Rembrandt để mà trò chuyện.
Nhưng Rembrandt đã tìm được một bạn mới: một ả chuột be bé mắt xanh lá cây, lông màu nâu mà nó gọi là Gloria. Billy có thể thấy sức hấp dẫn của cô nàng. Gloria quả là xinh đẹp, lại được việc nữa. Nhỏ bằng nửa Rembrandt, cô nàng có thể chui qua cái lỗ tí hon trong xà lim của Billy, và có thể mang cho Rembrandt những món đặc sản mê ly bới từ thùng rác nhà bếp. Bởi vậy nên Rembrandt không cần đến thứ bánh mì đen sì của Billy, và thay vì héo hon đi thì chú chàng cứ càng ngày càng phát phì.
Bá tước Harken và vợ là những người duy nhất ở xứ Badlock từng trông thấy chuột trước khi có Rembrandt tới. Họ đã mang một cặp chuột trở về từ thành phố của Vua Đỏ cách đây nhiều năm. Nhưng đôi chuột này đã biến mất và bá tước chắc mẩm là chúng đã bị xơi tái bởi mấy tên đầy tớ tham lam (mặc dù họ thề sống thề chết là họ chưa bao giờ để mắt tới chúng). Thật ra cặp chuột tinh khôn đó đã đào hang sâu trong lòng núi và gầy dựng một gia đình. Gloria là chắt-chắt-chắt-chắt-chắt đời cuối cùng còn sống sót của chúng.
Đôi lúc Rembrandt và Gloria lôi nhau đi đâu mất mặt cả ngày. Chúng đợi cho tới khi cai ngục của Billy vô nhà bếp ăn cơm thì lẻn chui qua những thanh chắn xà lim và nhảy lên những bậc thang đá vô cung điện. Rembrandt sẽ trở về với vô vàn câu chuyện về những cuộc phiêu lưu kỳ thú của chúng và cuối cùng Billy sẽ ngủ gật trong khi giọng kể rì rầm rì rầm của con chuột cứ chít mãi chít mãi. Nếu không có những câu chuyện đó Billy nghĩ rằng chắc hẳn nó sẽ không bao giờ ngủ được.
Một tên quỷ lùn tên là Ngón Cái Dị canh giữ ngục của Billy. Hắn là một sinh vật xấu xí, lùn chè bè và có một ngón tay cái kỳ quái, to bằng cả bàn tay hắn. Hắn căm ghét tất cả mọi người và tất cả mọi thứ từ thế giới của Billy, nhất là Charlie Bone, cái thằng đã có lần lỉnh vô rồi lại lỉnh ra khỏi xứ Badlock mà không bị tóm. Thằng này cũng đã xoay xở cứu được tổ tiên nó, người khổng lồ Otus Yewbeam, ngay dưới mũi Ngón Cái Dị.
Billy đã có lần từ chối cố gắng giải cứu của Charlie. Giờ thì nó hối hận vì quyết định đó biết bao. Chỉ một tuần trôi qua trong hầm ngục rùng rợn này đã đủ bẻ gãy tinh thần Billy. Giờ nó mong ngóng về nhà không kém gì Rembrandt. Nhưng nó biết, khó mà hy vọng Charlie lại thực hiện một cuộc hành trình nguy hiểm lần thứ hai.
“Billy! Billy!”
Giọng nói khẽ khàng đó không thể đánh thức Biliy, nó đã ngủ chỏng quèo sau một trong những câu chuyện của Rembrandt. Đầu nó nằm rúc vô cái lưng mềm mềm của con chuột, mắt kính gấp lại để ngay ngắn dưới sàn kế bên nệm rơm.
“Billy! Billy!”
Lần này tiếng gọi xuyên thủng qua những giấc mơ của Billy. Nó sờ soạng tìm mắt kính, đeo lên mũi và ngồi dậy. Ánh đèn cầy leo lét trong căn phòng bên ngoài xà lim. Billy chớp mắt và cố nhìn ngó. Cây đèn cầy được nâng lên và nó thấy gương mặt của một bé gái ôm trong những lọn tóc đen dài.
“Matilda?” Billy thì thầm.
“Tớ đang dự tính làm cho cậu một chiếc chìa khóa,” Matilda nói khẽ. Cô bé chỉ cho Billy chiếc chìa khóa to sụ thường treo lủng lẳng ở cổ Ngón Cái Dị. “Tớ đã cho cai ngục của cậu uống một trong những loại thuốc ngủ của bà cố tớ. Tớ đã lén bỏ vô cốc bia của hắn trước khi đầy tớ mang xuống đây. Vì vậy Ngón Cái Dị sẽ không tỉnh lại trước khi tớ trả chiếc chìa khóa này lại cho hắn.”
“Matilda!” Billy gọi khi cô bé bắt đầu leo lên cầu thang. Sao bạn không mở cửa cho tôi ra vào lúc này?”
Cô bé quay nhìn lại, gương mặt ẩn hiện dưới ánh đèn cầy lộ vẻ hối tiếc. “Rồi cậu sẽ đi đâu, Billy? Người ta sẽ tìm thấy cậu và rồi mọi sự sẽ càng tệ hại hơn. Chúng ta phải chờ cho tới khi Charlie quay trở lại thôi.”
Billy bấu chặt lấy những song sắt xà lim. “Bạn nghĩ anh ấy sẽ trở lại à?”
“Tớ sẽ làm hết sức,” cô bé nói vẻ bí hiểm.
Khi Matilda rời hầm ngục, cô bé leo lên một dãy cầu thang dài, quanh co đến một căn phòng nhỏ ở tầng trên cùng của cung điện. Người hầu trung thành của Billy Dorgo, đang chờ cô bé. Dorgo là một cư dân từng sinh sống ở xứ Badlock trước khi lão thầy bùa xâm chiếm nơi này và biến thế giới của họ thành một nơi khô cằn, khủng khiếp. Có rất nhiều người như Dorgo ở trong cung điện. Họ là những đầy tớ đủ mọi cấp bậc và tất cả họ trông đều giống nhau, với thân hình thấp bè, có bướu, gương mặt không có lông mày, còn tóc họ (nếu có) giấu tịt trong chiếc mũ len ôm sát đầu. Tất cả họ đều có chung một đặc điểm: đó là một khi họ đã kết bạn với một chủ nhân, thì họ sẽ trung thành với người đó cho tới chết.
Dorgo vốn là một thợ rèn. Trong căn phòng nhỏ mà Matilda đã tìm ra cho mình, anh đã bày biện thành một lò rèn hiện đại nhất, và trong một cái khay bằng gỗ, có một cục đất sét mềm nhằm để đóng khuôn chiếc chìa khóa. Kim loại lỏng đang chờ sẵn trong một cái tô treo từ trên xà nhà ở ngay bên trên lò rèn xuống.
“Làm đi, Dorgo!” Matilda hối liền khi cô bé phóng vụt qua cửa. “Bao lâu thì xong?”
Dorgo không bao giờ nói nhiều. Anh cầm chiếc chìa khóa từ Matilda, ấn nó vô cục đất sét, lẩm bẩm, “Ngay!”
Thật khó mà đoán biết trong cái từ “ngay” đó gồm có bao nhiêu phút. Nhưng Dorgo không dùng phút cho nên thật vô ích khi hỏi anh thời giờ chính xác. Dù sao Matilda cũng nóng lòng muốn biết về thời gian. Lão thầy bùa có một cái đồng hồ, một cỗ máy kỳ cục có thể chỉ ra những chòm sao và mây cũng như chỉ giờ và phút, và Matilda đã học lóm được rằng có năm giờ giữa mỗi bữa ăn. Bao tử cô bé mách bảo cô bé rằng chắc chắn còn hai giờ nữa thì sẽ tới bữa tối, nhưng cô bé cần phải đem chiếc chìa khóa trả lại cho Ngón Cái Dị sớm hơn thế.
“Gặp anh trong một giờ nữa,” Matilda bảo Dorgo và, rời cái lò rèn tạm của anh, cô bé đi xuống căn phòng mà lão bá tước Harken cất giữ những bức tranh của lão. Lão thầy bùa là một họa sĩ tài ba, nhưng nhờ vào bao nhiêu tài năng và bao nhiêu yêu thuật, Matilda không thể đoán được. Dù sao cô bé chỉ chú ý tới một bức tranh. Trong số những tranh phong cảnh màu sắc rực rỡ và những tranh thú lạ kỳ, có một bức tranh về thành phố của Billy.
Matilda đã trải qua nhiều giờ ngắm nghía thành phố này. Billy đã chỉ cho cô bé biết nơi tọa lạc của Học viện Bloor, gần khu đổ nát của lâu đài nguy nga do Vua Đỏ xây nên. Vị vua là ông tằng tổ của cô bé, và cũng là tổ tiên của Billy.
Thỉnh thoảng, lúc cô bé nghe thấy có tiếng người đi tới, Matilda sẽ trốn trong những tấm toan lớn. Cô bé không bao giờ bị cấm nhìn vô căn phòng này, nhưng có gì đó luôn khiến cô bé sợ mình bị phát hiện ở trong đây. Một ngày nọ, trong lúc đang lẩn trốn, cô bé nghe thấy tiếng một phụ nữ vọng ra từ bức tranh thành phố của Billy. Và lão thầy bùa đáp lại nó. Matilda đã biết được về một phụ nữ tên là Titania như thế đó, mụ ta đang cố giúp bá tước Harken trở lại thành phố ấy. Tại sao lão ta lại thấy việc đó khó khăn dữ vậy, Matilda không thể tưởng tượng nổi.
Bức tranh đó tuyệt đẹp theo cách rất riêng của nó. Cứ như lão bá tước đã vẽ nó từ một đám mây, bởi vì ta thấy tất cả đường phố và những tòa nhà trải rộng trong một khung cảnh ngút ngàn, tuy nhiên góc cạnh của những ngôi nhà thì lại dốc đến độ ta không thể thấy những bức tường và những cánh cửa và cửa sổ xiên chếch khỏi những mái nhà lợp ngói xám.
Matilda hay ngó trân trân những tòa nhà, cố đoán xem chuyện gì đang xảy ra đằng sau những cửa sổ tôi tối kia, và thường thì cô bé nghe thấy thoang thoảng tiếng nhạc, tiếng chó sủa, tiếng ai đó hát hoặc tiếng gầm rú từ một trong những cỗ máy trông quái dị lấp đầy các con đường – xe hơi, Billy gọi chúng như vậy. Nhưng trên hết, Matilda thích ngắm ngôi nhà có một cái cây to đằng trước, bởi vì nơi đây có một cậu bé tên là Charlie Bone sống; một cậu bé dũng cảm, dám phiêu du vô xứ Badlock, một cậu bé sống xa đến chín trăm năm. Liệu cô bé có thể đi đến thế giới của Charlie? Matilda tự hỏi. Có được chăng?
Matilda đặt bàn tay lên bức tranh. Những ngón tay sờ một ô cửa sổ cao, ngay bên trên cái cây cạnh nhà số 9, đường Filbert. “Mình làm được không?” cô bé thì thầm- Được không? Charlie, bạn có ở đó không?”
Vào ngày thứ Sáu, cô Alice Angel quyết định dọn dẹp gác xép ở tầng trên cùng. Ngoại Maisie xem ra không bao giờ có thời gian để làm việc này. Những cái kệ xếp hàng hai bên tường ních đầy va-li, quần áo cũ, đồ sành sứ, sách, báo, và vô số hộp có-trời-biết-là-hộp-gì. Dưới sàn nhà bị chiếm lĩnh bởi những cây vải dài, ghế hỏng cần sửa, các loại bàn nhỏ thỉnh thoảng mới cần dùng đến, và một bàn máy may đạp chân kiểu xưa, và một cái ghế bập bênh cũ. Cô Alice đẩy chiếc ghế bập bênh tới cửa sổ và ngồi xuống. “Hừm, cửa sổ này cần lau chùi,” cô bình luận, và rà bàn tay lên khung cửa kính kít bụi bẩn.
Một cảm giác kỳ lạ bất chợt lan truyền qua các ngón tay của cô Alice. Nếu không phải là người như cô, thì hẳn cô đã nghĩ rằng bề mặt của tấm kính này bị nhiễm điện. Nhưng vì cô là cô Alice, nên cô không một chút mảy may nghĩ theo hướng đó. Là cô Alice, cô không quá ngạc nhiên khi có một giọng nói xa xăm, nhưng nghe thánh thót và trong trẻo gọi, “Charlie, bạn có ở đó không?”
“Charlie lúc này không có ở đây, cưng à,” cô Alice đáp, khẽ chạm vô tấm kính. “Cưng gọi lại sau nhé.”
“Cháu cảm ơn cô,” cái giọng đó đáp.
Cô Alice mỉm cười một mình. Cô tự hỏi giọng nói đó phải di chuyển bao xa. Qua bao nhiêu năm?
“Cháu sẽ gặp lại bạn ấy được chứ?”
Cô Alice không biết phải trả lời thế nào. Lần này giọng nói nhuốm vẻ buồn buồn và hơi lưỡng lự. Cô Alice luôn không thể nói dối. Cô chỉ nói được sự thật. “Cô không biết, cưng à.” Cô biết bé gái đó đã đi khỏi ngay khi cô vừa nói xong.
“Mình thắc mắc…” cô Alice nói một mình. Cô không thể ngồi thêm được nữa, vì vậy cô tiếp tục dọn đẹp, phủi bụi sách, sắp xếp chúng lên kệ.
Cơn mưa bất chợt ập tới. Cô Alice nhìn ra cửa sổ, hy vọng đừng báo hiệu một cơn bão nữa. Cơn bão vừa rồi đã khốc liệt quá đỗi. Dĩ nhiên cô biết kẻ nào đã gây nên nó. Cô Alice mặc nhiên nhận thức được là Lord Grimwald ở trong thành phố và cô biết hắn đang rắp tâm nhấn chìm Lyell Bone. Cô biết sứ mạng của mình là phải biết về những việc đại loại thế này. Linh cảm mách bảo cho cô rằng Lord Grimwald không còn ở đây nữa. Nhưng cũng có lúc, hiếm thôi, linh cảm phản bội cô. Cô không thể tin chắc hoàn toàn.
Mưa rơi lúc này đã rất nặng hạt. Một cơn mưa khác thường, những hạt mưa to như cả một tách nước đầy. Những tách nước mau chóng biến thành những thùng nước. Bộp! Bộp! Xe cộ hú còi, chim chóc bay tìm nơi trú ẩn.
Nhìn xuống đường, cô Alice thấy một khách bộ hành đơn độc mặc áo mưa màu nâu và đội mũ chống thấm nước rộng vành. Anh ta sải bước dài, tung tẩy cái giỏ kiểu cũ mà bác sĩ thường mang, xem ra chẳng lưu tâm gì đến cơn mưa. Anh ta dừng lại trước nhà số 9 và nhấn chuông.
Cánh cửa trước mở ra và từ hành lang xa dưới tầng một tiếng thét dội âm lên cầu thang. Cô Alice thảy quyển sách cô đang phủi bụi và chạy xuống hai tầng lầu. Khi cô xuống tới nhà bếp, cô thấy cái người đội mũ chống thấm nước kia đã ngồi ở bên bàn với cái giỏ xách trước mặt. Mũ với áo mưa rỏ nước lỏng tỏng và bộ ria mép to đùng của anh ta cũng đang nhỏ nước.
“Ngoại Maisie!” Cô Alice hét, ngó trân trân người lạ. “Tất cả… ổn chứ?”
“Ổn, ổn.” Ngoại Maisie nhíu mày trước những vũng nuớc nhỏ đang hình thành dưới sàn nhà bà vừa mới lau. “Chỉ tại tôi không quen nhìn cậu trẻ này gắn ria mép thôi.”
Tancred đưa tay lên bộ ria mép và ngoại Maisie vội can, “Đừng, đừng, đừng gở ra. Coi chừng bà Bone thấy cháu đấy.”
Ấn cho bộ ria chặt vô môi trên của mình, Tancred nói “Cháu xin lỗi cảnh bừa bộn này, bà Jones. Cháu đang luyện tập.”
“Nghĩ chu đáo đấy,” ngoại Maisie lầm bầm, với lấy ghẻ lau. “Alice, đây là Tancred Torsson, bạn của Charlie. Cứ gọi nó là cậu bé thời tiết.”
“À, cơn mưa!” Cô Alice liếc nhìn ra cửa sổ. “Vậy là không đến trường,” cô bình luận.
“Cháu bị coi là đã chết rồi,” Tancred nói rầu rầu. “Một thằng bé tên là Dagbert Endless đã dìm chết cháu… suýt chết.”
“Ra vậy,” cô Alice hiểu ngay tức khắc.
“Cháu chán quá,” Tancred tiếp. “Suốt cả tuần không có ai để nói chuyện. Cháu không biết ở trường đang có ngoài lề. Cháu sống cách đây vài dặm, cô biết không. Ở khu…” Cậu thình lình ngừng lời và nhăn mặt nhìn cô Alice, như thể cậu e là mình đã nói quá nhiều. “Xin lỗi, nhưng, cô là ai?”
“Cô là mẹ đỡ đầu của Olivia Vertigo. Olivia đang gặp rắc rối. Chính vì vậy mà cô ở đây.”
“Thật à?” Tancred chồm tới nhiệt thành. “Thì ra là vậy. Giờ cháu chẳng hề biết cái gì hết. Olivia bị rắc rối gì ạ?”
“Con bé không còn là mình nữa,” cô Alice đáp như khiển trách. “Nó bị sập bẫy đối thủ của cô.”
Tancred ngả người ra sau, cố hiểu điều này. “Á,” cuối cùng cậu nói, “chắc chắn cô hàm ý đến mụ Tilpin.”
Cô Alice thở dài. “Cô sợ là vậy.” Bất giác cô nhìn ngoái ra sau vai. “Có người đến. Tancred, chuẩn bị.”
Tancred ngồi thẳng đơ lên và đặt một tay lên túi xách. Cánh cửa bật mở và nội Bone bước vô. Mụ mặc váy ngủ và trông như đang buồn ngủ díp cả mắt. “Trà?” Mụ vừa ngáp vừa hỏi. “Giờ uống trà ư?”
“Phải đó, Grizelda,” ngoại Maisie nói và đặt ấm nước lên bếp.
Nội Bone quay qua dòm trừng trừng cô Alice và Tancred. “Các người không sống ở đây,” mụ nói.
“Tôi đang trú tạm một thời gian thôi.” Cô Alice nở với nội Bone một nụ cười ngời sáng. “Tôi là Alice Angel. Bà nhớ không?”
“Hình như nhớ. Nội Bone lại ngáp.”Thế còn mày là Tancred.”
Tancred đứng bật dậy và mở cái giỏ xách ra. Trong đó lủ khủ đồ sành sứ bể, gói qua quít bằng giấy lụa. Tancred đã thu gom hết chén dĩa bể mà mẹ cậu đã dẹp qua bên, chờ gắn lại. Bà Torsson đáng thương bây giờ chỉ toàn dùng tách với dĩa nhựa thôi, bởi vì chồng và con trai bà đã đánh bể không còn sót thứ nào với thời tiết dữ dội mà họ gây ra.
“Cái gì?” Nội Bone thò ngón tay khẳng khiu ra chọc chọc mớ chén dĩa bể. “Mày định bán cái đồ đồng nát này á? Trông chúng bể hết trơn rồi.”
“Chính xác, thưa quý bà,” Tancred nói bằng giọng eo éo. “Tôi sẽ sửa nó lại. Bà có chén dĩa bể không?”
Nội Bone nhướn đôi mắt lờ đờ nhìn Tancred. “Không. Mà nếu có ta cũng không cho mày đâu.”
Tancred dẩu mỏ ra và ngồi xuống.
“Đây này, Grizelda,” ngoại Maisie nói. “Tôi để hai chiếc bánh bích quy Marie lên đĩa cho bà đây.”
Nội Bone cầm lấy trà và bánh của mình rồi rời nhà bếp, không nói thêm lời nào nữa.
“Bà Bone có bình thường không vậy?” Tancred thì thào hỏi thầm. “Trông như bà ta đang ở đâu đâu.”
Ngoại Maisie bật cười. “Bà ta như thế kể từ khi Alice tới đây. Tôi nghĩ cô đã bỏ bùa bà ta rồi phải không, Alice?”
Cô Alice nhìn những ngón tay thon dài của mình và bảo. “Chắc là vậy. Ố, mưa tạnh rồi.”
Tancred cười bẽn lẽn và đứng lên. “Cháu định đợi Charlie về, nhưng cháu nghĩ phải một tiếng nữa nó mới về, cho nên cháu đi đây. Bảo nó ngày mai cháu sẽ gặp nó, có lẽ tại tiệm sách.”
Ngoại Maisie nhìn theo Tancred ra cửa. “Tốt hơn bà phải báo trước cho Charlie về… của cháu.” Bà gõ gõ môi trên và nháy mắt với Tancred một cái.
“Chào bà Jones.”
Tancred đĩnh đạc bước đi trên đường Filbert. Cậu để ý thấy nhiều người chất rương, hòm, giường, nệm, giỏ xách, và thậm chí cả cây kiểng lên xe hơi của họ. Dân chúng vốn thường hay ra khỏi thành phố vào ngày thứ Sáu để nghỉ cuối tuần. Nhưng đống của nả chất đầy trong mấy chiếc xe kia khiến người ta nghĩ chủ nhân của chúng đang chuẩn bị đi xa nhiều tháng, hay có khi nhiều năm vậy.
Đường Đồi Cao gần như hoang vắng. Có chuyện gì không biết? Cơn tò mò xâm chiếm Tancred. “Xin lỗi,” cậu nói với một bà mẹ trông lộ vẻ lo lắng đang đẩy con trong xe nôi. “Chắc là có gì xảy ra phải không cô? Ý cháu muốn hỏi rằng tất cả mọi người đâu cả rồi?”
“Sương mù,” người phụ nữ đáp.
“Sương mù?” Tancred nhìn ngược nhìn xuôi con đường. “Cháu không thấy sương mù gì cả.”
“Nó đang tới.” người phụ nữ bước đi khỏi.
“Đang tới?” Tancred hỏi với theo. “Làm sao cô biết? Loại sương mù gì?”
“Rất tệ. Nó từ sông lan tới.” Người phụ nữ giờ đã dợm chân chạy. “Hãy nghe radio đi thì biết.”
Tancred đúng ngây như phỗng. Cậu nhìn quanh. Các cửa tiệm đều đóng cửa. Xe gầm rú hết tốc lực trên đường Đồi Cao. Tancred đổi ý, không đi về nhà nữa. Tiệm sách gần hơn. Cậu bắt đầu chạy.
Dự tính của Tancred là chạy thẳng một mạch tới tiệm sách của cô Ingledew, nhưng khi cậu chạy ngang qua đường Piminy, có gì đó thúc giục cậu rẽ vô đấy. Cậu quyết định đến thăm bà Kettle. Đã khá lâu cậu chưa gặp bà và cậu muốn chắc chắn bà vẫn an toàn trên con phố toàn bọn vô lại và bọn ma cô này.
Không hề có dấu hiệu dân cư của đường Piminy đang chuyển đi. Mà đúng ra, thậm chí con đường này còn có nhiều người hơn bình thường. Những người ăn mặc quái đản, đã lỗi mốt từ lâu. Những người đàn ông râu ria cười ngạo mạn và sấn thẳng vô Tancred, tống cậu văng qua bên. Có những phụ nữ choàng khăn và đội nón buộc quai bóng nhẫy, váy áo họ dài lượt thượt, quệt lê dọc theo rãnh thoát nước.
Vừa tức giận vừa lo lắng, Tancred gây ra một cơn gió quét phăng qua phố. Tóc cậu dựng lên hất bay chiếc nón đi và mưa lại bắt đầu rơi xối xả.
Trong tiệm Tượng Đá, những sinh vật chạm khắc mặt mũi hung tợn ngó trợn trạo ra phố, mắt chúng loe lóe trong làn mưa chảy tuồn tuột xuống những tấm kính của sổ.
Tancred rùng mình, cắm cổ chạy tới Tiệm Ấm. Một toán thanh thiếu niên mặt mũi bợt bạt, mặc áo khoác nhung, tóc thắt bím trợn mắt lườm Tancred khi cậu ấn ngón tay vô chuông cửa, nhấn, nhấn, và nhấn. Bộ ria mép giả rớt khỏi gương mặt ướt rượt của cậu, kích động tràng cười giễu cợt ré lên từ bọn choai choai. Cậu quay qua định phả một luồng gió về hướng bọn chúng nhưng lại bị xao nhãng bởi bóng dáng của Norton Cross đang đứng ở bên kia đường, gắn tịt con mắt vô Tancred.
Cuối cùng cánh cửa được bà Kettle mở ra, cao lớn và tươi cười, mái tóc đỏ của bà ánh lên loáng nhoáng, tựa như đồng được đánh bóng. “Vô đi, cậu trẻ,” bà nói, kéo tuột Tancred qua ngạch cửa. “Còn lũ chúng mày,” bà trừng mắt với bọn loai choai, “Cút đi!” rồi đóng sầm cửa lại.
Tancred đứng bên trong tiệm, nhìn hàng hàng lớp lớp ấm sáng choang. Chỉ mới cách đây vài tuần, hầu như không một cái ấm nào là không bị bức tượng quỷ lùn, do Eric Shellhorn làm sống lại, phá hủy. “Bà đã sửa lại hết rồi ạ. Mọi thứ trông đàng hoàng quá,” cậu nói.
“Vô phòng khách của ta đi,” bà Kettle nói, dẫn đường qua khung cửa vòm vô chốn riêng tư của bà. Bỗng bà dừng sững lại, chống tay lên cằm và nói, “Ta nghĩ ta nên báo trước cho cưng biết…”
Nhưng Tancred đã trông thấy thằng bé đó, đang tỉ mẩn chà bóng một cái ấm đồng to kềnh. Đó là Dagbert- kẻ-dìm-chết-người.
Hai thằng bé nhìn sững vô nhau, chết trân, và rồi Dagbert hộc lên một tiếng rú khàn đặc, lắc đầu. “Mày chết rồi mà,” nó van vỉ. “Chết, chết, chết!” đoạn phóng sượt qua Tancred, nó lao ra khỏi tiệm.