Charlie Bone và cái bóng xứ Badlock (Tập 7)

Chương 2- Phần 1


Đọc truyện Charlie Bone và cái bóng xứ Badlock (Tập 7) – Chương 2- Phần 1

Kiện hàng trong tầng hầm
“Ê, tụi mèo đẹp!”
Trong hành lang nhà số 9, đường Filbert, có một thằng nhóc đứng ở chân cầu thang. Trông nó vừa gầy guộc vừa quắt queo. Cào mớ tóc nâu nhạt rối bù xòa trước mặt, nó thè lưỡi ra. “Những con mèo lửa! Người ta gọi tụi bay như thế đó phải không?”
Ba con mèo đang ngồi trên gióng cầu thang phía trên chiếu nghỉ, quắc mắt dòm xuống. Mình chúng khoác những bộ lông rực rỡ: màu đồng, màu cam và màu vàng. Con màu cam rít khè lên; con màu vàng giơ chân trước xòe rõ những móng vuốt nguy hiểm; con màu đồng gừ lên một tiếng đầy đe dọa.
“Sao tụi bay không thích tao? Tao thông minh hơn tụi bay. Cứ chờ đi,” thằng bé giơ nắm đấm lên, “rồi có ngày tụi bay sẽ phải hối hận”.
Cánh cửa đằng sau nó xịch mở và một giọng chói lói cất lên “Eric, mày đang làm gì đó?”
“Lại xem này.”
Hai người phụ nữ bước vào hành lang. Nếu như không có hai mươi năm cách biệt giữa họ thì chắc hẳn là họ giống nhau y đúc. Cả hai đều cao lớn, mắt đen, với cái miệng nhỏ lúc nào cũng mím lại và cái mũi dài nhọn hoắt. Có điều, trong khi tóc bà này trắng như màu của khúc xương thì tóc bà kia đen như cánh quạ.
“Nhìn ki..a..a!” Eric chỉ lên chỗ ba con mèo.
Người phụ nữ già phọt ra một tiếng gừ đặc tịt trong cổ họng. “Chúng làm gì ở đây? Tao đã cấm tiệt chúng rồi mà.”
Người phụ nữ trẻ hơn, mẹ kế của Eric, túm lấy bàn tay nó giật xệch lại, “Tao đã bảo mày không bao giờ được lại gần lũ thú đó mà.”
“Con lại gần tụi nó hồi nào” Eric cãi. “Con ở đây còn tụi nó ở trên đó chứ bộ. Với lại tụi nó đâu có cắn con”.
“Cắn chứ sao không,” bà dì ghẻ vặn lại. “Chúng là thú hoang.”
“Với trái tim báo,” bà chị đế thêm vào. Xong cất cao giọng mụ ta gọi ầm lên, “Charlie! Charlie Bone, ra đây ngay.”
Một cánh cửa trên lầu bật mở, và thoáng cái, một thằng bé tóc bù xù nhoài người qua lan can. Con mèo vàng bước đi tới gần cậu và cọ cái đầu vô cánh tay cậu. Hai con mèo khác nhảy xuống chiếu nghỉ và cũng cạ vòng tròn quanh chân cậu.
“Gì vậy, nội?” Charlie vừa vuốt đầu con mèo vàng vừa ngáp.

“Đồ lười chảy thây!” Bà nội nó cấm cẳn. “Mày vẫn còn ngủ à?”
“Đâu có.” Charlie bực bội đáp lại. “Cháu đang làm bài tập về nhà.”
“Mày đã cho lũ mèo vô nhà phải không?”
“Chúng không gây hại gì đâu,” Charlie nói.
“Gây hại thôi á?” Đôi mắt đen của nội Bone trợn lên giận dữ. “Chúng là lũ thú nguy hiểm nhất thành phố này, mau đuổi chúng ra”.
“Xin lỗi nha Nhân Mã.” Charlie nhấc con mèo vàng ra khỏi thanh gióng. “Xin lỗi nha Dương Cưu với Sư Tử,” nó nói với lũ mèo đang vờn quanh chân nó. “Nội Bone bảo các bạn phải đi đi”.
Cho dù cách phát âm hay kiểu nhả chữ của Charlie không rõ ràng nhưng xem ra lũ mèo biết chính xác nó đang nói gì. Chúng đi theo Charlie vô phòng ngủ của Charlie, khi Charlie mở cửa sổ, chúng nhảy ra, từng con một chuyền qua cành cây dẻ thò vô sát bậu cửa.
“Hẹn gặp các bạn ở quán cà phê Thú Kiểng nha.” Charlie gọi với theo khi những con mèo lửa nhảy xuống vỉa hè. Chúng đồng thanh meo lên một tiếng, nhất loạt phóng đi khiến cho một con chó bên kia đường dừng sững lại.
Charlie mỉm cười, đóng cửa sổ lại. Quay trở ra chiếu nghỉ, nó thấy bà nội, bà cô Venetia và Eric vẫn còn đang đứng nhìn chằm chằm lên.
“Chúng đi rồi à?” Nội Bone hạch hỏi.
“Dạ, nội.” Charlie uể oải.
Vừa lúc thì người phụ nữ thứ ba xuất hiện từ phòng khách. Nét mặt góc cạnh và búi tóc xám to sụ khiến nhìn vô ai cũng chắc chắn bà này có liên hệ máu mủ với hai bà kia. Đúng vậy thật, đấy là bà cô Eustacia của Charlie. Mụ ta khệ nệ ôm một vật hình chữ nhật, dẹp, bọc trong giấy màu nâu. Vật đó dài chừng mét rưỡi và rộng gần một mét.
Charlie thừa biết dù cho nó có lên tiếng hỏi về kiện hàng đó thì cũng chẳng ích chi. Thể nào câu trả lời cũng sẽ là không phải việc của nó. Nhưng nó có thể đoán được vật đó là cái gì. Trong bụng nó bỗng nổi lên nỗi phấn khích không sao kìm nén nổi.
“Mày ngó cái gì?” Bà cô Eustacia gầm gừ Charlie.
“Đi làm bài tập ngay.” Nội Bone ra lệnh.

Cái miệng mỏng quẹt của Eric nhếch ra thành một nụ cười thật khó chịu. “Tạm biệt, Charlie Bone!”
Charlie chẳng thèm đáp lại. Nó trở vô phòng và đóng cửa lại tạo ra một tiếng sầm rõ to. Nhưng rồi thì, lẳng lặng hết sức, nó mở cửa ra, he hé chút thôi. Nó muốn biết cái gì đang diễn ra với món đồ mà bà cô Eustacia khiêng tới. Rõ ràng đó phải là một bức tranh.
Đã hai năm trôi qua kể từ ngày Charlie phát hiện ra tài phép dị thường của mình. Cái ngày mà nó tự dưng nghe thấy những giọng nói phát ra từ một bức hình. Để rồi những năm tháng sau sự kiện đó Charlie thấy mình chu du vô hình chụp, nói chuyện với những người đã chết hàng bao năm trước. Sự việc tương tự cũng diễn ra khi nó tập trung nhìn vô tranh vẽ: nó có thể gặp những đồ vật trong những bức vẽ cổ, gặp cả những con người đã sống cách đây nhiều thế kỷ. Thường thì Charlie cố tránh những trường hợp như vậy – đi vô quá khứ là một chuyện, rời khỏi đó là chuyện khác. Một hay hai lần nó đã may mắn thoát ra được.
Chả hiểu sao mà cái vật hình chữ nhật bọc giấy nhăn nhóm màu nâu kia lại khuấy động trí tò mò của Charlie dữ dội. Nó áp tai vô khe cửa, lắng nghe.
“Sao cô lại mang nó tới đây, ta không thể tưởng tượng được,” tiếng bà nội nó vỡ rạn ra vì giận dữ.
“Tôi đã nói với chị rồi,” bà cô Eustacia rít chịt. “Tầng hầm nhà tôi bị ẩm ướt.”
“Thế thì treo nó lên tường.”
“Tôi không thích vậy.”
“Vậy thì đem nó cho…”
“Ấy đừng nhìn tôi thế,” bà cô Venetia giẫy nảy. “Nó khiến tôi rợn tóc gáy.”
“Mụ ta bắt tôi phải nhận,” bà cô Eustacia cáu kỉnh. “Con mẹ Tilpin đó không phải là người cho ta cãi cọ.”
Charlie suýt nghẹn thở. Nó chưa hề nghe nói đến mụ Tilpin kể từ dạo đó. Có thời mụ ta là cô giáo dạy nhạc khá xinh đẹp được gọi là cô Chrystal, nhưng chưa ai thấy mặt mụ kể từ này mụ bị lộ chân tướng là phù thủy.
“Bọn họ còn lâu mới giữ nó ở trường,” bà cô Eustacia re ré tiếp. “Ngay cả Ezekiel cũng cảnh giác với nó. Lão bảo nó đánh cắp ý nghĩ của lão, nó hút ý nghĩ của lão như nam châm… Chính miệng lão nói vậy đấy.”
“Joshua Tilpin là nam châm.” Eric chen vô.
Dì ghẻ của nó khẩy ra một tiếng cười khô khốc “Hứ! Con trai của phù thủy. Cũng một giuộc cả thôi.”

Tới đây thì cả ba bà già cũng tranh nhau nói một lúc, Charlie chẳng thể phân biệt được bà nào nói cái gì, nhưng hình như là cuối cùng nội Bone phải đồng ý cho phép bức tranh, hay bất kể nó là cái gì, được cất dưới tầng hầm nhà mụ. Nói cho ngay, đó không phải là tầng hầm của mụ, bởi vì mụ chia chung ngôi nhà này với ông cậu của Charlie, ông cậu Paton. Charlie và bà ngoại nó, ngoại Maisie, được phép sống chung ở đây cho tới khi ba mẹ Charlie đi nghỉ tuần trăng mật lần thứ hai về, và khi “Góc Kim Cương”, nhà của ba mẹ nó, được sửa xong.
Thế là bắt đầu một xâu chuỗi những tiếng lịch kịch, lụp bụp rồi tới những tiếng gắt gỏng, có lẽ là khi bức tranh được khiêng xuống tầng hầm. Cuối cùng, cửa tầng hầm đóng lại, sau đó thêm một hồi bàn cãi, lầm rầm và lách cách nữa thì nội Bone cùng hai bà em với Rirc rời khỏi nhà.
Charlie ráng chờ ở trong phòng nó cho tới khi nghe tiếng tất cả mọi người nêm vô chiếc xe của bà cô Eustacia. Thêm vài tiếng nổ máy hụt cùng một tiếng gài số xe cái rẹt, đinh óc nữa thì chiếc Ford già nua lảo đảo lao xuống đường.
Cố đợi cho năm phút nữa trôi qua, Charlie lẻn ra khỏi phòng và đi xuống lầu. Xuống tới tầng hầm nó thấy cửa đã khóa. Hên là Charlie biết tất cả chìa khóa được cất ở đâu. Nó đi vô nhà bếp, kéo ghế cặp sát cái tủ đựng chén đĩa. Đứng kiễng chân hết cỡ, nó với lấy cái hũ màu xanh da trời trang trí hình những con cá vàng.
“Con làm gì mà leo lên đó?” một giọng nói cất lên.
Charlie khựng lại. Chiếc ghế tròng trành. Charlie hét lên hết hồn. Cố giữ thăng bằng. Nó đã không nhận thấy ngoại Maisie đang hí húi quần áo ra khỏi máy giặt ở góc bếp.
“Ngoại Maisie, ngoại theo dõi con à?” Charlie dằn dỗi.
Ngoại Maisie đứng thẳng người lên. “Ta còn nhiều việc hay hơn để làm, cậu trẻ à.”
Bà ngoại của Charlie khác hẳn nội Bone một trời một vực. Ngoại Maisie không cao hơn Charlie là mấy, lại đang phải đánh vật với vấn đề giảm cân. Giữ chân đầu bếp của gia đình thì việc này không hề dễ dàng tí nào.
“Hừm,, bà tự hỏi tại sao con lại lấy mấy cái chìa khóa đó?” Gương mặt tròn xoe của ngoại Maisie trông rất tếu khi bà làm mặt nghiêm. Thậm chí nhíu mày cũng là cả cố gắng đối với bà. “Đừng chối nhé. Ở trên đó đâu có gì khác khiến cho con quan tâm.”
“Con nghĩ bà cô Eustacia vừa mới mang một bức tranh tới cất dưới tầng hầm.”
“Mụ ta cất ở đó thì sao?”
“Con… ờm, con chỉ muốn… bà à, nhìn nó một cái.” Charlie tóm vội cái hũ hình cá vàng và lôi ra một chiếc chìa khóa to phành, gỉ sét.
Ngoại Maisie lắc đầu. “Không phải ý hay đâu, Charlie.”
“Sao vậy ngoại?” Charlie đẩy cái hũ vô chỗ cũ và nhảy xuống khỏi ghế.
“Con biết bọn họ rồi còn gì,” ngoại Maisie nghiêm nghị. “Mấy bà cô nhà Yewbeam đó luôn luôn tìm cảnh phỉnh lừa con. Bộ con nghĩ bọn họ không biết con sẽ bị dụ phải xuống nhìn xem… nó là gì ư?”
“Họ không biết con đã nghe trộm đâu, ngoại Maisie.”
“Hừ!” ngoại Maisie lầm bầm. “Đảm bảo họ biết chứ sao không.”

Charlie vân vê chiếc chìa khóa trong những ngón tay. “Con chỉ muốn nhìn bên ngoài xem hình thù nó thế nào thôi. Con không bóc giấy bọc ra đâu.”
“Không ư? Coi này, Charlie, ba mẹ con đang xem cá voi ở đầu kia thế giới. Nếu có gì xảy ra với con thì bà biết ăn nói thế nào…?”
“Sẽ chẳng có gì xảy ra cho con đâu.” Trước khi ngoại Maisie kịp nói thêm lời nào thì Charlie đã xăng xái bước ra khỏi nhà bếp, đi dọc theo hành lang xuống tầng hầm. Chiếc chìa khóa xoáy cái một trong ổ khóa – dễ đến ngạc nhiên. Nhưng ngay khi cánh cửa thấp mở ra, Charlie bỗng có cảm giác chắc chắn rằng sẽ có gì đó xảy ra với mình. Không nghi ngờ gì, nó có thể cảm thấy một cú giật nhẹ nhưng dứt khoát, hút nó xuống cái cầu thang gỗ kêu cót két, và xuống, xuống nữa, cho tới khi nó đứng trong bóng tối lạnh lẽo của tầng hầm.
Gói hàng đã được dựng tựa vô tường, giữa một tấm đệm cũ và một bộ cọc treo màn gió gỉ sét. Charlie không chắc, nhưng hình như nó nghe thấy có một tiếng động nhẹ từ bên dưới lớp giấy bọc nhàu nhĩ phát ra.
“Không thể nào!” Charlie túm lấy tóc. Điều này trước đây chưa bao giờ xảy ra. Đáng lẽ nó phải thấy mặt người trước rồi mới nghe thấy âm thanh chứ. Nhưng tiếng động này vọng tới từ cái gì ngoài tầm mắt nó. Khi nó nhích về phía gói hàng, một tiếng rít ù ù vụt qua tai nó.
“Gió chắc?” Charlie vươn một tay ra.
Khi nó vừa chạm vô thì lớp giấy bọc liền kêu loạt soạt. Nguyên cả kiện hàng đột nhiên sống động hẳn lên và Charlie lưỡng lự. Nhưng cái giây nghi ngại đó lập tức bị lấn át bởi trí tò mò đang bốc ngùn ngụt trong nó, thế là nó bắt đầu xé toạc giấy gói ra. Những mảnh giấy bay tốc lên không, được nâng đỡ bởi những ngón tay luống cuống của Charlie, rồi một thứ gió bất tự nhiên, đố ai biết từ đâu thổi ra.
Bức tranh thậm chí không cần phải đợi đến lúc được mở lộ hết ra. Lâu trước khi những chỗ góc được gỡ giấy bọc, một khung cảnh rợn người bắt đầu thấm vô tầng hầm âm u. Sao lại có sự việc như thế này xảy ra? Charlie hoang mang. Nó chờ đợi cái cảm giác lộn nhào quen thuộc vốn thường trấn áp nó khi đi chu du vô tranh ảnh. Việc này chưa từng có. Nó ngây dại nhìn khi những bức tường gạch của tầng hầm bị nuốt chửng bởi một khung cảnh núi non ở đằng xa. Những ngọn tháp cao, đen thui xuất hiện ở cận cảnh; một ngọn tháp sà vô gần đến nỗi Charlie có thể ngửi thấy mùi rêu ẩm bám trên những bức tường. Những sinh vật xấu xí có vẩy chạy lúp xúp trên mặt tháp, dừng khựng lại một thoáng, ngó trân trối vô Charlie bằng những đôi mắt lấp lóe nguy hiểm.
Chắc là ảo ảnh, Charlie tự nhủ. Nó vươn tay ra… Và chạm vô cái sống lưng có gai cứng như sừng của một trong những con vật màu đen trông như con cóc đó. “Áá!” nhảy phắt ra khỏi con vật, Charlie trượt chân ngã bật ngửa. Bên dưới lưng nó thấy sỏi đá lần sần dính cỏ trơn nhầy, màu đen xám. Phía trên nó là những đám mây màu tím trôi vù vù qua bầu trời màu tro, xung quanh nó gió thét gào và đâm sầm sập, hú hét và thở dài.
“Vậy là mình đã đến nơi đó.” Charlie đứng dậy phủi lưng. “Cho dù nơi đó là nơi đâu.”
Giữa những chập nghỉ chớp nhoáng, khi gió chỉ còn rên rỉ, Charlie có thể nghe thấy tiếng những bước chân nặng nề và những tiếng nói đục nhè nhẹ. “Nó ở đây. Tao có thể ngửi thấy mùi của nó,” một cái giọng nổi rõ rệt lên.
“Nó là của tao.” Cái giọng này nhơn nhớt hệt như nước trong bồn chứa đặc sệt bát chén dơ. “Tao biết cách bắt nó.”
“Ngón Cái Dị biết,” một dàn đồng thanh chói tai, đùng đục tiếp theo sau.
Charlie lùi vòng qua tòa tháp, núp khi tiếng chân bước rầm rộ tới gần. Xem ra không có cửa sổ trong tòa nhà này và Charlie vừa mới chợt nghĩ rằng cửa lớn cũng không có luôn thì bất ngờ, nó bị tóm ngang thắt lưng rồi bị nhấc bổng lên không. Một nắm tay khổng lồ ụp vô miệng nó và một giọng ghé sát tai nó, thì thào, “Cậu bé, mạng sống của mi phụ thuộc vào sự im lặng của mi.”
Choáng sốc và á khẩu, Charlie bị troe đánh đu giật lùi qua một cánh cửa để mở rồi được đặt xuống. Nó thấy mình ở trên bậc thấp nhất của một dãy cầu thang đã hình xoắn ốc hướng đi lên cho tới khi biến mất vô bóng tối.
“Lên đi,” giọng nói đó thì thào, “nhanh hết sức đôi bàn chân mi có thể.”
Charlie leo lên những bậc thang đá, tim đập loạn xạ. Lên, lên và lên tiếp, không bao giờ dừng lại cho tới khi nó tới một cánh cửa ở bậc trên cùng. Charlie đẩy cửa mở và bước vô căn phòng phía bên kia. Một cửa sổ hẹp, cao trổ trên tường tỏa ra thứ ánh sáng u sầu xuống đồ đạc lèo tèo bên dưới, một cái giường dài nhất Charlie từng thấy, một cái bàn cao nhất, cái ghế cao nhất, và… lẽ nào đó là một chiếc thuyền, treo trên tường? Nó quay phắt lại khi chủ nhân của căn phòng khom người chui qua rầm đỡ cửa bước vô, đóng cửa, khóa lại.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.