Bạn đang đọc Biểu Tượng Thất Truyền (The Lost Symbol): Chương 25 – 27
CHƯƠNG 25
Biểu Tượng Thất Truyền
Dịch giả: Nguyễn Xuân Hồng
Chương 25
Lạy Chúa, Katherine nói đúng. Y như mọi khi.
Trish Dunne sửng sốt nhìn kết quả tìm kiếm hiển thị trên bức tường plasma trước mặt. Cô cứ đinh ninh lệnh tìm kiếm sẽ không cho ra kết quả gì cả, nhưng trên thực tế, lúc này cô đã có hơn một chục kết quả, và kết quả vẫn tiếp tục xuất hiện.
Có một kết quả trông rất hứa hẹn.
Trish xoay người và gọi to về phía thư viện.
– Chị Katherine? Em nghĩ chị muốn xem cái này đấy!
Đã vài năm kể từ lần cuối cùng Trish chạy một con nhện tìm kiếm, và kết quả tối nay khiến cô rất kinh ngạc, vài năm trước, kiểu tìm kiếm này là vô vọng. Nhưng giờ đây, dường như lượng tư liệu số hoá trên thế giới tăng vọt đến mức người ta có thể tìm thấy bất kỳ thứ gì.
Thật khó tin, chuỗi từ khoá còn chứa một từ mà Trish thậm chí chưa bao giờ nghe nói đến… và lệnh tìm kiếm vẫn tìm thấy từ đó.
Katherine chạy ào qua cửa phòng điều khiển.
– Cô thu được gì rồi?
– Cả loạt ứng viên – Trish trỏ bức tường plasma – Các tài liệu này đều chứa nguyên văn những cụm từ khoá của chị.
Katherine vén tóc ra sau tai và lướt qua danh sách.
– Chị đừng vội vui mừng, – Trish nói thêm – em có thể đoan chắc với chị rằng hầu hết mớ tài liệu này không phải là những gì chị đang tìm kiếm. Người ta gọi chúng là lỗ đen. Hãy nhìn kích thước của file mà xem. Cực kỳ lớn. Chúng tương tự tệp nén lưu lại hàng triệu thư điện tử, hàng loạt bộ bách khoa thư đồ sộ hoặc tin nhắn trên toàn cầu suốt mấy năm qua, đại loại như thế. Xét theo kích thước và nội dung đa dạng của chúng thì những file này chứa nhiều từ khoá đến mức chúng tiếp nhận bất kỳ cơ chế tìm kiếm nào đến gần.
Katherine trỏ một kết quả ở gần đầu danh sách.
– Cái này thì sao?
Trish cười. Katherine rất nhanh mắt, tin ngay ra file duy nhất có kích thước nhỏ.
– Mắt chị tinh lắm. Đúng, đó là ứng viên duy nhất của chúng ta đấy Trên thực tế, file đó nhỏ đến mức nó có thể không dài quá một trang đâu.
– Mở ra xem nào – Giọng Katherine đầy hồi hộp.
Trish không thể tin nổi là một tài liệu độ một trang lại chứa tất cả những chuỗi tìm kiếm lạ lùng mà Katherine đưa cho cô. Tuy nhiên, khi cô nhấn vào tài liệu để mở nó, các cụm từ hiện ra rất… rõ rệt và dễ nhận thấy trên văn bản.
Katherine sải bước tới gần, mắt dán chặt vào bức tường plasma.
– Tài liệu này đã bị… lọc.
Trish gật đầu.
– Chào mừng đến với thế giới văn bản số hoá.
Lọc tài liệu tự động đã trở thành một cách làm chuẩn mực khi cung cấp những tài liệu số hoá. Lọc tài liệu là một quá trình trong đó máy chủ cho phép người sử dụng tìm kiếm toàn bộ văn bản, nhưng chỉ tiết lộ một phần nhỏ của nó, tức là phần nội dung khớp với các từ khoá yêu cầu. Bằng cách loại bỏ đa số nội dung văn bản, máy chủ tránh được việc vi phạm bản quyền và cũng gửi kèm cho người sử dụng một thông điệp gợi tò mò: Tôi có thông tin quý vị đang tìm kiếm, nhưng nếu quý vị muốn phần còn lại, quý vi sẽ phải mua nó.
– Chị thấy đấy, – Trish nói, lướt qua trang văn bản đã bị lược bỏ rất nhiều – tài liệu này có đủ tất cả những cụm từ khoá của chị.
Katherine im lặng, đăm đăm nhìn đoạn văn bản hổng lỗ chỗ.
Trish để cho cô đọc khoảng một phút rồi quay trở về đầu trang.
Mỗi cụm từ khoá của Katherine đều được gạch chân và viết hoa, kèm theo một phần nội dung văn bản tìm thấy, đó là vài từ xuất hiện mỗi bên của cụm từ cần tìm.
Trish không hình dung nổi nội dung của tài liệu, và còn “đồ hình” là cái quái gì nữa không biết?
Katherine háo hức bước lại gần màn hình.
– Tài liệu này từ đâu ra vậy? Ai viết nó?
Trish đang xử lý tài liệu.
– Cho em một giây thôi. Em đang tìm cách truy nguyên.
– Tôi cần biết ai viết tài liệu này, – Katherine nhắc lại, giọng đanh hơn – Tôi muốn xem phần còn lại của nó.
– Em đang tìm cách, – Trish đáp, giật mình vì giọng nói sắc lạnh của Katherine.
Lạ thay, vị trí của file không hiển thị như một địa chỉ web truyền thống mà lại là một địa chỉ Giao thức Intemet (IP) số.
– Em không truy được IP, – Trish thông báo – Tên miền không xuất hiện. Xem nào! – Cô kéo cửa sổ gốc của mình lên – Em sẽ chạy lệnh truy dấu.
Trish gõ chuỗi lệnh để ping(48) tất cả các “bước truyền” giữa máy móc trong phòng điều khiển của cô và bất cứ máy nào đang lưu tài liệu này.
– Truy tìm ngay nào, – cô nói và cho chạy lệnh.
Lệnh truy dấu hoạt động cực nhanh, và một danh sách dài dằng dặc các thiết bị mạng xuất hiện gần như ngay lập tức trên bức tường plasma. Trish lướt xuống phía dưới… xuống nữa… qua tất cả các thiết bị định tuyến và chuyển đổi có kết nối với máy của cô…
– Thế quái nào ấy nhỉ?
Lệnh truy dấu của cô dừng lại trước khi đến được máy chủ của tài liệu. Vì một lý do nào đó, lệnh ping của cô vấp phải một thiết bị mạng nuốt chửng nó thay vì hất nó trở lại.
– Xem chừng lệnh truy dấu của em bị chặn, – Trish nói. Trường hợp này cũng có thế xảy ra ư?
– Cho chạy lại đi.
Trish chạy lệnh truy dấu khác và gặp kết quả tương tự.
– Không được. Ngõ cụt rồi. Hình như tài liệu này nằm trên một máy chủ không thể truy dấu được – Cô nhìn những bước truyền cuối cùng ngay trước “ngõ cụt” – Nhưng em đoan chắc với chị rằng nó nằm đâu đó ở Washington D.C. này thôi.
– Cô đùa đấy à?
– Có gì lạ đâu chị, – Trish nói – Các chương trình nhện này chạy xoắn ốc theo yếu tố địa lý, có nghĩa là những kết quả đầu tiên luôn gần quanh đây, thêm nữa, một trong các chuỗi tìm kiếm của chị là “Washington D.C.” mà.
– Nếu dùng giao thức “who is”(49) thì sao? – Katherine gợi ý – Liệu nó có cho cô biết ai sở hữu tên miền không?
Hơi vớ vẩn nhưng không phải là một ý tưởng tồi. Trish tìm tới cơ sở dữ liệu “who is” và chạy lệnh tin kiếm IP, hy vọng khớp được các con số bí ẩn với một tên miền có thật. Tâm trạng thất vọng của cô giờ đã bớt nhờ sự tò mò càng lúc càng tăng. Người nào có tài liệu này nhỉ? Các kết quả “who is” xuất hiện rất nhanh, nhưng không có kết quả nào thích hợp, Trish đành giơ tay chịu thua.
– Hình như địa chỉ IP này không tồn tại. Em không thể dò ra thông tin gì về nó.
– Rõ ràng IP có tồn tại. Chúng ta vừa tìm thấy một tài liệu lưu trữ ở đó mà!
– Đúng, và hiển nhiên ai đó có tài liệu này không hề muốn để lộ nhận dạng. Em không biết nói gì với chị. Truy dấu hệ thống thực sự không phải là sở trường của em: Có lẽ chị nên mời ai đó có kỹ năng xâm nhập hệ thống. em thì chịu thua rồi.
– Cô quen ai như thế không?
Trish quay lại, đăm đăm nhìn sếp của mình.
– Chị Katherine, em đùa đấy. Chính xác thì đó không phải là một ý hay đâu.
– Nhưng nó có tác dụng phải không? – Katherine xem đồng hồ.
– A vâng… luôn luôn. Về mặt kỹ thuật thì rất dễ dàng.
– Cô có quen ai không?
– Các hacker hả? – Trish cười – Phân nửa số đồng nghiệp cũ của em thạo việc này.
– Có ai cô tin tưởng không?
Chị ấy nói thật đấy à?
Nhận thấy Katherine cực kỳ nghiêm túc, cô vội đáp:
– Chà, vâng. Em biết một người nhờ được. Anh ấy là chuyên gia an ninh hệ thống của chúng em, một chuyên viên máy tính siêu hạng. Anh ấy muốn hò hẹn với em, kiểu bông lơn ấy mà, nhưng đó là một anh chàng tốt, và em tin tưởng anh ấy. Anh ấy làm việc tự do.
– Cậu ta có kín tiếng không?
– Anh ấy là một hacker. Dĩ nhiên là anh ấy phải kín tiếng. Đó là việc anh ấy làm mà. Nhưng em tin chắc anh ấy sẽ đòi ít nhất 1000 đô la chỉ để nhìn…
– Gọi cho cậu ta đi. Trả cậu ấy gấp đôi nếu tìm ra kết quả nhanh.
Trish không biết điều nào khiến cô khó chịu hơn, giúp Katherine Solomon thuê một hacker hay gọi cho anh chàng mà đến nay vẫn không sao chấp nhận nổi việc cô chuyên gia phân tích siêu hệ thống tóc đỏ béo lùn lại cự tuyệt lời tán tỉnh của mình.
– Chị chắc chắn chứ?
– Dùng điện thoại trong thư viện ấy, – Katherine dặn – Nó có thể chặn các cuộc gọi đến, và đương nhiên là không sử dụng tên tôi nhé.
– Vâng – Trish đi ra cửa, nhưng dừng lại khi nghe thấy iPhone của Katherine kêu. Nếu may mắn, tin nhắn đang tới kia sẽ là thông tin giúp cô thoát khỏi nhiệm vụ không lấy gì làm thú vị này. Cô nấn ná đợi Katherine lấy iPhone ra khỏi túi áo choàng và đọc màn hình.
Katherine Solomon nhẹ cả người khi nhìn cái tên xuất hiện trên iPhone.
Có thế chứ!
PETER SOLOMON
– Tin nhắn của anh tôi, – cô nói, mắt liếc Trish.
Trish lộ vẻ hy vọng.
– Có lẽ chúng ta nên hỏi ý kiến ông ấy… trước khi liên hệ với một hacker chăng?
Katherine đọc tài liệu trên bức tường plasma và nghe thấy rõ giọng nói của bác sĩ Abaddon. Có thể tìm được… thứ mà anh trai bà tin rằng đang giấu ở thủ đô. Katherine không còn biết tin vào điều gì nữa, và tài liệu kia ẩn chứa thông tin về những ý tưởng cường điệu rõ ràng đã làm Peter ám ảnh.
Katherine lắc đầu.
– Tôi muốn biết ai viết tài liệu này và nó nằm ở đâu. Cứ liên hệ đi.
Trish cau mày và đi ra phía cửa.
Cho dù tài liệu này có thể giải thích được điều bí ẩn về những gì anh trai cô đã nói với bác sĩ Abaddon hay không, chí ít hôm nay cũng đã giải quyết xong một khó khăn. Cuối cùng thì anh trai cô đã biết cách sử dụng chức năng nhắn tin trên chiếc iPhone mà Katherine tặng cho ông.
– Và nhớ báo cho giới truyền thông nhé. – Katherine gọi với theo Trish – Ngài Peter Solomon vĩ đại vừa gửi được tin nhắn đầu tiên.
***
Ở bãi đỗ xe bên kia phố chếch với SMSC. Mal’akh đứng bên cạnh chiếc Limousine của gã, duỗi chân và đợi cú điện thoại mà gã biết chắc là sẽ tới. Mưa đã ngớt, mặt trăng mùa đông bắt đầu ló ra khỏi những đám mây. Vẫn là vầng trăng đã chiếu xuống Mal’akh qua mắt vòm trần nhà Thánh điện Hội Tam điểm ba tháng trước trong lễ nhập môn của gã.
Thế giới đêm nay khác hẳn.
Trong khi chờ đợi, dạ dày gã lại quặn lên. Việc nhịn ăn hai ngày qua, mặc dù rất khó chịu, lại rất cần thiết cho việc chuẩn bị của gã.
Đó là nghi thức cổ xưa. Chỉ ít lâu nữa, tất cả những khó chịu thể xác sẽ không còn đáng kể nữa.
Đứng dưới trời đêm lạnh lẽo, Mal’akh cười khùng khục khi thấy khá mỉa mai là số phận đã gửi gắm gã vào cổng một nhà thờ nhỏ. Ở đây nép giữa Trung tâm Nha khoa Sterling và một siêu thị nhỏ, là một thánh đường nhỏ bé.
TOÀ NHÀ VINH QUANG CỦA CHÚA.
Mal’akh đăm đăm nhìn ô cửa sổ, ở đó hiện rõ một phần tuyên ngôn mang tính học thuyết của nhà thờ: CHÚNG CON TIN RĂNG ĐỨC JESUS CHRIST ĐƯỢC SINH RA BỞI CHÚA THÁNH THẦN, DO ĐỨC MARY ĐỒNG TRINH SINH NỞ, VÀ VỪA LÀ CHÚA VỪA LÀ CON NGUỜI TOÀN HẢO.
Mal’akh mỉm cười. Phải. Jesus trên thực tế là cả hai – con người và Chúa – nhưng điều kiện tiên quyết của thánh thần không phải là có một bà mẹ trinh nữ. Mà là cách thức trở thành thánh thần.
Tiếng chuông điện thoại di động vang lên trong đêm, khiến mạch gã đập nhanh. Chiếc điện thoại đang đổ chuông lúc này là điện thoại của Mal’akh, loại rẻ tiền dùng một lần mà gã mới mua hôm qua. Nhận dạng của người gọi cho biết đó là cuộc gọi mà gã đang trông đợi.
Một cuộc gọi nội hạt, Mal’akh trầm ngâm, nhìn ngang qua bên kia phố Silver Hill về phía đường viền mái nhà dích dắc vượt lên khỏi các ngọn cây, lờ mờ dưới ánh trăng. Mal’akh bật điện thoại.
– Tôi là bác sĩ Abaddon, – gã nói, cố tình trùng giọng xuống.
– Katherine đây. – giọng người phụ nữ vang lên – Cuối cùng tôi cũng đã có tin của anh trai mình.
– Ồ tôi thấy nhẹ cả người. Ông ấy thế nào?
– Anh ấy đang trên đường tới phòng thí nghiệm của tôi – Katherine thông báo – Anh ấy đề xuất mời anh cùng tham gia với chúng tôi.
– Sao cơ ạ? – Mal’akh vờ ngập ngừng – Trong phòng thí nghiệm… của bà à?
– Chắc chắn là anh ấy rất tin tưởng anh. Anh ấy chưa bao giờ mời bất kỳ ai tới đó cả.
– Hẳn ông ấy nghĩ một cuộc viếng thăm sẽ giúp ích cho những cuộc thảo luận của chúng tôi, nhưng tôi cảm thấy như thế hơi mang tính chất xâm phạm.
– Nếu anh trai tôi nói rằng anh được hoan nghênh thì anh sẽ được hoan nghênh. Thêm nữa, Peter nói anh ấy có nhiều điều cần trao đổi với cả hai chúng ta, và tôi rất muốn được biết ngọn ngành mọi chuyện đang diễn ra.
– Vậy thì được. Chính xác thì phòng thí nghiệm của bà ở đâu?
– Tại Trung tâm Hỗ trợ Bảo tàng Smithsonian. Anh có biết chỗ đó không?
– Không. – Mal’akh nói, dõi mắt qua bãi đỗ xe về phía toà nhà – Thực ra tôi đang ở trong xe, và tôi có hệ thống chỉ dẫn. Địa chỉ thế nào nhỉ?
– Số 4210 phố Silver Hill.
– Vâng, chờ tôi chút. Tôi sẽ nhập vào hệ thống – Mal’akh đợi khoảng mười giây và lên tiếng – à, hay quá, có vẻ như tôi ở gần hơn mình nghĩ. Hệ thống GPS cho biết tôi chỉ mất khoảng chục phút là tới nơi.
– Tuyệt. Tôi sẽ gọi cho bộ phận an ninh và báo với họ rằng anh sẽ qua đó.
– Cảm ơn bà.
– Gặp anh sau.
Mal’akh nhét điện thoại vào túi và ngó về phía SMSC. Mình tự mời mình liệu có khiếm nhã không nhỉ? Mỉm cười, gã rút chiếc iPhone của Peter Solomon ra và đọc lại tin nhắn gã gửi cho Katherine vài phút trước đó.
Đã nhận được tin nhắn của em. Vẫn ổn. Bận suốt ngày. Quên cá hẹn với bác sĩ Abaddon. Xin lỗi không giới thiệu cậu ta sớm hơn. Chuyện dài lắm. Giờ đang tới phòng thí nghiệm. Nếu được, mời bác sĩ Abaddon cùng tham gia với chúng ta. Anh hoàn toàn tin tướng cậu ấy, và anh có nhiều việc cần nói với cá hai người. – Peter
Không có gì lạ, giờ chiếc iPhone của Peter phát tín hiệu nhận trả lời từ Katherine.
Anh Peter, chúc mừng anh đã học được cách nhắn tin! Biết anh vẫn ổn em rất yên tâm. Đã nói chuyện với Bs. A., cậu ta đang tới phòng thí nghiệm. Lát gặp! – K.
Siết chặt chiếc iPhone của Solomon, Mal’akh cúi xuống phía dưới chiếc Limousine và gài điện thoại vào giữa bánh trước và vỉa hè.
Chiếc điện thoại này phục vụ gã rất đắc lực… nhưng giờ đã đến lúc nó cần biến mất không dấu vết. Gã leo lên sau tay lái, cài số, và cho xe trườn lên phía trước cho tới khi nghe tiếng rắc rắc đanh gọn vì bị nghiền nát của chiếc iPhone.
Mal’akh lùi xe trở lại bãi đỗ và chăm chú nhìn bóng toà nhà SMSC phía xa. Mười phút. Nhà kho của Peter Solomon chứa hơn 30 triệu báu vật, nhưng đêm nay, Mal’akh đến đây để phá huỷ hai thứ giá trị nhất mà thôi.
Tất cả những nghiên cứu của Katherine Solomon.
Và chính Katherine Solomon.
Chú thích:
(48) Ping là một tiện ích đi kèm trong UNIX, Intemet và các hệ thống mạng TCP, IP. Ping tương đương với một tiếng la trong hẻm núi và lắng nghe tiếng vọng lại của nó. Ta “ping” một máy chủ khác trên hệ thống mạng để xem máy chủ đó có thể tiến đến được từ máy chủ của ta hay không. Câu lệnh có dạng ping ip address, trong đó ip address là địa chỉ IP của máy chủ mà bạn muốn liên lạc Ping sử dụng giao thức ICMP (Intemet Control Message Protocol: Giao thức điều khiển thông báo trên Intemet) để giải quyết công việc của nó. Nói một cách cụ thể, nó gửi đi một thông báo kiểu tiếng vang ICMP đến máy chủ được chỉ định – ND.
(49) Whois là một giao thức giúp người dùng truy vấn thông tin về domain và IP thông qua cơ sở dữ liệu của các Whois server. Có 2 loại: Whois Domain và Whois IP. Whois Domain cho phép lấy thông tin khách hàng đăng ký từ cơ sở dữ liệu Whois của nhà đăng ký tên miền, còn Whois IP cho phép lấy thông tin về địa điểm (nhà cung cấp dịch vụ Internet, quốc gia) của máy chủ – ND.
CHƯƠNG 26
Biểu Tượng Thất Truyền
Dịch giả: Nguyễn Xuân Hồng
Chương 26
– Giáo sư Langdon ư? – Sato gọi – ông nhìn thấy ma đấy à? Ông không sao chứ?
Langdon xốc chiếc túi xách lên vai và đặt bàn tay của mình lên nó, tưởng như hành động này ít nhiều giúp anh giấu kỹ hơn cái gói hình khối hộp bên trong. Anh cảm nhận được mặt mình xám ngoét.
– Tôi… chỉ thấy lo cho Peter.
Sato nghếch mặt, liếc xéo anh.
Langdon đột nhiên cảnh giác, sự can thiệp của Sato tối nay rất có thể liên quan đến cái gói nhỏ mà Solomon tin tưởng giao cho anh.
Peter đã cảnh báo: Những kẻ rất có thế lực đang nhăm nhe đánh cắp nó. Thứ bùa này sẽ rất nguy hiểm nếu rơi vào tay kẻ ác. Langdon không lý giải nổi tại sao CIA lại cần một chiếc hộp nhỏ chứa bùa phép… hoặc cái gì tương tự bùa phép. Ordo ab chao chăng?
Sato bước lại gần hơn, đôi mắt đen đầy soi mói.
– Tôi cảm thấy ông đã phát hiện ra gì đó thì phải?
Langdon toát mồ hôi.
– Không, không hẳn.
– Ông đang toan tính gì vậy?
– Tôi chỉ… – Langdon ngập ngừng, chẳng biết nên nói thế nào.
Anh không có ý định tiết lộ về sự tồn tại của cái gói nằm trong túi mình, nhưng nếu Sato dẫn anh tới CIA thì chắc chắn cái túi sẽ bị khám xét – Thực ra… – anh bịa chuyện – tôi có một ý tưởng khác về những con số trên bàn tay Peter.
Sato không biểu lộ gì.
– Sao nào? – Bà ta liếc Anderson, lúc đó vừa quay lại sau khi đón nhóm pháp y mới tới.
Langdon nuốt khan và cúi rạp xuống bên bàn tay, băn khoăn không biết nên nói gì với họ bây giờ. Mày là một giáo viên cơ mà? Robert, ứng biến đi. Anh quan sát kỹ lần cuối bảy biểu tượng nhỏ xíu, hy vọng gợi ra được chút liên tưởng nào đó.
Chẳng ích gì. Trống rỗng.
Langdon dùng khả năng ghi nhớ bằng hình ảnh duyệt lại các bộ bách khoa thư về biểu tượng trong óc mình, nhưng chỉ tìm được một điểm khả dĩ bấu víu. Nó xuất hiện với anh ngay từ đầu, nhưng xem chừng không thuyết phục lắm. Tuy nhiên, lúc này không còn nhiều thời gian cân nhắc nữa.
– Chà, – anh bắt đầu nói – dấu hiệu đầu tiên khiến một nhà ký tượng học biết rằng mình đang đi sai hướng khi giải đoán các biểu tượng và mật mã là diễn giải các biểu tượng bằng cách sứ dụng nhiều ngôn ngữ tượng hình. Chẳng hạn, khi tôi nói với quý vị câu này là của La Ma và A rập thì đó là một phân tích kém bởi vì tôi sử dụng nhiều hệ thống biểu tượng. Với chữ La Mã và chữ rung cũng y như vậy.
Sato khoanh tay và nhướng mày như muốn nói “Tiếp đi xem nào!”
– Nhìn chung, giao tiếp được thực hiện bằng một ngôn ngữ, không phải nhiều ngôn ngữ, vì thế trước bất kỳ văn bản nào, công việc đầu tiên của nhà ký tượng học là phải tìm một và chỉ một hệ thống biểu tượng nhất quán áp dụng cho toàn bộ văn bản đó.
– Giờ ông đã thấy một hệ thống duy nhất?
– Chà, vâng… à không – Kinh nghiệm về sự đăng đối của các biểu tượng hai chiều đối xứng đã dạy cho Langdon biết rằng đôi khi các biểu tượng có ý nghĩa nếu nhìn từ nhiều góc độ. Trong trường hợp này, anh nhận ra trên thực tế có một cách để quan sát cả bảy biểu tượng bằng một ngôn ngữ duy nhất – Nếu chúng ta thay đổi bàn tay một chút, ngôn ngữ sẽ trở nên nhất quán.
Lạ thay, thao tác Langdon sắp thực hiện dường như giống hệt với điều mà kẻ bắt giữ Peter gợi ý lúc gã nói ra câu ngạn ngữ Hermetic cổ xưa. Thương hạ tương liên.
Langdon rùng cả mình khi nhoài người lên, vớ lấy cái đế gỗ cắm bàn tay Peter. Nhẹ nhàng. anh xoay ngược cái đế để cho các ngón tay duỗi trỏ thẳng xuống phía dưới. Những biểu tượng trong lòng bàn tay lập tức thay đổi:
– Nhìn từ góc độ này, – Langdon nói – X-I-I-I trở thành một số La Mã có giá trị: số 13. Đồng thời, có thể diễn giải các ký tự còn lại bằng cách sử dụng bảng chữ cái La Mã: SBB – Langdon cho rằng phân tích của mình sẽ chỉ dẫn tới những cái nhún vai hời hợt, nhưng nét mặt Anderson lập tức thay đổi.
– SBB à? – viên Chỉ huy kêu lên.
Sato quay phắt về phía Anderson.
– Nếu tôi không nhầm thì nó khá giống một hệ thống đánh số quen thuộc trong Điện Capitol này.
Anderson tái mặt.
– Đúng thế.
Sato nở một nụ cười thâm hiểm và gật đầu với Anderson.
– Chỉ huy, theo tôi nào. Tôi muốn nói vài lời riêng với anh.
Khi Giám đốc Sato dẫn Chỉ huy Anderson ra khỏi tầm nghe, Langdon còn lại một mình ngơ ngác. Chuyện quái gì đang diễn ra đây vậy?
***
Chỉ huy Anderson băn khoăn không hiểu tại sao tình hình tối hôm nay lại diễn biến kỳ lạ đến thế. Bàn tay nói tới SBB13 ư? Anh ta rất ngạc nhiên vì có kẻ ngoại đạo lại nghe nói tới SBB… thậm chí rành rẽ là SBB13. Ngón tay trỏ của Peter Solomon không muốn bảo họ lên trên như lúc đầu… mà chỉ theo một hướng hoàn toàn ngược lại.
Giám đốc Sato dẫn Anderson tới một khu vực yên tĩnh gần bức tượng đồng của Thomas Jefferson.
– Chỉ huy, – bà ta hỏi – tôi tin anh biết chính xác SBB13 nằm ở chỗ nào phải không?
– Dĩ nhiên rồi.
– Anh có biết bên trong là gì không?
– Không, không thể biết nếu không xem. Tôi nghĩ nó dừng hoạt động mấy thập kỷ nay rồi.
– Chà, anh sẽ mở nó nhé!
Anderson rất khó chịu vì bị sai khiến ngay trong toà nhà do mình quản lý.
– Thưa bà, như thế rất dễ có vấn đề. Tôi sẽ phải kiểm tra bảng phân công nhiệm vụ trước đã. Bà biết đấy, hầu hết các tầng phía dưới đều là văn phòng riêng hoặc nhà kho, và quy trình an ninh rất coi trọng sự riêng tư…
– Anh sẽ mở SBB13 cho tôi, – Sato nói – hoặc tôi sẽ gọi OS và cử một đội mang theo máy phá tường tới đấy.
Anderson trợn mắt nhìn Sato một lúc lâu rồi rút bộ đàm ra, đưa lên miệng.
Anderson đây. Tôi cần ai đó mở SBB. Trong vòng năm phút nữa, cho người tới gặp tôi tại đó nhé.
Giọng trả lời nghe có vẻ lúng túng.
– Chỉ huy, xin xác nhận là anh vừa nói SBB phải không?
– Đúng. SBB. Cử ai đó tới ngay lập tức, và tôi cần đèn pin – Anderson tắt bộ đàm. Tim anh ta đập rộn lên khi Sato bước lại gần, hạ giọng thấp hơn nữa.
– Chỉ huy, thời gian rất gấp – bà ta thì thào – và tôi muốn anh đưa chúng tôi xuống SBB13 càng nhanh càng tốt.
– Vâng, thưa bà.
– Tôi cũng cần anh giúp một việc khác nữa.
Mở cửa và xông vào vẫn còn chưa đủ ư? Anderson đang ở tình thế không phản đối được, nhưng vẫn không quên chú ý rằng Sato đến nơi chỉ vài phút sau khi bàn tay của Peter xuất hiện trong Nhà tròn, và giờ đây bà ta đang tận dụng tình huống này để đòi xâm nhập khu vực riêng của Điện Capitol. Dường như tối nay bà ta đã đi quá giới hạn cho phép.
Sato ra hiệu về phía vị Giáo sư.
– Cái túi da trên vai Langdon.
Anderson liếc mắt nhìn.
– Sao cơ?
– Tôi cho rằng người của anh đã soi cái túi đó khi Langdon vào toà nhà này?
– Dĩ nhiên. Tất cả các túi đều được soi kỹ.
– Tôi muốn xem bản soi đó. Tôi muốn biết trong túi có cái gì.
Anderson nhìn chiếc túi mà Langdon đeo khư khư suốt buổi tối.
– Nhưng… hỏi thẳng ông ta thì không đơn giản hơn à?
– Yêu cầu của tôi có gì không rõ chăng?
Anderson lại rút bộ đàm ra và thông báo đề nghị của Sato. Sato cho biết địa chỉ Blackberry và yêu cầu người của anh ta gửi ình một bản X quang số hoá qua email ngay khi họ tìm được nó.
Anderson miễn cưỡng nghe theo.
Lúc này nhóm pháp y đang định thu lấy bàn tay để chuyển cho Cảnh sát Điện Capitol, nhưng Sato ra lệnh cho họ gửi thẳng tới đơn vị của bà ta ở Langley. Anderson quá mệt mỏi nên chẳng buồn phản đối. Anh ta đã bị cỗ xe lu Nhật Bản nhỏ xíu ấy nghiến dẹp lép rồi.
– Tôi muốn cả cái nhẫn đó nữa – Sato gọi với theo nhóm pháp y.
Kỹ thuật viên trưởng toan tranh cãi, nhưng nghĩ lại chẳng nên. Anh ta tháo cái nhẫn vàng khỏi tay Peter, đặt nó vào một túi lấy mẫu sạch sẽ và đưa cho Sato. Bà ta đút tọt nó vào túi áo khoác rồi quay về phía Langdon.
– Chúng ta đi chứ, Giáo sư. Mang theo đồ đạc của ông.
– Chúng ta đi đâu? Langdon hỏi lại.
– Cứ theo ông Anderson thôi.
Ờ, Anderson nghĩ, và theo sát tôi đấy! SBB là khu vực rất ít người ghé thăm trong Điện Capitol. Để tới đó, họ sẽ phải qua một mê cung toàn những căn buồng bé xíu và những lối đi hẹp nằm ngay bên dưới tầng hầm. Cậu con trai út của Abraham Lincoln bị lạc dưới đó và suýt bỏ mạng. Anderson bắt đầu ngờ rằng nếu Sato có ý đồ gì thì chắc Robert Langdon sẽ chịu số phận tương tự.
CHƯƠNG 27
Biểu Tượng Thất Truyền
Dịch giả: Nguyễn Xuân Hồng
Chương 27
Chuyên gia an ninh hệ thống Mark Zoubianis luôn tự hào rằng mình có khả năng làm nhiều công việc: Lúc này, anh ta đang ngồi trên ghế phô-tơi với một chiếc điều khiển TV, một điện thoại không dây, một máy tính xách tay, một máy PDA, và một bát Pirate’s Booty(50) to tướng. Một mắt thì để ý trận đấu của đội Redskins đã tạm tắt tiếng còn một mắt để vào chiếc máy tính, Zoubianis đang nói chuyện qua tai nghe Bluetooth với một phụ nữ đã bặt tin tức hơn một năm nay.
– Thế quái nào mà Trish Dunne lại gọi tới vào đúng buổi tối có trận đấu quyết định thế này chứ? Lại một lần nữa thể hiện sự vô lý của mình, người đồng nghiệp cũ đã chọn đúng trận đấu của đội Redskins làm thời điểm để chuyện phiếm với Zoubianis và nhờ giúp một việc. Sau một hồi chuyện trò qua loa về những ngày trước kia và nói rằng cô nhớ những lời bông đùa tuyệt vời của anh ta, Trish đi thẳng vào vấn đề chính: cô đang tìm cách xác định một địa chỉ IP ẩn, có lẽ đó là một máy chủ bảo mật thuộc khu vực Washington D.C. Máy chủ này có một văn bản nhỏ và cô muốn truy cập vào nó… hoặc ít ra thì cũng khai thác thông tin xem tài liệu thuộc về ai.
Đúng người nhưng không đúng lúc, Zoubianis bảo cô. Thế là Trish tuôn ra tràng giang đại hải những lời tán tụng, hầu hết đều là sự thật, và Zoubianis chẳng biết mình gõ một địa chỉ IP rất lạ vào máy tính tự lúc nào.
Zoubianis nhìn con số và nhận ra ngay rằng công việc không dễ dàng gì.
– Trish. IP này có định dạng hiện đại lắm. Nó được viết theo một giao thức thậm chí còn chưa trình ra công chúng. Có lẽ nó thuộc giới quân sự hoặc tình báo chính phủ.
– Quân sự à? – Trish cười – Tin em đi, em vừa lôi một tài liệu soạn lại từ máy chủ này mà, và nó không phải của quân đội.
Zoubianis kéo cửa sổ gốc của mình lên và thử truy dấu.
– Em bảo rằng truy dấu của em bị tắc à?
– Vâng. Hai lần. Cùng một bước truyền.
– Của anh cũng thế – Anh ta kéo một trình dò tìm chẩn đoán và chạy thử – Thế IP này có gì hay ho vậy?
– Em chạy một trình uỷ thác sử dụng cơ chế tìm kiếm ở IP này và thu được một tài liệu đã lọc. Em cần xem nội dung còn lại của lài liệu.
– Em sẵn sàng trả tiền, nhưng em không tài nào xác định được ai là người sở hữu IP hay làm cách nào truy cập được nó.
Zoubianis cau mày nhìn màn hình.
– Em có chắc không đấy? Anh đang chạy một trình chẩn đoán, và mã tường lửa trông… rất thâm nghiêm.
– Thế anh mới được trả nhiều tiền.
Zoubianis ngẫm nghĩ. Họ trả cho anh ta cả đống tiền để làm một việc dễ dàng.
– Hỏi một câu thôi, Trish. Tại sao em quan tâm đến vụ này thế?
Trish do dự.
– Em làm giúp một người bạn.
– Chắc phải là bạn rất đặc biệt.
– Vâng.
Zoubianis cười khan nhưng không nói gì. Tôi biết tỏng mà.
– Thế nào, – Trish lên tiếng, vẻ nôn nóng – Anh đủ khả năng xác định IP này chứ? Phải không?
– Có, anh đủ khả năng, và ờ, anh biết em đang định quay anh như quay dế đây.
– Anh sẽ mất bao lâu?
– Không lâu đâu! – Zoubianis đáp, tay vẫn gõ bàn phím – Anh có thể thâm nhập vào máy trên hệ thống của họ trong vòng mười phút. Khi nào vào được và tìm thấy gì, anh sẽ gọi lại cho em.
– Em rất cảm ơn. Thế anh vẫn ổn chứ?
Giờ cô nàng mới thèm hỏi?
– Trish, Chúa ơi, em gọi cho anh đúng buổi tối có một trận đấu quan trọng và giờ em muốn chuyện phiếm à? Thế em muốn anh thâm nhập IP này hay không đây?
– Cảm ơn anh, Mark. Em sẽ đợi anh gọi lại.
– Mười lăm phút nữa – Zoubianis gác máy, vớ lấy bát Pirate’s Booty và bật tiếng trận đấu bóng lên.
Ôi phụ nữ!
Chú thích:
(50) Pirate’s Booty là đồ ăn nhanh do công ty Robert’s American Gourmet Food sản xuất. Loại đồ ăn này chủ yếu làm từ nguyên liệu tự nhiên và pho mát thật – ND.