Bạn đang đọc Biểu Tượng Thất Truyền (The Lost Symbol): Chương 22 – 24
CHƯƠNG 22
Biểu Tượng Thất Truyền
Dịch giả: Nguyễn Xuân Hồng
Chương 22
Katherine rảo bước trong thư viện, kéo ống tay áo bờ-lu và nhìn đồng hồ. Cô vốn không quen chờ đợi, nhưng lúc này, thế giới quanh cô như ngưng đọng cả rồi. Cô đang đợi kết quả tìm kiếm của Trish, đợi tin từ anh trai mình, và đợi cả cuộc gọi lại từ kẻ chịu trách nhiệm về toàn bộ tình trạng rối bời này.
Ước gì anh ta đừng nói với mình, Katherine nghĩ bụng. Bình thường, cô hết sức thận trọng trong chuyện kết giao, nhưng dù lúc chiều mới gặp người đàn ông đó lần đầu, cô đã thấy tin cậy anh ta chỉ sau vài phút. Tin hoàn toàn.
Anh ta gọi đến khi Katherine đang tận hưởng niềm vui thường lệ chiều Chủ nhật là theo dõi các tờ tạp chí khoa học trong tuần.
– Bà Solomon phải không ạ? – giọng nói nhẹ nhàng khác thường cất lên – Tôi là Bác sĩ Christopher Abaddon. Tôi hy vọng được trao đổi một lát về anh trai bà.
– Xin lỗi, ai thế nhỉ? – Katherine gặng hỏi, và làm thế nào ông ta lại có số điện thoại di động riêng của mình?
Bác sĩ Christopher Abaddon.
Katherine không có chút ấn tượng nào với cái tên này.
Người kia hắng giọng, cứ như thể vừa rơi vào tình huống lúng túng khó xử.
– Tôi xin lỗi, thưa bà Solomon. Tôi cứ đinh ninh anh trai bà đã kể với bà về tôi rồi chứ. Tôi là bác sĩ của Peter. Số điện thoại di động của bà nằm trong danh sách liên hệ khẩn cấp của ông ấy.
Tim Katherine như ngừng lại. Liên hệ khẩn cấp ư?
– Có chuyện gì không ổn à?
– Không… tôi không nghĩ vậy, – người kia đáp – Anh trai bà lỡ hẹn sáng nay, và tôi không thể liên lạc được bằng bất kỳ số nào của ông ấy. Peter chưa bao giờ lỡ hẹn mà không thông báo, và tôi thấy hơi lo. Tôi phân vân lắm trước khi gọi điện cho bà, nhưng…
– Không, không sao đâu, tôi rất biết ơn sự lo lắng của ông – Katherine vẫn cố gắng nhớ xem đã nghe đến tên người bác sĩ này chưa – Suốt từ sáng hôm qua tới giờ tôi chưa nói chuyện với Peter, nhưng chắc là do anh ấy quên bật điện thoại di động.
Gần đây Katherine có tặng cho anh mình một chiếc iPhone và ông vẫn chưa có thời gian để tìm hiểu cách sử dụng nó.
– Ông là bác sĩ của anh ấy à? – cô hỏi. Phải chăng Peter bị bệnh anh nhưng lại giấu mình?
Đường dây lặng đi một lúc.
– Tôi rất lấy làm tiếc, nhưng tôi đã phạm một sai lầm nghề nghiệp khá nghiêm trọng khi gọi cho bà. Peter bảo tôi rằng bà đã biết việc ông ấy đến chỗ tôi, nhưng giờ thì tôi biết là không phải như vậy.
Anh trai mình nói dối bác sĩ riêng ư? Katherine càng thêm lo âu.
– Anh ấy bị ốm à?
– Tôi xin lỗi, bà Solomon, nguyên tắc giữ bí mật giữa bác sĩ và bệnh nhân không cho phép tôi công khai tình trạng của anh trai bà, và tôi đã trót nói quá nhiều khi thừa nhận rằng ông ấy là bệnh nhân của tôi. Giờ tôi sẽ gác máy, nhưng nếu hôm nay bà liên lạc được với Peter, xin nhắc ông ấy gọi cho tôi để tôi biết là ông ấy vẫn ổn.
– Đợi một chút? – Katherine vội nói – Hãy cho tôi biết Peter gặp chuyện gì!
Bác sĩ Abaddon thở hắt ra, chừng như khó chịu vì sai lầm của mình.
– Bà Solomon, tôi có thể thấy rằng bà không vui, nhưng tôi không dám trách bà. Tôi xin khẳng định anh trai bà ổn thôi. Ông ấy chỉ vừa mới tới chỗ tôi ngày hôm qua.
– Hôm qua ư? Và anh ấy lại hẹn tiếp vào hôm nay à? Có vẻ gấp gáp quá nhỉ.
Người kia thở dài.
– Tôi nghĩ chúng ta nên dành cho Peter đôi chút thời gian rồi hãy…
– Tôi sẽ đến chỗ bác sĩ ngay bây giờ, – Katherine nói, rảo chân đi ra cửa – Bác sĩ ở chỗ nào nhỉ?
Im lặng.
– Bác sĩ Christopher Abaddon? – Katherine gọi – ông hãy cho tôi biết địa chỉ, hoặc tôi sẽ tự tra ra. Bằng cách nào thì tôi cũng sẽ đến chỗ ông thôi.
Người bác sĩ ngập ngừng.
– Nếu muốn tôi gặp, thưa bà Solomon, xin bà vui lòng đừng nói gì với Peter cho tới khi tôi có cơ hội giải thích sơ suất của mình được không?
– Vâng.
– Cảm ơn bà. Văn phòng của tôi ở Kalorama Heights – Anh ta đưa cho cô địa chỉ.
Hai mươi phút sau, Katherine Solomon đã có mặt trên những con phố trang nghiêm của khu Kalorama Heights. Cô đã gọi tới tất cả các số điện thoại của anh trai mình nhưng đều không thấy trả lời. Cô không cảm thấy quá lo lắng chuyện anh trai cô đang ở đâu, trái lại, việc anh ấy bí mật tới gặp một bác sĩ… mới là vấn đề.
Khi tìm được địa chỉ, Katherine ngơ ngác ngước nhìn toà nhà. Đây mà là phòng khám của một bác sĩ ư?
Toà tư gia sang trọng trước mắt cô nằm trong hàng rào bảo vệ bằng sắt rèn, lắp nhiều camera điện tử và có những khoảnh vườn tươi tốt. Katherine đang giảm tốc độ để kiểm tra địa chỉ cho chắc chắn thì một chiếc máy quay xoay về phía cô, và cánh cổng mở ra. Katherine ngập ngừng cho xe chạy vào và đỗ cạnh một chiếc Limousine dài, gần đó là một ga-ra đủ chỗ cho sáu chiếc xe.
Anh chàng này là bác sĩ gì không biết?
Lúc Katherine bước ra khỏi xe, cửa trước toà nhà mở ra và một nhân vật lịch lãm xuất hiện. Anh ta khá điển trai, cao lớn, và trẻ hơn cô hình dung. Mặc dù vậy, ở anh ta lại toát ra vẻ tinh tế và phong nhã thường thấy ở lứa già dặn hơn. Anh ta ăn mặc rất chỉnh tề ple sẫm màu thắt cà vạt hẳn hoi, mái tóc vàng dày uốn chải rất công phu.
– Bà Solomon, tôi là bác sĩ Christopher Abaddon. – anh ta lên tiếng, giọng chỉ như tiếng thì thầm.
Khi họ bắt tay nhau, Katherine nhận thấy làn da anh ta trơn mịn và được chăm sóc rất cẩn thận.
– Tôi là Katherine Solomon, – Katherine đáp, cố gắng không nhìn chằm chằm vào làn da nhẵn nhụi và bóng mịn một cách khác thường của người bác sĩ. Hình nhanh ta có hoá trang thì phải?
Khi Katherine bước vào phòng đợi được bài trí rất đẹp, nỗi bất an trong lòng cô bỗng tăng thêm. Nhạc cổ điển ngân nga êm dịu, và không khí toả mùi thơm như có người vừa đốt hương.
– Tuyệt vời thật – cô nhận xét – mặc dù nó không giống kiểu phòng khám mà tôi hình dung.
– Tôi có may mắn là làm việc ngay tại tư gia – Người kia dẫn Katherine vào phòng khách, nơi có đống lửa đang tí tách cháy – Xin bà cứ tự nhiên. Tôi đi pha trà. Tôi sẽ mang ra ngay để chúng ta còn nói chuyện – Anh ta rảo bước về phía bếp và biến mất.
Katherine Solomon chưa ngồi ngay. Trực giác của phụ nữ là một bản năng mạnh mẽ mà cô rất tin tưởng, và ở nơi này có gì đó làm cô gai người. Không một chi tiết nào gợi liên tưởng đến phòng khám của một bác sĩ như cô từng gặp. Phòng khách được trang hoàng toàn đồ cổ những tác phẩm nghệ thuật cổ điển phủ kín các bức tường, chủ yếu là tranh vẽ với nhiều chủ đề thần thoại rất lạ. Katherine dừng lại trước một tấm toan lớn hoạ Ba Kiều nữ với những tấm thân để trần, thể hiện rất ấn tượng nhờ các màu sắc sống động.
– Đó là bức sơn dầu nguyên bản của Michael Parkes – Bác sĩ Abaddon im lìm xuất hiện ngay bên cạnh Katherine, tay bưng một khay trà đang bốc khói – Tôi nghĩ chúng ta nên ngồi gần bếp lửa? – Anh ta dẫn cô qua phòng khách và mời cô ngồi – Không có gì phải lo lắng cả đâu.
– Tôi không lo lắng, – Katherine đáp lại, có phần hấp tấp.
Người chủ nhà mỉm cười trấn an.
– Thật ra, công việc của tôi là biết khi nào thì người khác lo lắng.
– Bác sĩ nói sao cơ?
– Tôi là bác sĩ tâm lý, thưa bà Solomon. Đó là chuyên môn của tôi.
– Tôi đã gặp gỡ anh trai bà được ngót một năm nay. Tôi là chuyên gia trị liệu của ông ấy.
Katherine thừ người. Anh trai mình đang phải trị liệu ư?
– Bệnh nhân nào chẳng tìm cách giữ bí mật việc điều trị của mình, – người đàn ông nói – Tôi thật sai lầm khi gọi cho bà, mặc dù nếu bao biện thì đúng là tại anh bà mà tôi mới nhầm lẫn như vậy.
– Tôi… tôi không hề hay biết.
– Tôi xin lỗi nếu khiến bà lo lắng, – người đàn ông nói, vẻ lúng túng – Tôi nhận ra bà chú ý đến gương mặt tôi lúc chúng ta gặp nhau, và vâng, tôi có hoá trang đấy – Anh ta tự sờ vào má mình, vẻ ngượng ngập – Tôi mắc bệnh về da liễu, nên muốn che giấu. Vợ tôi thường đắp mặt cho tôi, nhưng khi cô ấy vắng nhà thì tôi đành phải trông vào đôi tay vụng về của mình.
Katherine gật đầu, cô quá bối rối nên chẳng biết nói gì.
– Và mái tóc tuyệt vời này… – Anh ta sờ tay lên bộ tóc vàng óng của mình – Tóc giả đấy mà. Bệnh ngoài da của tôi ảnh hưởng cả tới các nang da đầu khiến tóc tôi bay sạch – Anh ta nhún vai – E rằng một trong những lỗi lầm của tôi là quá đỏm dáng.
– Thế thì lỗi của tôi là khiếm nhã mất rồi, – Katherine đáp.
– Không hề – Bác sĩ Abaddon mỉm cười trấn an – Chúng ta bắt đầu nhé? Có lẽ mời bà dùng chút trà nhỉ?
Họ ngồi trước đống lửa và Abaddon rót trà…
– Gặp anh trai bà mãi, đâm ra tôi có thói quen dùng trà. Ông ấy nói nhà Solomon toàn những người uống trà cả.
– Đó là truyền thống gia đình tôi, – Katherine đáp – Xin cho tôi trà đen, cảm ơn.
Họ nhâm nhi trà và chuyện phiếm vài phút, nhưng Katherine rất nóng lòng muốn biết thông tin về anh trai mình.
– Tại sao anh tôi lại tới gặp bác sĩ? – cô hỏi, và tại sao anh ấy lại không hề nói gì với mình? Phải thừa nhận, Peter đã từng chịu đựng nhiều chuyện đau buồn trong đời – mất cha từ rất sớm, và sau đó, chỉ trong vòng năm năm, ông phải chôn cất hết đứa con trai duy nhất lại đến mẹ mình. Mặc dù vậy, Peter luôn gắng sống theo hướng tích cực.
Bác sĩ Abaddon nhấp một ngụm trà.
– Anh bà đến đây bởi vì ông ấy tin tưởng tôi. Chúng tôi có một mối liên hệ vượt xa mối liên hệ thông thường giữa bác sĩ với bệnh nhân – Anh ta trỏ một tài liệu đóng khung ở gần bếp lò. Thoạt trông nó giống một tấm bằng, nhưng khi nhìn kỹ, Katherine nhận ra hình con phượng hoàng hai đầu.
– Bác sĩ là hội viên Tam điểm? – Mà lại là cấp cao nhất, chắc chắn thế.
– Peter và tôi là huynh đệ.
– Chắc chắn bác sĩ đã thực hiện việc gì đó rất quan trọng nên mới được mời lên cấp 33.
– Không hẳn, – Abaddon đáp – Tôi có tiền, và tôi tặng rất nhiều tiền cho các quỹ từ thiện của Hội.
Giờ thì Katherine nhận ra tại sao anh trai cô lại tin tưởng vị bác sĩ trẻ tuổi này. Một hội viên Tam điểm giàu có, quan tâm đến hoạt động nhân đạo và thần thoại cổ đại. Xem ra bác sĩ Abaddon có nhiều điểm chung với Peter hơn cô tưởng.
– Khi hỏi vì sao Peter tới gặp bác sĩ, là tôi muốn biết nguyên do anh ấy cần bác sĩ tâm lý, chứ không phải ngụ ý tại sao anh ấy chọn ông, – Katherine giải thích.
Bác sĩ Abaddon mỉm cười.
– Vâng, tôi biết. Tôi đang tìm cách né tránh câu hỏi một cách tế nhị. Thật sự thì đó không phải là chuyện tôi nên nói ra – Anh ta ngừng lại – Mặc dù tôi phải nói rằng tôi rất bối rối vì Peter giữ kín không cho bà biết các cuộc thảo luận giữa chúng tôi, bởi lẽ các cuộc thảo luận ấy có liên quan trực tiếp tới nghiên cứu của bà.
– Nghiên cứu của tôi à? – Katherine hỏi, hoàn toàn không còn e dè nữa. Peter nói về nghiên cứu của mình ư?
– Gần đây, anh trai bà có đến tôi để hỏi ý kiến chuyên môn về tác động tâm lý của những đột phá mà bà đang tiến hành trong phòng thí nghiệm.
Katherine suýt bị sặc trà.
– Thật sao? Tôi… rất ngạc nhiên, – cô cố trấn tĩnh. Peter đang nghĩ gì không biết? Anh ấy kể với bác sĩ tâm lý về công việc của mình ư?Họ đã quy ước với nhau rằng sẽ không hé lộ với bất kỳ ai về những gì Katherine đang tiến hành. Hơn nữa, chính anh trai cô là người đề xuất phải giữ bí mật kia mà.
– Thưa bà Solomon, chắc chắn bà biết rõ rằng Peter rất quan tâm xem chuyện gì sẽ xảy ra khi nghiên cứu của bà được công bố. Ông ấy nhìn thấy tiềm năng của một sự thay đổi triết học rất lớn trên thế giới… và ông ấy đến đây để thảo luận về những hậu quả có thể phát sinh, từ góc nhìn của khoa tâm lý.
– Tôi hiểu, – Katherine đáp, tách trà của cô run run.
– Chúng tôi thảo luận những vấn đề rất gai góc: Chuyện gì sẽ xảy ra với con người nếu những bí mật lớn nhất của cuộc sống bị phanh phui? Chuyện gì sẽ xảy ra khi những niềm tin mà chúng ta chấp nhận như những tín điều… đột nhiên được chứng minh là sự thật hay huyền thoại? Có thể có người sẽ nói, tốt nhất là cứ để cho những câu hỏi chưa lời giải đáp được yên thân.
Katherine không tin nổi những điều đang nghe, nhưng cô cố kìm nén cảm xúc của mình.
– Tôi hy vọng anh không phiền lòng, thưa bác sĩ Abaddon, nhưng tôi không muốn thảo luận chi tiết về công việc của mình. Tôi chưa có kế hoạch công bố cụ thể bất cứ điều gì. Tạm thời, những phát hiện của tôi vẫn được cất giữ an toàn trong phòng thí nghiệm.
– Rất hay – Abaddon ngả người trên ghế, trầm ngâm suy nghĩ một lát – Dù thế nào thì tôi cũng đã dặn Peter quay lại đây hôm nay vì hôm qua ông ấy có chút vấn đề. Khi chuyện đó xảy ra, tôi vẫn đang có khách…
– Vấn đề à? – Tim Katherine đập mạnh – Là suy sụp chăng? – Cô không thể hình dung nổi anh trai mình lại suy sụp vì vấn đề gì đó.
Abaddon nhẹ nhàng tiến tới.
– Tôi có thể thấy là tôi vừa làm bà không vui. Tôi rất xin lỗi. Trước tình hình rắc rối này, chắc bà cho rằng bà nên được nghe câu trả lời.
– Không phải vấn đề nên hay không, điểm mấu chốt là tôi chỉ còn Peter là người thân duy nhất, – Katherine đáp – Không ai hiểu anh ấy rõ hơn tôi, nếu bác sĩ cho tôi biết chuyện gì đang xảy ra thì có lẽ tôi sẽ giúp được bác sĩ. Chúng ta cùng chung một mong muốn là làm những điều tốt nhất cho anh Peter mà.
Bác sĩ Abaddon chìm vào im lặng khá lâu và sau đó chậm rãi gật đầu như thể tán đồng. Cuối cùng. anh ta lên tiếng.
– Nói cho rõ, thưa bà Solomon, sở dĩ tôi quyết định chia sẻ thông tin này với bà chỉ vì tôi nghĩ những hiểu biết của bà có thể giúp tôi hỗ trợ Peter.
– Dĩ nhiên rồi.
Abaddon rướn người ra phía trước, tì khuỷu tay lên đầu gối.
– Bà Solomon, hễ gặp anh trai bà, tôi lại cảm thấy ông ấy cứ bị dằn vặt ghê gớm vì một cảm giác tội lỗi nào đó. Tôi chưa bao giờ gặng hỏi tỉ mỉ bởi vì đó không phải là mục đích khiến ông ấy tìm đến tôi. Nhưng hôm qua, vì một vài lý do, tôi đã hỏi ông ấy – Abaddon nhìn xoáy vào cô Peter đã tâm sự hết, thật đột ngột và bất ngờ. Ông thổ lộ những điều tôi không tưởng nổi là sẽ được nghe… kể cả những chi tiết về cái đêm mẹ của ông bà qua đời.
Đêm Giáng sinh – gần mười năm về trước. Mẹ trút hơi thở cuối cùng ngay trên tay mình.
– Peter kể với tôi rằng mẹ của ông bà bị sát hại trong một vụ cướp tại tư gia. Một kẻ đã đột nhập để truy tìm một thứ mà hắn cho rằng anh trai bà đang cất giấu?
– Đúng vậy.
Mắt Abaddon ánh lên dò xét.
– Peter kể ông ấy đã bắn chết tên cướp.
– Phải.
Abaddon xoa xoa cằm.
– Bà còn nhớ kẻ đột nhập tìm kiếm thứ gì khi hắn mò vào nhà bà không?
Câu hỏi gợi lên một ký ức mà Katherine đã cố gắng đào sâu chôn chặt suốt mười năm nay.
– Hừm, yêu cầu của hắn rất kỳ cục. Tiếc rằng không ai trong chúng tôi hiểu hắn muốn nói gì. Chúng tôi đều ngơ ngác trước đòi hỏi của hắn.
– Chà, anh trai bà thì hiểu đấy.
– Sao cơ? – Katherine ngồi thẳng dậy.
– Ít nhất theo câu chuyện mà Peter kể với tôi hôm qua, ông ấy biết chính xác kẻ đột nhập tìm kiếm thứ gì. Vì không muốn giao nó nên ông ấy giả vờ không hiểu mà thôi.
– Vô lý! Anh Peter không thể biết người kia muốn gì. Những yêu cầu của hắn thật vô nghĩa!
– Thú vị đấy – Bác sĩ Abaddon dừng lại và ghi chép vài điều – Như tôi đã nói, Peter kể với tôi là ông ấy biết rõ. Anh bà tin rằng nếu thuận theo kẻ đột nhập thì có lẽ mẹ của ông bà vẫn còn sống đến hôm nay. Quyết định này chính là căn nguyên tất cả cảm giác tội lỗi của ông ấy.
Katherine lắc đầu.
– Vớ vẩn hết sức…
Abaddon chùng người xuống, vẻ bối rối.
– Thưa bà Solomon, đây là một phản hồi rất hữu ích. Như tôi đã từng lo ngại, anh trai bà dường như hơi xa rời thực tế. Tôi phải thừa nhận rằng tôi sợ tình hình có thể trầm trọng thêm. Đó là lý do tại sao tôi dặn ông ấy quay lại đây hôm nay. ảo giác loại này không phải hiếm, nhất là khi chúng có liên quan đến những ký ức đau buồn.
Katherine lại lắc đầu.
– Anh Peter không hề bị ảo giác, thưa Bác sĩ Abaddon.
– Tôi đồng ý, có điều…
– Có điều gì cơ?
– Có điều việc ông ấy nhớ lại vụ tấn công mới chỉ là phần mở đầu một phần rất nhỏ của một câu chuyện dài và hoang đường mà ông ấy kể với tôi.
Katherine ngả người về phía trước.
– Anh Peter đã nói những gì với bác sĩ?
Abaddon cười buồn.
– Thưa bà Solomon, cho phép tôi hỏi câu này. Đã bao giờ Peter đề cập với bà về một thứ mà ông ấy tin rằng được cất giấu ngay tại Washington D.C.… hoặc về vai trò mà ông ấy đang đảm nhận để bảo vệ một kho báu khổng lồ gồm toàn những tri thức cổ xưa đã bị thất truyền chưa?
Katherine há hốc miệng.
– Bác sĩ đang nói về chuyện gì vậy?
Abaddon thở dài.
– Câu chuyện tôi sắp kể sẽ khiến bà khá sốc, thưa bà Katherine – Anh ta ngừng lại và nhìn xoáy vào cô – Nhưng nó sẽ vô cùng hữu ích nếu bà có thể nói cho tôi bất kỳ điều gì bà biết về nó – Anh ta với lấy chén trà của cô – Bà dùng thêm trà nhé?
CHƯƠNG 23
Biểu Tượng Thất Truyền
Dịch giả: Nguyễn Xuân Hồng
Chương 23
Một hình xăm nữa.
Langdon lo lắng ép sát mình bên cạnh bàn tay đã duỗi ra của Peter và xem xét bảy biểu tượng nhỏ xíu giấu kín bên dưới những ngón tay co quắp không còn sinh khí.
– Hình như là các con số, – Langdon nói vẻ ngạc nhiên – Mặc dù tôi không nhận ra chúng.
– Nhóm đầu tiên là một số La Mã, – Anderson góp ý.
– Thực tình tôi không nghĩ vậy, – Langdon đính chính – Không hề có số La Mã I-I-I-X. Nếu viết đúng phải là V-I-I.
– Thế phần còn lại thì sao? – Sato hỏi.
– Tôi không chắc. Trông như là tám-tám-năm trong số Ả-rập vậy.
– Số Ả rập à? – Anderson hỏi – Trông chúng giống các con số thông thường.
– Các số chúng ta thường dùng chính là số Ả-rập – Langdon quen với việc phải giải thích điều này cho sinh viên của mình đến nỗi anh đã chuẩn bị hẳn một bài giảng về những tiến bộ khoa học của các nền văn hoá Trung Đông xưa kia, một trong những tiến bộ đó là hệ thống chữ số hiện đại của chúng ta, với nhiều ưu điểm hơn hẳn chữ số La Mã, chẳng hạn phát minh ra con số 0 và xây dựng được “hệ đếm theo vị trí”. Dĩ nhiên, Langdon luôn kết thúc bài giảng với một câu nhắc nhở rằng cũng chính nền văn hoá Ả-rập đã cống hiến cho nhân loại từ al-kuhl, thứ đồ uống mà các tân sinh viên Harvard ưa chuộng và thường biết đến với tên gọi rượu.
Langdon xem xét kỹ hình xăm, cảm thấy rất khó hiểu.
– Tôi thậm chí còn không, chắc lắm về con số tám-tám-năm. Kiểu viết vuông vức trông rất lạ mắt. Có lẽ không phải là các con số.
– Vậy chúng là gì chứ? – Sato hỏi.
– Tôi không chắc. Toàn bộ hình xăm trông rất giống kiểu chữ… rune(40).
– Nghĩa là sao? – Sato hỏi.
– Hệ thống chữ cái rune chỉ bao gồm những đường thẳng. Các chữ viết đó được gọi là chữ rune và thường được dùng để khắc lên đá bởi vì các đường cong rất khó chạm khắc.
– Nếu đây là văn tự rune thì nghĩa của chúng là gì? – Sato hỏi.
Langdon lắc đầu. Kiến thức của anh cũng chỉ giới hạn ở bảng chữ cái rune cơ bản nhất là Futhark – một hệ thống chữ của người Giéc-manh thế kỷ thứ III – nhưng đây không phải là chữ Futhark.
– Thật tình, tôi thậm chí còn chưa dám chắc đây là chữ rune. Các vị cần hỏi một chuyên gia. Có hàng chục hình thức khác nhau như Halsinge(41), Manx(42), hay chữ chấm Stungnar…
– Peter Solomon là một hội viên Tam điểm, phải không?
Langdon tỏ vẻ ngạc nhiên.
– Phải, nhưng chuyện đó thì liên quan gì đến chuyện này? – Anh đứng thẳng lên, cao hơn hẳn người phụ nữ nhỏ bé.
– Ông cứ trả lời tôi đi. Ông vừa nói rằng các chữ cái rune được sử dụng để chạm lên đá, và theo tôi biết thì thành viên của Hội Tam điểm nguyên thuỷ là những người thợ đá. Tôi nói đến điều này là vì khi tôi yêu cầu văn phòng tìm kiếm mối liên hệ giữa Mật Thủ và Peter Solomon, kết quả của họ dẫn tới một mối liên hệ cụ thể – Bà ta dừng lại, như để nhấn mạnh ý nghĩa của những điều vừa khám phá – Hội Tam điểm.
Langdon thở hắt ra, cố kìm để khỏi nói thẳng với Sato những điều mà anh phải liên tục nhắc nhở sinh viên của mình: “Google” không có nghĩa là nghiên cứu, vào thời buổi mà việc tìm kiếm thông tin bằng các từ khoá ồ ạt, và phổ biến như hiện nay thì dường như mọi thứ đều có liên hệ với nhau. Thế giới đang trở thành một mạng lưới thông tin đan xen nhau và càng lúc càng trở nên dày hơn.
Langdon kiên nhẫn nói.
– Tôi không ngạc nhiên khi Hội Tam điểm xuất hiện trong kết quả tìm kiếm của nhân viên bà. Hội Tam điểm là một mắt xích rất rõ rệt giữa Peter Solomon và bất kỳ chủ đề bí ẩn nào.
– Phải, – Sato đáp, – đó là một lý do nữa khiến tôi ngạc nhiên, bởi buổi tối hôm nay ông chưa hề nhắc đến Hội Tam điểm. Sau hết, ông vừa giảng giải về những tri thức bí mật dành ột thiểu số được khai sáng. Nghe có vẻ rất Tam điểm, phải không nhỉ?
– Đúng vậy… và nó cũng rất Rosicrucian(43), Kabbalistic(44), Alumbrados, hay bất kỳ hội kín nào.
– Nhưng Peter Solomon là một hội viên Tam điểm, một hội viên rất có thế lực là đằng khác. Dường như các hội viên Tam điểm đều sẽ rất quan tâm nếu chúng ta nói về các bí mật. Ai chẳng biết rằng Hội Tam điểm rất thích những bí mật.
Langdon nghe ra sắc thái ngờ vực trong giọng Sato, và anh chẳng mong muốn điều đó chút nào.
– Nếu bà cần thông tin gì về Hội Tam điểm, tốt hơn cả là nên trực tiếp hỏi một hội viên của họ.
– Thực ra tôi lại thích hỏi người tôi tin tưởng hơn, – Sato đáp.
Đối với Langdon, câu nói ấy vừa ngu ngốc vừa khiêu khích.
– Tôi xin mở ngoặc, thưa bà, toàn bộ triết lý Tam điểm được xây dựng trên cơ sở lòng trung thực và chính trực. Các hội viên Tam điểm là những người đáng tin cậy nhất mà bà có thể gặp được.
– Tôi thì lại thấy bằng chứng rất thuyết phục chứng minh ngược lại.
Langdon càng lúc càng không ưa Giám đốc Sato. Sau nhiều năm viết về truyền thống mô tả bằng hình tượng mang tính ẩn dụ và các biểu tượng của Hội Tam điểm, anh biết rằng hội này luôn là một trong những tổ chức bị hiểu sai và vu khống một cách thiếu công bằng nhất trên thế giới. Họ thường xuyên bị quy kết cho đủ thứ chuyện, từ thờ cúng quỷ dữ tới âm mưu lập một chính phủ cai trị toàn thế giới, nhưng chính sách của họ là không bao giờ phản ứng lại những kẻ chỉ trích mình, để tránh phải trở thành một mục tiêu dễ công kích.
– Nói gì thì nói, – Sato tiếp tục, giọng chua cay – chúng ta lại đi vào ngõ cụt, thưa ông Langdon. Dường như ông đã bỏ sót… hoặc giấu giếm tôi điều gì đó. Cái gã mà chúng ta đang phải đối phó bảo rằng Peter Solomon chọn riêng ông mà thôi – Bà ta ném cho Langdon một cái nhìn lạnh lẽo – Tôi nghĩ đã đến lúc chúng ta chuyển cuộc nói chuyện này về tổng hành dinh CIA. Biết đâu ở đó chúng ta lại gặp may hơn.
Lời doạ dẫm của Sato chẳng đe doạ nổi Langdon, nhưng lại tác động đến dòng suy tưởng của anh. Peter Solomon chọn riêng ông mà thôi. Câu nói này, kết hợp với chi tiết đề cập đến Hội Tam điểm, bỗng khiến Langdon giật mình. Anh nhìn xuống chiếc nhẫn trên ngón tay Peter. Chiếc nhẫn là một trong những vật sở hữu giá trị nhất của Peter – một vật gia bảo của dòng họ Solomon, mang biểu tượng phượng hoàng hai đầu – biểu tượng tối mật cho tri thức của Hội Tam điểm. Cái nhẫn vàng lóe sáng trong ánh đèn, gợi lại một ký ức bất ngờ.
Langdon sững sờ khi nhớ lại tiếng thì thào kỳ quái của kẻ bắt giữ Peter: Thật sự thì nó vẫn chưa hé mở gì với ông à? Tại sao ông lại được chọn nhỉ? Trong một khoảnh khắc kinh hoàng, mọi ý nghĩ của Langdon chợt tập trung lại, và màn sương được vén lên.
Ngay lập tức, mục đích khiến anh có mặt ở đây trở nên sáng rõ như ban ngày.
***
Cách đó mười dặm trên đường Suitland Parkway, trong lúc lái xe về phía nam. Mal’akh nghe thấy tiếng rung rõ rệt trên mặt ghế cạnh gã. Đó là chiếc iPhone của Peter Solomon, một thứ tỏ ra rất đắc dụng ngày hôm nay. Ảnh người gọi hiện trên màn hình, một phụ nữ trung niên quyến rũ với mái tóc đen dài.
KATHERINE SOLOMON ĐANG GỌI
Mal’akh mỉm cười, phớt lờ cuộc gọi. Số phận đang đưa ta lại gần hơn.
Gã đã lừa được Katherine Solomon tới nhà mình vào chiều nay chỉ vì một lý do – để xác định xem cô có thông tin gì giúp được cho gã không… có lẽ là một bí mật gia đình có thể giúp Mal’akh xác định được thứ gã tìm kiếm. Tuy nhiên, rõ ràng là anh trai Katherine đã chẳng nói gì với cô về những gì ông ta đang bảo vệ suốt nhiều năm qua. Thế nhưng Mal’akh lại biết được một điều khác từ Katherine. Một điều khiến cô phải mất vài tiếng cuộc đời trong ngày hôm nay.
Katherine đã xác nhận với gã rằng toàn bộ công trình nghiên cứu của cô nằm ở một địa điểm, cất giữ an toàn trong phòng thí nghiệm của cô.
Ta phải phá huỷ nó.
Nghiên cứu của Katherine rất có khả năng mở ra một cánh cửa hiểu biết mới, và một khi cánh cửa ấy chỉ hé ra thôi, những người khác sẽ tiếp bước. Chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi mọi thứ thay đổi
Ta không thể để chuyện đó xảy ra. Thế giới phải nguyên trạng như nó vẫn thế… mông lung trong bóng tối ngu dốt.
Chiếc iPhone phát tín hiệu báo Katherine vừa gửi tới một thư thoại. Mal’akh nhận tin.
– Anh Peter, vẫn là em đây – Giọng Katherine nghe đầy lo lắng – Anh ở đâu vậy? Em đang nghĩ về cuộc trò chuyện của em với bác sĩ Abaddon… và em rất lo. Mọi thứ vẫn ổn chứ? Hãy gọi cho em. Em ở phòng thí nghiệm.
Thư thoại kết thúc.
Mal’akh mỉm cười. Katherine nên lo cho bản thân thay vì anh trai mụ. Gã ngoặt khỏi đường Suitland Parkway để sang phố Silver Hill.
Đi thêm chưa đầy một dặm nữa, trong bóng tối, gã nhận ra đường nét mờ mờ của toà nhà SMSC nép mình dưới bóng cây dọc đại lộ phía bên tay phải gã. Toàn bộ quần thể được bao quanh bởi một hàng rào thép gai cao ngất.
Một toà nhà được bảo vệ ư? Mal’akh cười thầm. Sẽ có người mở cửa cho ta vào.
Chú thích:
(40) Hệ chữ cái rune là một tập hợp những chữ cái có liên hệ với nhau dùng để viết nhiều ngôn ngữ Giéc manh khác nhau trước khi có hệ chữ cái La tin, từng được sử dụng ở Bắc u, Anh, bán đảo Scandinavia, và Iceland từ khoảng thế kỷ III đen thề kỷ XVII – ND.
(41) Hệ chữ cái rune rút gọn, chủ yếu tìm thấy trong các văn bia có niên đại vào thế kỷ X đến XII ở vùng Halsingland thuộc Thuỵ Điển. Hệ chữ này dường như là dạng đơn giản hoá của chữ rune Rok ở Thuỵ Điển – Na Uy và không có các nét đứng – ND.
(42) Manx là một ngôn ngữ Goidelic, có liên hệ gần gũi với ngôn ngữ Xen-tơ ở Ireland và Scotland – ND.
(43) Rosicrucianism (Hội Thập tự Hoa hồng) là thuyết thần học của một hội kín thần bí, hình thành ở Đức thời kỳ Trung cổ muộn, với học thuyết “xây dựng dựa trên những chân lý bí truyền của quá khứ cổ xưa”, những thứ “được giữ kín trước người phàm, đem lại sự hiểu biết về tự nhiên, vũ trụ vật chất và lĩnh vực tinh thần” – ND.
(43) Kabbalah (nghĩa là “tiếp nhận”) là một nguyên tắc và trường phái tư tưởng liên quan đến khía cạnh bí truyền của Do Thái giáo. Nó là một tập hợp những lời răn bí truyền nhằm giải thích mối quan hệ giữa một Đấng Sáng tạo toàn năng, bất tử với cái vũ trụ hữu hạn và có sinh có diệt do Ngài tạo ra. Kabbalah tìm cách định nghĩ bản chất của vũ trụ và con người, bản chất và mục đích của tồn tại, và nhiều câu hỏi khác. Nó cũng thể hiện phương pháp giúp hiểu những khái niệm này – ND.
CHƯƠNG 50
CHƯƠNG 24
Biểu Tượng Thất Truyền
Dịch giả: Nguyễn Xuân Hồng
Chương 24
Tâm trí Langdon đột nhiên thông suốt.
Mình hiểu tại sao mình lại ở đây.
Đứng ở chính giữa Nhà tròn, Langdon chỉ muốn quay mình chạy đi tránh xa bàn tay Peter, xa chiếc nhẫn vàng lấp lánh, xa hẳn con mắt ngờ vực của Sato và Anderson. Nhưng anh vẫn đứng bất động, tay nắm chặt thêm chiếc túi da đeo trên vai. Mình phải ra khỏi nơi này.
Hàm anh nghiến chặt lại, ký ức bắt đầu tái hiện quang cảnh buổi sáng lạnh lẽo nhiều năm về trước tại Cambridge(45). Lúc đó là 6 giờ sáng. Sau vài vòng bơi trong bể bơi trường Harvard, Langdon lên lớp như thường lệ. Anh vừa bước qua ngưỡng cửa, mùi bụi phấn quen thuộc đã ùa tới, trộn với hơi nước nóng quanh anh. Tiến được hai bước về phía bàn của mình, Langdon chợt đứng sững lại.
– Một người đang đợi anh ở đó – một quý ông lịch lãm với chiếc mũi khoằm và đôi mắt xám rất quý phái.
– Peter? – Langdon sửng sốt nhìn vị khách.
Nụ cười của Peter Solomon làm sáng bừng cả căn phòng vẫn còn tối lờ mờ.
– Chúc một buổi sáng tốt lành, Robert. Ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi lắm sao? – Giọng ông nhẹ nhàng, nhưng đầy sức mạnh.
Langdon bước vội tới và nồng nhiệt bắt tay người bạn của mình.
– Một quý ông Yale đang làm gì ở khuôn viên Crimson lúc mới sáng bảnh mắt thế này?
– Nhiệm vụ bí mật đằng sau chiến tuyến quân thù ấy mà, – Solomon đáp và cười. Ông làm hiệu chỉ phần thắt lưng gọn gàng của Langdon – Bơi lội có tác dụng nhỉ! Trông dáng cậu rất bảnh rồi đấy.
– Thì đang cố làm cho anh tự thấy già nua thôi mà, – Langdon đùa theo – Rất vui được gặp anh, Peter. Có chuyện gì thế?
– Đi công tác vội qua, – người đàn ông đáp, liếc quanh gian phòng học vắng tanh – Xin lỗi vì làm phiền cậu. Robert, nhưng tôi chỉ có vài phút thôi Có việc tôi rất cần nhờ cậu… hết sức riêng tư. Mong cậu giúp đỡ.
Lạ đấy. Langdon tự hỏi không biết một anh Giáo sư đại học quèn như mình thì có thể làm được gì ột quý ông có tất cả mọi thứ.
– Việc gì cũng được, – Langdon đáp, rất vui vì có cơ hội giúp đỡ người đã nhiệt thành tương trợ anh bấy lâu, nhất là khi cuộc đời giàu sang của Peter cũng phải chịu quá nhiều bi kịch.
Solomon hạ giọng.
– Tôi mong cậu giữ hộ tôi một thứ.
Langdon đảo mắt.
– Em hy vọng không phải con Hercules – Langdon đã từng đồng ý giúp Solomon trông con chó tai cụp nặng ngót 70 kg tên là Hercules trong khi ông đi vắng. Suốt thời gian ở với Langdon, con chó tỏ ra nhớ nhung thứ đò chơi nhai bằng da ở nhà và nó đã tìm một vật thay thế rất đáng giá trong phòng làm việc của anh: một cuốn Kinh thánh có minh hoạ, viết tay, bằng giấy da cừu nguyên bản từ thế kỷ XVII. Ấy thế mà cái “con chó khốn kiếp” đó vẫn chưa lấy làm hài lòng.
– Cậu biết là tôi vẫn đang tìm một bản để đền cho cậu mà, – Solomon ngượng ngùng nói.
– Không sao đâu. Em mừng là Hercules có năng khiếu tôn giáo đến thế.
Solomon cười khùng khục nhưng có vẻ thẫn thờ.
– Robert, hôm nay tôi đến đây là muốn nhờ cậu để mắt trông nom một thứ rất có giá trị với tôi. Tôi được thừa hưởng nó đã lâu, nhưng tôi không còn cảm thấy an tâm để nó trong nhà hay trong phòng làm việc nữa.
Langdon sinh dạ bồn chồn. Bất cứ thứ gì “rất có giá trị”, trong thế giới của Peter Solomon đều xứng đáng cả một gia tài.
– Thế két ký gửi an toàn thì sao? – Chẳng phải phải gia đình anh có tài khoản trong một nửa số ngân hàng ở Mỹ đấy ư?
– Như thế lại phải làm giấy tờ và dính dáng đến đám nhân viên ngân hàng. Tôi muốn nhờ một người bạn đáng tin cậy, và tôi biết cậu có thể giữ bí mật – Solomon lục tôi áo và rút ra một gói nhỏ, trao nó cho Langdon.
Căn cứ vào phần mở đầu câu truyện đầy kịch tính, Langdon cứ nghĩ sẽ thấy một vật ấn tượng hơn, nhưng cái gói chỉ là một hộp vuông vức nhỏ nhắn, mỗi chiều chưa tới 10 cm, bọc trong lớp giấy gói màu nâu đã bạc và có buộc dây. Căn cứ vào sức nặng và kích cỡ của cái gói, có cảm giác thứ bên trong nó phải làm bằng đá hoặc kim loại.
Gì thế này?
Langdon xoay xoay cái hộp trên tay, và nhận thấy sợi dây buộc được bảo vệ rất cẩn thận ở một mặt với một dấu sáp đóng nổi, giống như trong các công văn thời xưa vậy. Con dấu khảm hình phượng hoàng hai đầu với chữ số 33 hằn rõ trên ngực – biểu tượng truyền thống của cấp bậc cao nhất trong Hội Tam điểm.
– Nói thật, Peter. – Langdon toét miệng cười – Anh là Đại Huynh trưởng của tổng Hội Tam điểm chứ đâu phải Giáo hoàng. Tại sao lại dùng nhẫn đóng dấu niêm phong các gói đồ?
Solomon liếc xuống chiếc nhẫn vàng của mình và cười khan.
– Tôi có niêm phong cái gói này đâu, Robert. Cụ cố của tôi đóng đấy. Ngót một thế kỷ nay rồi.
Langdon ngẩng phắt đầu lên.
– Sao cơ?
Solomon giơ ngón tay đeo nhẫn của mình lên.
– Chiếc nhẫn Tam điểm này là của cụ cố. Sau đó ông nội thừa hưởng, rồi cha… và cuối cùng là tôi.
Langdon giơ cái gói lên.
– Cụ cố anh bọc cái gói này một thế kỷ trước và không có ai mở nó ra à?
– Chính xác.
– Nhưng… sao lại không chứ?
– Bởi vì chưa đến lúc – Solomon mỉm cười.
Langdon trợn mắt.
– Đến lúc làm gì cơ?
– Robert, nói thì bảo phi lý, nhưng cậu biết càng ít càng tốt. Cứ bỏ cái gói này vào chỗ nào đó an toàn, và đừng cho ai biết tôi đã trao nó cho cậu là được.
Langdon cố tìm trong ánh mắt người bạn vong niên của mình một tia bông đùa. Solomon có xu hướng kịch tính hoá mọi việc, và Langdon băn khoăn không biết anh có đang bị trêu chọc không.
– Peter, chắc đây không phải là một âm mưu khôn khéo khiến em nghĩ rằng mình vừa được giao phó một bí mật lâu đời của Hội Tam điểm để rồi em sẽ tò mò và quyết định gia nhập Hội chứ?
– Cậu biết là Hội Tam điểm có tuyển người ngoài đâu. Vả lại, cậu đã nói với tôi rằng cậu không thích tham gia mà.
Điều này hoàn toàn đúng. Langdon rất kính trọng triết lý và các biểu tượng của Hội Tam điểm nhưng anh đã quyết định không bao giờ gia nhập hội; những lời tuyên thệ giữ bí mật sẽ ngăn cản anh thảo luận về Hội Tam điểm với các sinh viên của mình. Cũng chính vì lý do này mà Socrates(46) đã từ chối tham gia vào Eleusinian Mysteries(47).
Nhìn cái hộp nhỏ bé bí ẩn cùng con dấu Tam điểm. Langdon không thể không đặt ra câu hỏi rất hiển nhiên.
– Tại sao anh không giao thứ này ột trong số các huynh đệ Tam điểm?
– Cứ cho là tôi có linh cảm rằng nó sẽ an toàn hơn khi được cất giữ bên ngoài hội đi, và đừng để kích thước nhỏ bé của cái gói đánh lừa cậu. Nếu lời cha tôi dặn dò là đúng thì nó đang chứa đựng một thứ ghê gớm lắm đấy – ông ngần ngừ – Một thứ bùa phép, đại loại như vậy.
– Ông ấy nói đến bùa phép phải không nhỉ? Theo định nghĩa, bùa phép là một vật có sức mạnh phép thuật. Theo truyền thống, bùa được dùng để đem lại may mắn, xua đuổi tà ma, hoặc hỗ trợ trong các nghi thức cổ xưa.
– Peter, anh thừa biết là bùa phép đã không còn thịnh hành từ thời Trung đại mà?
Peter kiên nhẫn đặt một tay lên vai Langdon.
– Tôi hiểu cậu cảm thấy thế nào, Robert ạ. Chúng ta quen nhau đã lâu đặc tính hay hoài nghi của cậu là một trong những thế mạnh cần có của một học giả, nhưng nó cũng lại là điểm yếu nhất của cậu. Tôi hiểu cậu đủ để không nghĩ đến việc đề nghị cậu tin… mà chỉ là tin tưởng. Mong cậu tin tưởng khi tôi nói rằng thứ bùa phép này rất mạnh. Cha tôi dặn nó có thể đem đến cho chủ sở hữu khả năng lập lại trật tự từ hỗn loạn.
Langdon đứng đờ người. Ý tưởng “trật tự từ hỗn loạn” là một trong những châm ngôn chính của Hội Tam điểm. Ordo ab chao. Mặc dù vậy thì vẫn rất vô lý nếu cho rằng có một thứ bùa biết truyền sức mạnh, chưa kể lại là loại sức mạnh đem lại trật tự từ trong hỗn loạn.
– Thứ bùa này, – Solomon nói tiếp – sẽ rất nguy hiểm nếu rơi vào tay kẻ ác, và thật tệ là tôi đủ cơ sở để tin rằng những kẻ rất có thế lực đang nhăm nhe đánh cắp nó – Langdon còn nhớ rõ vẻ nghiêm túc trong đôi mắt ông – Tôi mong cậu giữ gìn nó hộ tôi một thời gian. Cậu làm được chứ?
Đêm ấy, Langdon ngồi một mình bên bàn ăn trong bếp cùng với cái gói và cố gắng hình dung xem thứ gì bên trong. Cuối cùng, cho rằng tất cả chỉ do thói quen quan trọng hoá vấn đề của Peter, anh cất cái gói vào két tường trong thư viện, rồi từ đấy quên bẵng nó.
Cho tới sáng nay.
Cuộc điện thoại từ gã đàn ông nói giọng miền nam.
– Ồ thưa Giáo sư, tôi suýt quên! – viên trợ lý nói sau khi thông báo cho Langdon các chi tiết về việc sắp xếp chuyến đi tới Thủ đô cho anh – ông Solomon còn một đề nghị nữa.
– Vâng? – Langdon đáp, tâm trí lan man tới bài thuyết trình mà anh vừa đồng ý đảm nhận.
– Ông Solomon có để một lời nhắn cho Giáo sư – Người kia bắt đầu đọc một cách chật vật, như thể đang cố giải mã thủ bút của Peter – Hãy bảo Robert… mang… theo cái gói nhỏ có niêm phong mà tôi gửi anh ấy nhiều năm trước – Gã dừng lại – Câu này có ý nghĩa gì với Giáo sư không?
Langdon sực nhớ tới cái hộp nhỏ vẫn nằm yên trong két tường suốt thời gian qua, anh ngạc nhiên đáp.
– Có. Tôi biết Peter muốn nói gì.
– Và Giáo sư có thể mang nó theo chứ?
– Dĩ nhiên. Báo với Peter rằng tôi sẽ mang theo.
– Tuyệt vời – Viên trợ lý thở phào – Chúc Giáo sư có một buổi thuyết trình lý thú tối nay. Chúc Giáo sư thượng lộ bình an.
Trước khi rời nhà, Langdon lấy cái gói vẫn bọc kỹ ở đáy két và bỏ nó vào túi xách.
Giờ anh đang đứng trong Điện Capitol, lòng chắc chắn duy nhất một điều. Peter Solomon sẽ vô cùng sững sờ khi biết Langdon đã phụ lòng ông như thế nào.
Chú thích:
(45) Đây là thành phố Cambridge thuộc bang Massachusetts. Hoa Kỳ. – ND.
(46) Socrates là một triết gia Hy Lạp cổ đại, người được mệnh danh là bậc thầy về truy vấn. Thời trẻ ông nghiên cứu các loại triết học thịnh hành lúc bấy giờ, đó là nền triết học nỗ lực tìm hiểu vũ trụ thiên nhiên chung quanh chúng ta. Socrates được coi là người đặt nền móng cho thuật hùng biện dựa trên hệ thống những câu hỏi đối thoại. Ông có tư tưởng tiến bộ, nổi tiếng về đức hạnh với quan điểm: “Hãy tự biết lấy chính mình”. Ông bị chính quyền khi đó kết tội làm bại hoại tư tưởng của thanh niên do không thừa nhận hệ thống các vị thần cũ được thành Athènes thừa nhận và bảo hộ và truyền bá các vị thần mới. Vì thế ông bị tuyên phạt tự tử bằng thuốc độc. Sinh thời ông không mở trường dạy học, mà thường coi mình là có sứ mệnh của thần linh, nên phải đi dạy bảo mọi người và không làm nghề nào khác Socrates thường nói chuyện với mọi người tại các nơi công cộng, không lấy tiền. Học trò xuất sắc của ông là đại hiền triết Platon – ND.
(47) Mật nghi (các nghi thức bí truyền) Eleusis là các nghi lễ khai tâm được tổ chức hằng năm trong tín ngưỡng thờ thần Demeter và Persephone ở vùng Eleusis thuộc Hy Lạp cổ đại. Các huyền tích và nghi thức bí truyền này bắt đầu từ khoảng năm 1600 trước Công nguyên và tồn tại 2000 năm. Các nghi thức, nghi lễ và tín điều được giữ kín, vì người ta tin lễ khai tâm giúp gắn kết những người thờ cúng với các vị thần và hứa hẹn đem lại sức mạnh thần thánh cùng các phần thưởng ở thế giới bên kia – ND.