Bạn đang đọc Biểu Tượng Thất Truyền (The Lost Symbol): Chương 40 – 42
CHƯƠNG 40
Biểu Tượng Thất Truyền
Dịch giả: Nguyễn Xuân Hồng
Chương 40
Tại sao Trish đi lâu thế nhỉ?
Katherine Solomon lại xem đồng hồ lần nữa. Cô đã quên không thông báo với bác sĩ Abaddon về lộ trình đi tới phòng thí nghiệm của mình, nhưng cô không nghĩ rằng quãng đường tối tăm đó lại khiến hai người đi chậm đến vậy. Lẽ ra giờ này họ phải tới đây rồi chứ?
Katherine bước lại phía cửa chính, ráng sức mở cánh cửa bọc chì và đăm đăm nhìn vào khoảng tối vô định. Cô lắng nghe một lúc, nhưng chẳng thấy gì cả.
– Trish? – cô gọi, tiếng chìm nghỉm trong bóng tối đặc quánh.
Im lặng.
Bối rối, Katherine đóng cửa lại, lấy điện thoại di động và gọi ra sảnh.
– Tôi Katherine đây. Trish có ở ngoài đó không nhỉ?
– Không, thưa cô, – người bảo vệ ở sảnh đáp – Cô Dunne và vị khách đã quay vào được mười phút rồi mà.
– Thế à? Thậm chí họ còn chưa tới Khoang 5 ấy, tôi nghĩ thế.
– Chờ chút. Tôi sẽ kiểm tra – Katherine nghe rõ tiếng ngón tay của người bảo vệ gõ lách tách trên bàn phím máy tính – Cô nói đúng. Theo dữ liệu thẻ của cô Dunne thì cô ấy vẫn chưa mở cửa Khoang 5. Lần truy cập cuối cùng của cô ấy là khoảng 8 phút trước… ở Khoang 3. Tôi đoán cô ấy muốn dẫn khách của cô tham quan một chút trên đường đi.
Katherine cau mày. Rõ rồi. Tin báo có phần hơi kỳ cục nhưng ít nhất cô biết Trish không mấy khi ở lâu trong Khoang 3. Mùi ở đó rất kinh khủng.
– Cảm ơn anh. Anh trai tôi đến chưa nhỉ?
– Chưa, thưa cô, chưa thấy ạ.
– Cảm ơn anh.
Katherine tắt máy, và bỗng thấy lòng trào lên một nỗi lo lắng. Cảm giác khó chịu ấy khiến cô chững lại, nhưng chỉ trong chốc lát. Nó chính là tâm trạng bất an xâm chiếm tâm khảm cô lúc bước vào nhà bác sĩ Abaddon. Trực giác phụ nữ của cô đã không có tác dụng ở nơi đó Thật tệ.
Chẳng có gì đâu, Katherine tự nhủ.
CHƯƠNG 41
Biểu Tượng Thất Truyền
Dịch giả: Nguyễn Xuân Hồng
Chương 41
Robert Langdon chăm chú nhìn cái kim tự tháp bằng đá. Không thể nào tin nổi.
– Một ngôn ngữ cổ đã được mã hoá, – Sato nói mà không hề nhìn lên – Hãy cho tôi biết, điều này có ý nghĩa gì không?
Trên bề mặt mới lộ ra của kim tự tháp, một loạt 16 ký tự được khắc rất ngay ngắn trên lớp đá nhẵn thín.
Ở bên cạnh, Anderson đứng há hốc miệng, như phản ánh lại chính sự bất ngờ của Langdon. Trông bộ dạng viên Chỉ huy an ninh, dễ tưởng anh ta vừa nhìn thấy một loại bàn phím máy tính rất lạ lẫm.
– Giáo sư? – Sato lên tiếng – Tôi nghĩ là ông đọc được những chữ này?
Langdon ngó lại.
– Tại sao bà lại nghĩ thế?
– Bởi vì ông được mang tới đây, Giáo sư ạ. Ông được lựa chọn. Những chữ khắc này có vẻ là một dạng mật mã nào đó, và căn cứ vào tiếng tăm của ông, tôi thấy rõ ràng là người ta đưa ông tới để giải mã nó.
Langdon phải thừa nhận rằng sau những trải nghiệm ở Rome và Paris, anh liên tục nhận được đề nghị nhờ hoá giải các mật mã vẫn trong vòng tranh cãi, từ Đĩa Phaistos(56), Mật mã Dorabella(57), tới di cảo Voynich bí hiểm(58).
Sato rờ tay trên những dòng khắc.
– Ông cho tôi biết ý nghĩa của những tiêu ký này đi!
Đây không phải là những tiêu ký, Langdon nghĩ. Chúng là các biểu tượng. Anh đã nhận ra ngôn ngữ này, một loại ngôn ngữ mật mã từ thế kỷ XVII, và anh biết rất rõ cách giải mã nó.
– Thưa bà, kim tự tháp này là tài sản riêng của Peter. – anh ngập ngừng nói.
– Nếu thực tế đoạn mật mã này chính là lý do đưa ông tới Washington, thì tôi sẽ không cho ông cơ hội bàn đến chuyện của riêng hoặc của chung. Tôi muốn biết nó nói gì.
Chiếc Blackberry bật kêu to, Sato móc ngay ra khỏi túi, xem tin nhắn vừa gửi tới. Langdon rất ngạc nhiên vì mạng không dây nội bộ của Điện Capitol vẫn có thể hoạt động tít sâu dưới này.
Sato lầm bầm và nhướng mày, ném về phía Langdon một cái nhìn là lạ.
– Chỉ huy? – bà ta quay sang Anderson – Trao đổi riêng một chút, được không?
Giám đốc OS ra hiệu cho viên Chỉ huy an ninh đi theo, và họ biến mất ngoài hành lang tối đen như mực, bỏ Langdon lại một mình trong ánh nến chập chờn của Gian buồng Suy niệm.
***
Chỉ huy Anderson tự hỏi không biết khi nào thì buổi tối hôm nay mới kết thúc. Một bàn tay bị chặt đứt trong Nhà tròn của mình?Một linh đường chết chóc ngay trong tầng hầm của mình? Rồi những hình khắc kỳ quái trên một kim tự tháp đá? Trận đấu của đội Redskins giờ không còn ý nghĩa gì nữa.
Vừa theo Sato tiến vào bóng tối hành lang. Anderson vừa gõ nhẹ cây đèn pin. Quầng sáng đã yếu hẳn nhưng vẫn còn tốt hơn là chẳng có đèn đóm gì. Sato dẫn anh ta men theo hành lang vài thước, khuất khỏi tầm nhìn của Robert Langdon.
– Hãy xem cái này, – bà ta thì thào và đưa cho Anderson chiếc Blackberry của mình.
Anderson cầm lấy và chăm chú nhìn màn hình sáng rực. Nó hiển thị một bức hình đen trắng – hình X quang chiếc túi của Langdon mà Anderson đã yêu cầu gửi tới cho Sato. Ở tất cả các máy chụp X quang, những đồ vật có tỷ trọng lớn nhất sẽ xuất hiện với màu trắng sáng rõ nhất. Trong cái túi của Langdon có một vật nổi bật so với tất cả những thứ khác. Rõ ràng vật này cực kỳ đặc biệt vì nó hiện rõ như một món đồ trang sức sáng chói giữa cả mớ đồ linh tinh. Hình dáng của nó không lầm lẫn vào đâu được.
Anh ta đeo cái đó suốt buổi tối ư? Anderson nhìn Sato với vẻ ngạc nhiên.
– Sao cái tay Langdon này không nhắc đến nó nhỉ?
– Câu hỏi vớ vẩn quá, – Sato thì thào.
– Hình dạng… không thể là sự trùng hợp được.
– Không hề, – Sato đáp, giọng bà ta bừng bừng giận dữ – Tôi khẳng định là không.
Có tiếng lạo xạo mơ hồ trong hành lang khiến Anderson phải chú ý. Giật mình, anh ta quét cây đèn pin dọc theo lối đi tối đen. Luồng ánh sáng yếu ớt soi lên dãy hành lang vắng ngắt, các cánh cửa hai bên mở toang.
– Ai đó? – Anderson nói – Ai ở đó không?
Im lặng.
Sato ném cho viên Chỉ huy một cái nhìn kỳ quái, tỏ rõ rằng bà ta chẳng hề nghe thấy gì.
Anderson nghe ngóng một lúc nữa rồi mới bỏ cuộc. Mình phải chuồn khỏi đây thôi.
***
Còn lại một mình trong gian phòng thắp nến, Langdon dùng ngón tay rờ các viền sắc cạnh của dòng chữ trên kim tự tháp. Anh rất muốn biết bức thông điệp này nói gì, nhưng anh sẽ không xâm phạm bí mật riêng tư của Peter Solomon thêm nữa. Mà tại sao gã điên kia lại quan tâm đến cái kim tự tháp nhỏ này chứ?
– Chúng ta có một vấn đề, thưa Giáo sư, – giọng Sato vang lên rõ to ngay phía sau anh – Tôi vừa nhận được một thông tin mới, và tôi có đủ bằng chứng về những lời khai dối trá của ông.
Langdon xoay người lại. Vị Giám đốc OS đang bước vào với chiếc Blackberry trên tay, đôi mắt như bốc lửa. Langdon giật lui, liếc nhìn Anderson như cầu xin giúp đỡ, nhưng viên Chỉ huy lúc này đang đứng chắn ở cửa, vẻ mặt không hề có chút cảm thông.
Sato bước tới trước mặt Langdon và gí chiếc Blackberry của mình vào sát mặt anh.
Langdon kinh ngạc nhìn bức ảnh đen trắng như một âm bản phim trên màn hình. Bức hình hiển thị đủ thứ linh tinh, và một trong số đó rất sáng. Mặc dù không chính diện, nhưng vẫn có thể nhận ra đấy là một cái kim tự tháp nhỏ, đầu nhọn.
Một cái kim tự tháp bé xíu? Langdon nhìn Sato.
– Cái gì thế?
Câu hỏi dường như khiến Sato điên tiết.
– Ông giả vờ giả vịt đấy hả?
Cơn giận của Langdon bùng phát.
– Tôi chẳng vờ vịt gì hết! Tôi chưa bao giờ nhìn thấy thứ này!
– Vớ vẩn! – Sato cáu kỉnh, giọng bà ta xuyên qua màn không khí ẩm ướt – Suốt cả tối. Ông đã mang theo nó trong cái túi kia!
– Tôi… – Langdon chững lại nửa chừng. Mắt anh từ từ dịch chuyển xuống chiếc túi trên vai mình. Sau đó, anh lại ngước lên nhìn màn hình Blackberry. Lạy Chúa… cái gói. Anh ghé sát vào bức hình. Giờ anh đã nhận ra. Một cái hộp vuông có chứa kim tự tháp. Thì ra đây là bức hình chụp X quang túi vải của anh… và cả gói nhỏ hình hộp bí ẩn của Solomon. Khối hộp rỗng lòng… chứa một ngọn kim tự tháp.
Langdon toan phân trần, nhưng mọi ngôn từ bỗng bay biến đâu hết. Nhận thức giáng cho anh một đòn chí mạng, buồng phổi như không còn chút không khí nào nữa.
Đơn giản. Rõ ràng. Tàn phá.
Lạy Chúa. Anh nhìn lại cái kim tự tháp đá cụt ngọn nằm trên bàn. Đỉnh nó phẳng lì – một mặt cắt vuông vức nho nhỏ – một không gian bỏ trống đang chờ đợi cấu phần cuối cùng của mình… Cấu phần sẽ biến cải nó từ một Kim tự tháp Dang dở thành một Kim tự tháp Đích thực.
Giờ Langdon đã vỡ lẽ, cái kim tự tháp nhỏ xíu mà anh mang theo người không phải là một kim tự tháp hoàn chỉnh. Nó là phần chóp.
Trong khoảnh khắc đó, anh hiểu rõ tại sao chỉ mình anh mới đủ khả năng mở khoá những bí ẩn của kim tự tháp này.
Chính mình giữ phần chóp.
Và trên thực tế đó là một… lá bùa.
Khi Peter bảo Langdon rằng cái gói có chứa một lá bùa (talisman), Langdon đã không nhịn được cười. Giờ đây anh hiểu bạn mình nói đúng. Cái đỉnh kim tự tháp bé xíu này là một lá bùa, chứ không phải phép màu. Rất lâu trước khi từ bùa chú mang ý nghĩa phép thuật, nó đã có một nghĩa khác – “hoàn chỉnh”, Bắt nguồn từ telesma trong tiếng Hy Lạp, nghĩa là “hoàn chỉnh”, một lá bùa là bất cứ thứ gì hoặc ý tưởng gì hoàn tất thứ khác và làm cho thứ ấy trở thành chỉnh thể.
Nó là nhân tố hoàn thiện. Một cái chóp, nói một cách hình tượng, là lá bùa cuối cùng, biến Kim tự tháp Dang dở thành một biểu tượng của sự hoàn hảo trọn vẹn.
Lúc này, Langdon cảm thấy một sự pha trộn kỳ quái buộc anh phải chấp nhận một sự thật rất lạ: nếu không xét đến kích cỡ, thì kim tự tháp đá trong Gian buồng Suy niệm của Peter dường như đang dần biến đổi thành một thứ giống với Kim tự tháp Tam điểm trong huyền thoại.
Căn cứ vào độ sáng mà cái chóp thể hiện trên máy X quang, Langdon tin rằng nó được làm bằng kim loại… một thứ kim loại rất đặc. Liệu nó có phải là vàng khối hay không thì anh chưa biết và cũng không định để tâm trí đánh lừa chính mình. Cái kim tự tháp này quá nhỏ. Mật mã quá dễ đọc, và… nó là một huyền tích, lạy Chúa!
Sato vẫn quan sát anh.
– Là người hiểu biết mà Giáo sư lại xử sự rất dở tối nay. Định nói dối một Giám đốc tình báo ư? Hay cố tình cản trở cuộc điều tra của CIA?
– Tôi có thể giải thích, nếu bà cho phép.
– Ông sẽ phải giải thích tại trụ sở CIA. Còn lúc này, tôi bắt giữ ông.
Người Langdon cứng đờ.
– Bà không thể làm như vậy được.
– Hoàn toàn được. Tôi đã nhấn mạnh rằng ván bài tối nay rất lớn, và ông đã chọn nước bài không chịu hợp tác. Tôi khuyên ông nên nghĩ đến việc giải thích dòng chữ khắc trên kim tự tháp này, bởi vì khi chúng ta đến CIA… – Bà ta giơ chiếc Blackberry lên và chụp cận cảnh nội dung chữ khắc trên cái kim tự tháp đá – Các chuyên gia phân tích của tôi sẽ tiến hành trước đấy.
Langdon toan mở miệng phản đối, nhưng Sato đã ngó ra cửa, bảo Anderson.
– Chỉ huy, – bà ta ra lệnh – hãy cho cái kim tự tháp đá vào túi ông Langdon và xách lấy. Tôi sẽ bắt giữ ông Langdon. Vũ khí của anh đâu?
Anderson tiến vào phòng với bộ mặt lạnh lùng, rút khẩu súng của mình đưa cho Sato. Bà ta lập tức chĩa súng vào Robert Langdon.
Langdon tưởng đâu tất cả như không thật. Sao lại thế này chứ?
Bấy giờ Anderson tiến tới chỗ Langdon, nhấc cái túi khỏi vai anh, mang nó tới bên bàn và đặt lên ghế. Anh ta mở khoá, vạch miệng túi ra và nhét cái kim tự tháp đá nặng trịch trên bàn vào túi, cùng với sổ sách của Langdon và cái gói nhỏ.
Đột nhiên, có tiếng động ngoài hành lang. Bóng một người hiện ra ở ô cửa, lao bổ vào phòng và xẹt đến phía sau Anderson. Viên Chỉ huy chưa kịp phát giác thì đã bị người đó rùn vai huých mạnh vào lưng. Anderson chúi về phía trước, đầu va mạnh vào mép hốc tường.
Anh ta ngã sụp xuống bàn, làm ấy khúc xương cùng các đồ vật bắn tung lên. Chiếc đồng hồ cát vỡ tan dưới sàn. Cây nến đổ nghiêng trên nền nhà nhưng vẫn cháy.
Sửng sốt trước cảnh rối loạn này, Sato giơ ngay súng lên, nhưng người vừa đến đã chụp lấy một đoạn xương đùi và quật mạnh vào vai bà ta. Sato rú lên đau đớn và bật ngửa, đánh rơi cả vũ khí. Người kia đá văng khẩu súng đi rồi quay về phía Langdon. Đó là một người da đen cao dong dỏng, ăn vận rất lịch sự mà Langdon chưa gặp mặt bao giờ.
– Chụp lấy cái kim tự tháp! – người đàn ông ra lệnh – Theo tôi!
Chú thích:
(56) Đĩa Phaistos là một chiếc đĩa bằng đất sét nung lấy từ cung điện Phaistos từ thời Minoa, có lẽ từ giai đoạn giữa hoặc cuối Thời kỳ đồ đồng (thế kỷ II trước Công nguyên). Nó có đường kính khoảng 15 cm và cả hai mặt đều phủ kín một vòng xoáy ốc gồm các biểu tượng được đóng dầu. Mục đích và ý nghĩa của nó, cũng như nơi sản xuất ra nó vẫn là một điều gây tranh cãi, làm cho nó trở thành một trong những bí ẩn nổi tiếng nhất của ngành khảo cổ. Hiện vật độc đáo này hiện được trưng bày tại bảo tàng khảo cổ Heraklion ở Crete, Hy Lạp. Đĩa do nhà khảo cổ người Italia là Luigi Pernier tìm ra năm 1908. Đặc điểm của nó là 241 dấu hiệu, hình thành lên 45 dấu hiệu độc đáo, rõ ràng được tạo thành bằng cách đóng những “con dấu” tượng hình đã tạo sẵn vào một chiếc đĩa đất sét còn mềm, xoáy trôn ốc thuận chiều kim đồng hồ về phía tâm đĩa – ND.
(57) Mật mã Dorabella là một bức thư mã hoá do Tòng Nam tước Edward Elgar, nhà soạn nhạc người Anh, viết cho cô Dora Penny. Cho đến giờ ý nghĩa của bức thư vẫn là điều bí mật. Bức mật mã này gồm 87 ký tự chia làm 3 dòng, có vẻ như được tạo thành từ một bảng chữ cái gồm 24 biểu tượng, mỗi biểu tượng gồm 1, 2, hoặc 3 hình bán khuyên, xoay theo một trong 8 hướng – ND.
(58) Di cảo Voynich là một cuốn sách có minh hoạ bí ẩn vẫn chưa được giải mã. Người ta nghĩ rằng nó được viết trong khoảng thế kỷ XV-XVI. Vẫn chưa rõ về tác giả, kiểu chữ viết và ngôn ngữ trong di cảo. Cuốn sách được đặt theo tên thương nhân bán sách người Mỹ gốc Ba Lan là Wilfrid M. Voynich, người có được nó vào năm 1912. Hiện di cảo được lưu giữ tại Thư viện Di cảo và Sách hiếm Beinecke thuộc Đại học Yale với số hiệu “MS 408”. Người ta ước đoán sách gốc có 272 trang chia thành 17 tay sách, mỗi tay sách 16 trang. Hiện nay chỉ còn 240 trang bằng giấy da cừu, có một vài trang đã bị thất lạc khi Voynich có được cuốn sách – ND.
CHƯƠNG 42
Biểu Tượng Thất Truyền
Dịch giả: Nguyễn Xuân Hồng
Chương 42
Người đàn ông da đen đang dẫn Langdon qua mê cung ngầm của Điện Capitol rõ ràng là một nhân vật quyền thế. Ngoài việc thông thuộc đường đi lối lại giữa những hành lang và phòng ốc, ông ta còn mang theo một chiếc chìa khoá dường như mở được tất cả mọi cánh cửa trên đường họ đi.
Langdon theo sau, mau chóng chạy lên một cầu thang lạ hoắc. Quai da của chiếc túi đang đeo thít chặt vào vai anh theo mỗi bước đi Kim tự tháp đá nặng đến nỗi Langdon chỉ sợ nó sẽ làm quai túi đứt tung.
Những phút vừa qua thật phi lý, và giờ Langdon thấy hành động của mình hoàn toàn thuần bản năng. Lòng anh mách bảo rằng hãy tin tưởng người lạ này. Không chỉ cứu Langdon khỏi bị bắt giữ, ông ta còn mạo hiểm bảo vệ kim tự tháp bí ẩn của Peter Solomon cho dù cái kim tự tháp có là gì đi nữa. Tuy chưa rõ động cơ của người lạ, nhưng Langdon đã kịp nhận ra chiếc nhẫn vàng lấp lánh trên tay ông ta, một chiếc nhẫn của Hội Tam điểm với con phượng hoàng hai đầu cùng chữ số 33. Người đàn ông này và Peter Solomon không chỉ là những người bạn đáng tin cậy của nhau mà còn là huynh đệ Tam điểm ở cấp độ cao nhất.
Langdon theo người nọ lên đến đỉnh cầu thang, bước vào hành lang khác, băng qua một cánh cửa không có biển đề để tới lối đi dành cho nhân viên phục vụ. Họ chạy qua hàng dãy hộp nhu yếu phẩm và những túi rác, thình lình rẽ sang một cánh cửa dẫn tới một rạp chiếu phim sang trọng. Người dẫn đường đi theo lối ngách, qua những ô cửa chính để tới một tiền sảnh rất lớn. Giờ thì Langdon nhận ra họ đang ở trung tâm khách tham quan mà anh đã đi qua hồi tối.
Thật không may, ở đó có một nhân viên an ninh Điện Capitol.
Khi hai bên chạm mặt cả ba người đều dừng lại, đăm đăm nhìn nhau. Langdon nhận ra anh chàng gốc Tây Ban Nha này chính là người có mặt bên máy chiếu X quang.
– Nhân viên Nunez – người Mỹ da đen lên tiếng – Đừng nói gì. Hãy theo tôi.
Anh chàng cảnh vệ có vẻ băn khoăn nhưng vẫn làm theo mà không hỏi gì.
Người này là ai nhỉ?
Cả ba vội vã đi về góc đông nam của trung tâm du khách, tới một phòng giải lao nhỏ và một dãy cửa nặng nề với nhiều cột màu cam. Các cửa này đều được dán băng dính, rõ ràng để khỏi dính bụi từ khu vực tham quan bên ngoài. Người đàn ông bước tới và gỡ băng dính trên một cánh cửa. Sau đó, ông lục tìm chùm chìa khoá và nói với anh chàng nhân viên an ninh.
– Chỉ huy Anderson của chúng ta đang ở tầng đáy. Có lẽ anh ấy bị thương. Anh nên xuống xem tình hình thế nào.
– Vâng, thưa ngài – Trông Nunez thiểu não y như vấp phải tình huống báo động vậy.
– Điều quan trọng nhất là anh không hề gặp chúng tôi – Người đàn ông lựa ra một chiếc chìa khoá, tháo rời khỏi chùm và dùng nó để mở một cánh cửa đã cũ. Ông kéo cánh cửa thép và ném chiếc chìa cho anh chàng nhân viên – Hãy khoá cánh cửa này lại sau khi chúng tôi qua. Dán băng dính như cũ. Cho chìa khoá vào túi và đừng nói gì với bất kỳ ai. Kể cả Chỉ huy. Rõ chưa, nhân viên Nunez?
Anh chàng kia nhìn chiếc chìa khoá như thể vừa được tin tưởng giao phó một viên đá quý.
– Rõ, thưa ngài.
Người đàn ông bước vội qua cửa, Langdon đi theo. Anh nhân viên an ninh khoá cánh cửa nặng nề, Langdon còn nghe rõ tiếng anh ta dán lại băng dính.
– Giáo sư Langdon, – người đàn ông lên tiếng, đồng thời sải bước theo một hành lang khá hiện đại đang xây dở – Tên tôi là Warren Bellamy, bạn chí thân của Peter Solomon.
Langdon giật mình nhìn người đàn ông lịch lãm. Ông ta là Warren Bellamy ư? Tuy chưa từng gặp mặt, nhưng anh đã nghe nhắc nhiều đến tên tuổi vị kiến trúc sư Điện Capitol này.
– Peter đánh giá anh rất cao – Bellamy nói – và tôi thật tiếc vì chúng ta gặp nhau trong hoàn cảnh không vui vẻ gì.
– Peter đang gặp rắc rối. Tay ông ấy…
– Tôi biết – Giọng Bellamy đanh lại – Tôi sợ rằng thế chưa phải đã hết đâu.
Họ đến cuối hành lang khá sáng sủa, và lối đi đột ngột ngoặt sang trái, phía ấy tối như mực.
– Đi nào, – Bellamy nói và biến mất trong một phòng điều khiển điện gần đó, có cả mớ dây nhợ màu cam bò ra từ phòng này rồi chạy vào bóng tối hun hút của hành lang. Langdon chờ đợi, còn Bellamy dò dẫm bên trong. Chắc ông định tìm công tắc điện, bởi cả đãy hành lang trước mặt họ đột nhiên sáng trưng.
Langdon đứng đờ ra nhìn.
Washington D.C. – cũng như Rome – là một thành phố có nhiều lối đi bí mật và nhiều đường hầm dưới lòng đất. Lúc này, lối đi trước mặt khiến Langdon nhớ tới đường hầm Passetto(59) nối Vatican với Lâu đài Sant’Angelo(60). Rất dài. Tối tăm. Chật hẹp. Tuy nhiên, khác với Passetto cổ kính, lối đi này còn mới và vẫn chưa hoàn thiện. Đây là một khu vực xây dựng dài đến mức dường như không có điểm cuối. Thứ ánh sáng duy nhất là một dãy bóng đèn bố trí cách quãng càng làm nổi bật chiều sâu hun hút của đường hầm.
Bellamy đã tiến vào hành lang.
– Theo tôi. Cẩn thận khi bước đấy.
Langdon theo sát dấu chân Bellamy, lòng băn khoăn không rõ đường hầm này dẫn tới đâu.
***
Cùng lúc đó, Mal’akh bước ra khỏi Khoang 3 và rảo chân theo hành lang chính vắng hoe của SMSC để tiến về phía Khoang 5. Gã nắm chặt tấm thẻ của Trish trong tay và khẽ lẩm bẩm.
– Không-tám-không-bốn.
Trong đầu gã còn lởn vởn ý nghĩ gì đó. Mal’akh vừa nhận được một tin nhắn khẩn từ Điện Capitol. Tay trong của ta vướng phải những trở ngại ngoài dự đoán. Thế nhưng vẫn có những tin khá thú vị: Rober Langdon đã nắm giữ cả kim tự tháp và cái chóp. Cho dù mọi việc diễn ra ngoài dự liệu thì các đồ vật quan trọng đều đã tụ về một chỗ. Số phận đang an bài mọi sự kiện tối nay, bảo đảm cho thắng lợi của Mal’akh.
Chú thích:
(59) Đường hầm Passetto di Borgo, gọi tắt là Passetto, là một lối đi trên cao nối giữa Vatican và Lâu đài Sant’Angelo. Đây là một hành lang dài gần 800 m, được Giáo hoàng Nicholas III cho xây năm 1277. Trong một số trường hợp, nó được dùng làm lối thoát hiểm cho Giáo hoàng – ND.
(60) Bảo tàng Hadrian, thường được đến với tên gọi Lâu đài Sant’Angelo, là một toà nhà hình tròn cao vút ở Rome, nguyên thuỷ được Hoàng đế La Mã Hardian xây dựng làm bảo tàng ình và gia đình. Sau này, công trình được sử dụng như một pháo đài, thậm chí là nơi giam cầm, còn nay là một bảo tàng. Lâu đài Sant’Angelo xuất hiện trong tiểu thuyết Thiên thần và ác quỷ của Dan Brown với tư cách là hang ổ bí mật của Hội Hassassin Và là thánh đường cuối cùng còn tồn tại của tổ chức Illuminati – ND.