Bạn đang đọc Biểu Tượng Thất Truyền (The Lost Symbol): Chương 39 – 37
CHƯƠNG 37
Biểu Tượng Thất Truyền
Dịch giả: Nguyễn Xuân Hồng
Chương 37
Trong đời mình, Mal’akh đã từng nhìn thấy một vài không gian kỳ quái, nhưng rất ít nơi ganh đua được với thế giới bất phàm của Khoang 3. Thuỷ trì. Trông như thể một nhà khoa học điên khùng đã chiếm lấy siêu thị Walmart và chất các bình mẫu vật đủ hình đủ dạng lên mọi giàn và giá đựng đồ để tạo ra hiện trạng của căn phòng rộng mênh mông này. Với kiểu chiếu sáng như trong phòng rửa ảnh, Khoang 3 tràn ngập thứ “ánh sáng an toàn” màu đỏ nhờ nhờ phát ra từ bên dưới các giá đỡ, toả ngược lên trên và soi thẳng tới những bình chứa đựng đầy ethanol. Mùi hoá chất bảo quản khiến người ta buồn nôn.
– Khoang này chứa hơn 20.000 mẫu vật. – cô gái mũm mĩm giới thiệu – Cá, động vật gặm nhấm, động vật có vú, bò sát.
– Tôi hy vọng tất cả đều chết hẳn rồi chứ? – Mal’akh hỏi, cố tỏ ra lo lắng.
Cô gái cười.
– Vâng, vâng. Tất cả đều chết rồi. Nhận việc ở đây xong, suốt sáu tháng đầu tôi không dám bước vào phòng này đấy.
Mal’akh có thể hiểu lý do tại sao. Nhìn đến đâu cũng chỉ thấy tiêu bản của đủ mọi loại sinh vật đã chết – kỳ nhông, sứa, chuột, sâu bọ, chim, và nhiều giống khác mà gã không xác định được. Chừng như sợ bản thân bộ sưu tập còn chưa đủ kinh dị, người ta mới lắp những ngọn đèn đỏ nhờ nhờ kia. Chúng giữ cho các mẫu vật nhạy sáng nọ không bị ánh sáng trực tiếp chiếu vào quá lâu, khiến khách tham quan có cảm giác mình đang đứng trong một bể thuỷ sinh khổng lồ, xung quanh là bóng tối với các sinh vật vô hồn đang âm thầm theo dõi.
– Kia là một con cá vây tay, – Trish giới thiệu và trỏ một bình chứa bằng Plexiglas rất lớn đựng con cá xấu xí nhất mà Mal’akh từng nhìn thấy – Người ta cứ nghĩ loài này đã tuyệt chủng cùng với khủng long, nào ngờ mấy năm trước có người lại tìm được nó ngoài khơi châu Phi và chuyển tặng cho viện Smithsonian.
May cho cô đấy, Mal’akh nghĩ, hầu như chẳng buồn nghe. Gã còn bận lướt nhìn các bức tường để tìm kiếm máy quay an ninh. Gã mới nhìn thấy một cái – bố trí ngay ở cửa chính – không có gì lạ bởi vì cửa là lối ra vào duy nhất ở đây.
– Còn kia là thứ anh muốn xem… – Trish nói, dẫn Mal’akh tới cái bể khổng lồ mà gã nhìn thấy từ cửa sổ – Tiêu bản dài nhất của chúng tôi – Cô dang rộng cánh tay để mô tả con vật kinh khủng, chẳng khác gì người dẫn chương trình đang giới thiệu một chiếc xe hơi mới – Một con Architeuthis.
Bể chứa con mực trông giống một loạt buồng kính điện thoại được đặt nghiêng và đục thông với nhau. Bên trong cỗ quan tài bằng Plexiglas trong suốt, dài thượt này là một hình dáng nhợt nhạt và khó xác định Mal’akh trân trối ngó cái đầu hình củ hành và đôi mắt to bằng quả bóng rổ.
– Thứ này khiến cho con cá vây tay của cô trông vẫn còn hấp dẫn chán, – gã nhận xét.
– Cứ đợi tới lúc anh nhìn phần tua của nó nhé!
Trish lật phần nắp bể lên. Mùi ethanol ùa ra khi cô nhoài người vào bể và bật một cái công tắc ngay phía trên vạch chất lỏng. Một dãy đèn huỳnh quang nhấp nháy sáng lên dọc theo toàn bộ phần đáy bể. Con Architeuthis liền hiện ra với toàn bộ vẻ rực rỡ của nó – một cái đầu khổng lồ gắn vào khối thân đồ sộ trơn trượt gồm toàn những xúc tu và giác hút sắc như dao cạo.
Trish bắt đầu kể một con Architeuthis có thể đánh gục một con cá voi như thế nào.
Mal’akh hờ hững nghe.
Đã đến lúc rồi.
***
Mỗi lần vào Khoang 3, Trish Dunne lại cảm thấy hơi bất an, nhưng cảm giác ớn lạnh vừa chạy qua người cô rất khác lạ.
Rất bản năng. Rất nguyên thuỷ.
Trish cố gắng phớt lờ, nhưng nó mau chóng nổi lên rõ rệt và bám riết lấy cô. Mặc dù không xác định nổi căn nguyên nỗi lo lắng của mình, nhưng linh tính mách bảo Trish rằng đã đến lúc phải rời khỏi nơi này.
– Dẫu sao đó cũng chỉ là con mực, – cô kết luận, tiến lại bể và tắt đèn – Có lẽ chúng ta nên vào chỗ Katherine…
Một bàn tay to lớn bịt cứng lấy miệng Trish, giật mạnh đầu cô ra sau. Ngay lập tức, một cánh tay chắc khỏe siết lấy cổ cô, ép mạnh cô vào một bộ ngực cứng như đá. Trong khoảng khắc, Trish đờ đẫn vì bất ngờ.
Tiếp đến là nỗi kinh hãi.
Gã kia đưa tay sờ soạng ngực Trish, tóm lấy tấm thẻ từ và giật ra. Dây đeo miết vào gáy cô bỏng rát trước khi đứt tung. Chiếc thẻ rơi xuống sàn ngay dưới chân họ. Trish vùng vẫy, cố gắng thoát thân, nhưng bàn tay gã nọ vẫn bịt chặt miệng cô. Gã cúi xuống và ghé sát miệng vào tai cô, thì thào.
– Khi anh buông tay khỏi miệng cưng, cưng không được kêu, rõ chưa?
Trish cuống quít gật đầu, phổi như rách toang vì thiếu không khí.
Mình ngạt thở quá!
Gã đàn ông bỏ tay khỏi miệng Trish, và cô há miệng, hít thật sâu.
– Hãy để cho tôi đi? – cô hổn hển van nài – Anh làm gì vậy?
– Cho anh biết số PIN của cưng nào, – gã đàn ông nói.
Trish hoàn toàn bối rối. Katherine! Giúp em! Gã đàn ông này là ai?!
– Bảo vệ có thể nhìn thấy anh đấy! – cô nói, nhưng biết rõ rằng họ ở ngoài tầm nhìn của các máy quay. Không có ai đang quan sát cả.
– Số PIN của cưng, – gã đàn ông nhắc lại – Số PIN khớp với thẻ của cưng ấy.
Nỗi sợ hãi lạnh buốt xâm chiếm ruột gan Trish, cô quẫy đạp dữ dội, vùng vẫy cánh tay còn tự do và cào lên mắt gã đàn ông. Những ngón tay của cô chạm vào thịt và cào sâu một bên má. Bốn vết rách thẫm màu lộ ra trên da thịt gã. Khi đó, cô nhận ra những vết thẫm màu trên da thịt gã kia không phải là máu. Cô vừa cào rách lớp mặt nạ hoá trang của gã, để lộ ra những hình xăm xám xịt phía dưới.
Con quái vật này là ai? Với sức mạnh kinh người, gã đàn ông xoay mạnh Trish và nhấc bổng cô lên, giơ cô lơ lửng phía trên cái bể ngâm mực khổng lồ vẫn để ngỏ. Khuôn mặt cô gần sát với dung dịch ethanol. Mùi hoá chất xộc vào mũi cô bỏng rát.
– Số PIN của mày là gì? – gã kia nhắc lại.
Mắt Trish cay xè, cái xác tái nhợt của con mực nằm chìm phía dưới, rất gần mặt cô.
– Nói cho tao biết, – gã đàn ông ra lệnh, hạ Trish xuống sát mặt dung dịch – Là gì nào?
Cổ họng Trish rát bỏng.
– Không-tám-không-bốn! – cô nói vội, gần như nghẹt thở – Hãy thả tôi ra! Không-tám-không-bốn!
– Mày nói dối, – gã đàn ông đe doạ, hạ tay xuống thấp hơn nữa khiến tóc Trish chạm vào ethanol.
– Tôi không nói dối! – cô đáp và ho sặc sụa – Mùng 4 tháng Tám! Đó là sinh nhật tôi!
– Cảm ơn nhé, Trish.
Hai bàn tay rất khỏe của gã đàn ông nghiến chặt vào đau Trish, và một sức mạnh kinh người ấn mạnh cô xuống thấp, làm mặt cô ngập vào làn bể. Hai mắt cô bỏng rát. Gã đàn ông nhấn mạnh hơn, khiến cả đầu cô gái chìm hẳn trong dung dịch ethanol. Trish cảm thấy mặt mình áp vào cái đầu con mực.
Thu hết sức lực trong người, cô quẫy đạp dữ dội, cong người về phía sau, cố gắng nhấc đầu mình lên khỏi bể dung dịch. Nhưng hai bàn tay chắc khỏe kia vẫn không nhúc nhích.
Mình phải thở
Vẫn chìm trong dung dịch, Trish cố gắng không mở mắt và miệng, cố gắng không hít vào, dù hai phổi đau rát. Không. Đừng! Nhưng cuối cùng phản xạ hô hấp của Trish đã thắng thế.
Miệng cô há ra, hai lá phổi mở căng hết cỡ, hối hả hút lấy dưỡng khí mà cơ thể đang cần. Dòng ethanol cuồn cuộn ộc vào miệng cô.
Khi các hoá chất xộc tới phổi, Trish cảm nhận một cơn đau đớn chưa từng hình dung nổi trong đời. Thật may, nó chỉ kéo dài vài giây trước khi thế giới quanh cô vụt tắt.
***
Mal’akh đứng cạnh bể, thở dốc và xem xét hiện trường.
Người phụ nữ bất động nằm gục trên thành bể, mặt vẫn chìm trong ethanol. Nhìn xác cô gái. Mal’akh chợt nhớ lại một người phụ nữ khác từng bị gã sát hại.
Isabel Solomon.
Đã lâu lắm rồi. Một sinh mạng khác.
Mal’akh chòng chọc nhìn cái xác mềm nhũn. Rồi gã ôm lấy hông Trish và dùng chân kê, nhấc cô lên, đẩy vào qua mép bể. Trish Dunne trượt xuống dung dịch ethanol, đầu trước, thân sau, và rơi tùm xuống. Mặt nước lắng dần, chỉ còn thấy cô gái nổi lập lờ phía trên sinh vật biển khổng lồ kia. Khi lớp quần áo ngấm dung dịch và nặng dần, Trish bắt đầu chìm xuống lòng bóng tối, từng chút, từng chút một, cuối cùng nằm yên phía trên con mực.
Mal’akh lau tay và đậy nắp Plexiglas, khoá bể lại.
Thuỷ trì có thêm một mẫu vật mới.
Gã nhặt chiếc thẻ trên sàn và đút vào túi: 0804.
Lúc mới nhìn thấy Trish ở sảnh. Mal’akh cho rằng cô là một trở ngại. Sau đó, gã nhận ra tấm thẻ và mã PIN của cô chính là những yếu tố bảo đảm cho âm mưu của gã. Nếu phòng lưu trữ dữ liệu được bảo vệ đúng như Peter nói thì sẽ hơi khó khăn để thuyết phục Katherine mở ra. Giờ thì ta đã có chìa khoá. Gã rất hài lòng vì không phải phí thời gian phỉnh phờ Katherine làm theo ý gã nữa.
Lúc đứng thẳng lên. Mal’akh nhìn thấy bóng mình phản chiếu trong ô cửa sổ, với lớp hoá trang đã bị cào rách nát. Nhưng chẳng sao.
Khi Katherine hiểu ra mọi việc thì đã quá muộn rồi.
CHƯƠNG 38
Biểu Tượng Thất Truyền
Dịch giả: Nguyễn Xuân Hồng
Chương 38
– Phòng này là của Hội Tam điểm ư? – Sato hỏi, rời mắt từ cái đầu lâu sang phía Langdon.
Langdon thản nhiên gật đầu.
Người ta gọi nó là Gian buồng Suy niệm. Những căn phòng loại này được thiết kế như những nơi rất lạnh lẽo, giản đơn để ột hội viên Tam điểm có thể suy niệm về cái chết của chính mình. Bằng cách ngồi thiền định, ngẫm nghĩ về tính tất yếu của cái chết, một hội viên Tam điểm có thể ngộ ra nhiều điều rất giá trị về bản chất của cuộc sống.
Sato nhìn quanh một lượt cái không gian quái dị này, rõ ràng là chưa tin tưởng lắm.
Đây là một dạng phòng thiền ư?
Hoàn toàn đúng. Những gian buồng này luôn chứa cùng một loại biểu tượng: đầu lâu và xương bắt chéo, lưỡi hái, đồng hồ cát, lưu huỳnh, muối, giấy trắng, nến và vài thứ khác. Các biểu tượng của cái chết gợi cho hội viên Tam điểm nhiều suy nghĩ, xem sống thế nào cho tốt khi còn tồn tại trên cõi đời này.
Trông cứ như một miếu thờ thần chết vậy, – Anderson nói.
Đó cũng là một nhận định.
Hầu hết các sinh viên môn biểu tượng học của tôi đều có chung một phản ứng ban đầu – Langdon thường gợi ý họ đọc cuốn Các biểu tượng Của Hội Tam điểm do Beresniak soạn, trong đó có những bức ảnh rất đẹp về các Gian phòng Suy niệm.
– Và sinh viên của ông không hề kinh hãi khi biết các hội viên Tam điểm ngồi thiền với đầu lâu và lưỡi hái? – Sato gặng hỏi.
– Cũng không kinh hãi hơn là bao so với cảnh tín đồ Thiên Chúa giáo cầu nguyện dưới chân người bị đóng đinh thập giá, hay tín đồ Hindu tụng kinh trước mặt vị thần voi bốn tay Ganesh. Việc hiểu sai các biểu tượng của một nền văn hoá là nguyên nhân phổ biến gây ra sự kỳ thị.
Sato quay đi, rõ ràng là không hứng thú lắm tới bài giảng. Bà ta tiến về phía chiếc bàn. Anderson cố gắng rọi đèn theo, nhưng quầng sáng bắt đầu mờ dần. Anh ta vỗ vỗ vào đế đèn để làm cho nó sáng hơn một chút.
Ba người tiến sâu hơn vào khoảng không gian chật hẹp. Mùi lưu huỳnh cay xè xộc vào lỗ mũi Langdon. Tầng đáy rất ẩm ướt, và hơi ẩm trong không khí chính là tác nhân kích thích lưu huỳnh. Sato đến bên chiếc bàn và đăm đăm nhìn xuống cái sọ cùng những đồ vật đi kèm. Anderson theo chân bà ta, cố hết sức soi rọi chiếc bàn bằng ánh sáng đang mờ dần của chiếc đèn pin.
Sato kiểm tra mọi thứ trên bàn rồi chống tay lên hông, thở dài.
– Cái đống đồng nát này là gì nhỉ?
Langdon biết rằng đồ vật trong căn phòng này được lựa chọn và bài trí rất tỉ mỉ.
– Là các biểu tượng của quá trình biến cải. – anh giải thích, cảm thấy gò bó khi tiến tới và cùng đứng với hai người kia bên chiếc bàn – Đầu lâu là biểu tượng cho quá trình cải biến cuối cùng của con người thông qua giai đoạn phân rã, nó cũng nhắc nhở rằng một ngày nào đó tất cả chúng ta đều sẽ trút bỏ xác thịt. Lưu huỳnh và muối là các chất xúc tác giả kim để thúc đẩy quá trình này. Đồng hồ cát tượng trưng cho sức mạnh khả biến của thời gian – Anh trỏ cây nến không cháy – Thứ này đại diện cho ngọn lửa nguyên sơ và việc đánh thức con người khỏi giấc ngủ mê muội của mình, đó là một quá trình thay đổi thông qua khai sáng.
– Thế thứ kia? – Sato hỏi, tay trỏ vào góc.
Anderson xoay cây đèn pin về phía lưỡi hái to tướng đứng dựa vào bức tường hậu.
– Không phải là biểu tượng của cái chết như nhiều người lầm tưởng, – Langdon nói – Lưỡi hái thực ra là một biểu tượng cho sự nuôi dưỡng của trời đất, người ta dùng nó để thu hoạch những món quà tự nhiên.
Sato và Anderson đều im lặng, rõ ràng là đang cố ghi nhận không gian kỳ quặc xung quanh.
Langdon chỉ muốn rời khỏi đây thật mau.
– Căn phòng có vẻ dị thường với các vị, – anh bảo họ – nhưng chẳng có gì để xem ở đây cả, thật sự thì nó rất bình thường. Vô khối nơi hội họp của Hội Tam điểm cũng có những căn buồng giống hệt thế này.
– Nhưng đây không phải là nơi hội họp của Hội Tam điểm! – Anderson tuyên bố – Đây là Điện Capitol, và tôi muốn biết căn phòng này có tác dụng quái quỷ gì trong toà nhà của tôi.
– Đôi khi các hội viên Tam điểm bố trí riêng những không gian này trong văn phòng hoặc tư gia của mình để làm nơi thiền định. Chuyện đó không phải là hiếm – Langdon biết một bác sĩ mổ tim ở Boston đã biến một ngăn nhỏ trong văn phòng mình thành Gian buồng Suy niệm để suy ngẫm về cái chết trước khi tiến hành ca phẫu thuật.
Sato có vẻ bồn chồn.
– Ý ông là Peter Solomon xuống đây để suy niệm về cái chết ư?
– Thật sự thì tôi không biết, – Langdon thành thực đáp – Có lẽ ông ấy tạo ra gian phòng này cho các huynh đệ Tam điểm đang làm việc trong toà nhà, dành cho họ một không gian tinh thần tách biệt hẳn với những hỗn loạn của thế giới trần tục… một nơi để nhà làm luật quyền thế suy niệm trước khi đưa ra những quyết định gây ảnh hưởng đến người khác.
– Một tình cảm đáng trân trọng, – Sato nói giọng mỉa mai – nhưng tôi có cảm giác dân Mỹ sẽ thấy bất ổn khi biết các nhà lãnh đạo của mình ngồi cầu nguyện trong mấy gian buồng chứa lưỡi hái và đầu lâu.
Ồ, không hề, Langdon nghĩ thầm và tin rằng thế giới sẽ khác hẳn nếu có nhiều nhà lãnh đạo dành thời gian suy ngẫm về ý nghĩa của cái chết trước khi phát động chiến tranh.
Sato bĩu môi và cẩn thận xem xét tất cả bốn góc gian buồng.
– Dứt khoát phải có gì đó ở chỗ này ngoài đống xương người và mấy cái bát hoá chất, thưa Giáo sư. Có kẻ đưa ông từ nhà riêng ở Cambridge tới đây chỉ để có mặt trong gian buồng này mà.
Langdon nắm chặt cái túi đeo bên sườn, vẫn không hiểu nổi gói nhỏ anh mang theo có liên hệ gì với gian buồng này.
– Thưa bà, tôi xin lỗi, nhưng tôi không thấy có gì khác thường ở đây cả – Langdon hy vọng rằng cuối cùng họ cũng có thể tiến hành việc tìm kiếm Peter.
Ánh đèn của Anderson lại chập chờn, và Sato quay phắt về phía anh ta, lộ rõ vẻ cáu kỉnh.
– Trời đất ơi, phiền phức ghê! – Bà ta thọc tay vào túi và lôi ra một cái bật lửa hút thuốc. Bật lửa lên, bà ta giơ tay thắp ngọn nến để trên bàn. Bấc nến nổ lách tách và cháy sáng, toả ra thứ ánh sáng ma quái trong không gian ngột ngạt này. Những cái bóng dài nhảy nhót trên tường đá. Khi ngọn lửa sáng hơn, một cảnh tượng bất ngờ hiện ra trước mắt họ.
– Nhìn kìa! – Anderson nói và giơ tay chỉ.
Dưới ánh nến, họ nhìn thấy một bức tranh graffiti đã mờ, nội dung là bảy chữ cái viết hoa nguệch ngoạc chạy suốt bức tường hậu:
VITRIOL
– Từ ngữ gì mà vớ vẩn thế, – Sato lên tiếng trong khi ánh nến chiếu rõ một cái bóng đáng sợ hình đầu lâu vắt ngang dãy chữ cái.
– Nói cho đúng thì đó là một cụm từ viết tắt. – Langdon nói – Nó được viết trên tường hậu của hầu hết những gian buồng kiểu này, một dạng tốc ký của câu thần chú thiền định của Hội Tam điểm: Visita interiora terrae, rectificando invenies occultum lapidem
Sato nhìn anh, vẻ rất thán phục.
– Nghĩa là gì?
– Hãy ghé thăm lòng đất, và bằng cách chỉnh sửa. anh sẽ tìm thấy hòn đá được cất giấu.
Ánh mắt Sato sáng ngời.
– Thế hòn đá được cất giấu có liên hệ gì với một kim tự tháp được giấu kín không nhỉ?
Langdon nhún vai, không muốn gợi ra sự so sánh.
– Những kẻ thích thêu dệt về kim tự tháp bí mật ở Washington sẽ bảo bà rằng occultum lapidem là nói đến kim tự tháp đá. Những người khác sẽ bảo nó ám chỉ Hòn đá Triết học – một chất mà các nhà giả kim tin rằng có thể mang lại cho họ cuộc sống vĩnh hằng hoặc biến chì thành vàng. Những người khác nữa thì lại bảo nó nhắc đến Điện Thánh, một gian phòng bằng đá được giấu kín ở trung tâm Đại Đền(55). Một số lại nói nó mang ý nghĩa Thiên Chúa giáo, chỉ những lời dạy được giấu kín của Thánh Peter. Tất cả các truyền thống bí truyền đều diễn giải “hòn đá” theo cách của mình, nhưng occultum lapidem luôn là một nguồn sức mạnh và sự khai sáng.
Anderson hắng giọng.
– Có thể Solomon nói dối gã điên kia? Biết đâu ông ấy bảo gã rằng dưới này có gì đó… song thật sự là chẳng có gì.
Langdon cũng đang có những ý nghĩ tương tự.
Đột nhiên, ánh nến chao đảo như bị gió tạt. Nó lụi đi trong chốc lát rồi cháy sáng trở lại.
– Chết rồi. – Anderson nói – Tôi hy vọng không ai đóng lối cửa cầu thang – Anh ta sải bước khỏi gian buồng và tiến ra hành lang tăm tối – Ai đấy?
Langdon không để ý nhìn anh ta đi ra. Mắt anh đột nhiên bị hút vào bức tường hậu. Cái gì thế nhỉ?
– Ông trông thấy không? – Sato hỏi, mắt cũng đăm đăm nhìn bức tường.
Langdon gật đầu, tim đập rộn lên. Mình vừa nhìn thấy cái gì nhỉ?
Chỉ mới khoảng khắc trước đó, bức tường hậu dường như lung lay, cứ như thể có một làn sóng năng lượng quét qua nó.
Giờ Anderson lại sải bước vào phòng.
– Không có ai ngoài kia – Khi anh ta bước vào, bức tường lại lay động – Trời ơi! – anh ta kêu lên và nhảy bật trở lại.
Cả ba đứng bất động một lúc lâu, trân trối nhìn bức tường hậu. Langdon cảm thấy cơn ớn lạnh chạy suốt toàn thân khi nhận ra những gì vừa nhìn thấy. Anh ngập ngừng vươn tay, cho tới khi đầu ngón tay chạm vào bề mặt bức tướng hậu của gian buồng.
– Không phải là tường, – anh nói.
Anderson và Sato bước lại gần hơn, chăm chú nhìn.
– Nó là một tấm toan, – Langdon nói.
– Nhưng nó gợn sóng, – Sato nói nhanh.
Phải, một cách rất kỳ lạ. Langdon kiểm tra lại bề mặt tấm toan.
Lớp óng ánh trên mặt toan đã khúc xạ lại ánh nến một cách rất lạ bởi vì tấm toan vừa gợn sóng lùi xa khỏi căn phòng… bay về phía sau qua mặt phẳng bức tường hậu.
Langdon duỗi các ngón tay rất nhẹ nhàng ấn lớp toan về phía sau.
Giật mình, anh rụt phắt tay lại. Có một chỗ hổng!
– Kéo sang một bên đi, – Sato ra lệnh.
Tim Langdon đập loạn lên. Anh vươn tay và nắm lấy mép tấm toan, từ từ kéo lớp vải sang một bên. Anh trân trối nhìn những gì ẩn giấu sau đó, không tin nổi vào mắt mình. Lạy Chúa.
Sato và Anderson đứng lặng đờ khi nhìn qua chỗ hổng ở bức tường hậu.
Cuối cùng, Sato lên tiếng.
– Rõ ràng chúng ta đã tìm thấy kim tự tháp.
Chú thích:
(55) Theo quan niệm Do Thái, thế giới của Chúa rất vĩ đại và thiêng liêng. Mảnh đất thiêng liêng nhất trên thế giới là đất Israel. Ở Israel, thành phố thiêng liêng nhất là Jerusalem. Tại đây, nơi thiêng liêng nhất là Đại Đền, và trong Đại Đền, vị trí thiêng liêng nhất là Điện Thánh. Nơi này từng cất giữ hai tấm thẻ ghi lại Mười điều răn. Những tấm thẻ này đã biến mất khi người Babylon phá huỷ Đại Đền. Sau này, Điện Thánh chỉ là một gian phòng nhỏ, không có gì, nơi mỗi năm một lần, Đại Tư tế vào để thay mặt Israel cầu khấn Chúa Trời – ND.
CHƯƠNG 39
Biểu Tượng Thất Truyền
Dịch giả: Nguyễn Xuân Hồng
Chương 39
Robert Langdon đăm đăm nhìn chỗ hổng ở bức tường hậu gian buồng. Ẩn sau tấm toan là một lỗ hổng vuông vức được trổ lõm vào tường. Chỗ hổng đó, mỗi chiều khoảng gần 1 mét, có vẻ như được tạo ra bằng cách gỡ bỏ một vài hàng gạch. Trong bóng tối. Langdon thoáng nghĩ cái lỗ đó là ô cửa sổ mở sang một gian buồng khác.
Còn giờ thì anh thấy không phải như vậy.
Chỗ hổng chỉ ăn sâu vào tường tầm 1 mét thì hết. Nhìn cái hốc khoét vội vàng. Langdon nhớ tới hốc tường được thiết kế để đặt một pho tượng trong viện bảo tàng, và ô tường này cũng bày một vật nhỏ nhắn vừa in.
Vật ấy cao khoảng 23 centimet, đẽo từ đá hoa cương đặc. Bề mặt nó láng bóng với bốn mặt được mài nhẵn, sáng rõ trong ánh nến.
Langdon không hiểu nổi nó có tác dụng gì ở đây. Một kim tự tháp bằng đá?
– Trông vẻ ngạc nhiên của ông, tôi đoán thứ này không hề phổ biến trong một Gian buồng Suy niệm – Sato lên tiếng, vẻ rất hả hê.
Langdon lắc đầu.
– Có lẽ ông nên xem xét lại những lời kể trước đây về truyền thuyết Kim tự tháp Tam điểm được cất giấu ở Washington chăng? – Giọng bà ta đầy tự mãn.
– Bà Giám đốc, – Langdon đáp trả tức thì – cái kim tự tháp nhỏ bé này không phải là Kim tự tháp Tam điểm.
– Nhưng trùng hợp làm sao khi chúng ta tìm thấy một kim tự tháp cất giấu tại trung tâm Điện Capitol, trong một gian phòng bí mật thuộc về một thủ lĩnh Hội Tam điểm?
Langdon dụi mắt và cố gắng suy nghĩ.
– Thưa bà, kim tự tháp này không giống truyền thuyết tí nào cả. Kim tự tháp Tam điểm được mô tả là rất lớn, với phần chóp đúc bằng vàng đặc.
Hơn nữa, Langdon biết rằng cái kim tự tháp nhỏ bé này – với đỉnh bằng phẳng – thậm chí còn không phải là một kim tự tháp đích thực. Không có chóp, nó chỉ là một biểu tượng khác mà thôi. Vẫn được biết đến bằng tên gọi Kim tự tháp Dang dở, nó là một biểu tượng nhắc nhở rằng hành trình tiến tới tiềm năng đầy đủ của con người luôn là một công việc đang phải thực hiện. Mặc dù ít người nhận ra, nhưng biểu tượng này là biểu tượng phổ biến nhất trên Trái đất. Hơn hai mươi tỉ bản in. Xuất hiện trên tất cả các tờ tiền 1 đô la đang lưu hành, Kim tự tháp Dang dở kiên nhẫn chờ đợi cái chóp sáng ngời của nó, nằm lơ lửng phía bên trên như lời nhắc nhở về định mệnh vẫn chưa hoàn thành của nước Mỹ, về công việc còn phải tiến hành, vừa với tư cách một quốc gia vừa với tư cách của những cá nhân.
– Nhấc nó xuống đi. – Sato bảo Anderson, mắt dán chặt vào cái kim tự tháp – Tôi muốn nhìn kỹ hơn – Bà ta bắt đầu dọn chỗ trên bàn bằng cách thô bạo gạt hết cái sọ và những khúc xương sang một bên.
Langdon bắt đầu cảm thấy họ như những kẻ cướp lăng mộ, mạo phạm linh đường của một con người.
Anderson thận trọng bước qua Langdon, chui vào trong hốc tường và bấu chặt hai bàn tay hộ pháp vào hai mặt kim tự tháp. Sau đó, cảm thấy khó nhấc lên được ở góc đứng bất tiện này, anh ta kéo cái kim tự tháp về phía mình và nặng nề hạ nó xuống mặt bàn gỗ, rồi lùi lại để nhường chỗ cho Sato.
Vị Giám đốc OS nhấc cây nến lại gần kim tự tháp và săm soi bề ngoài nhẵn bóng của nó. Bà ta chậm rãi rê những ngón tay nhỏ thó trên bề mặt, kiểm tra kỹ từng phân phần chóp bằng, và sau đó là các mặt. Bà ta vòng tay xung quanh để sờ phía sau, rồi cau mày vẻ thất vọng thấy rõ.
– Giáo sư, lúc trước ông nói người ta xây Kim tự tháp Tam điểm để bảo vệ các thông tin bí mật nhỉ!
– Truyền thuyết nói thế.
Vậy thì, giả sử kẻ bắt cóc Peter tưởng đây là Kim tự tháp Tam điểm, chắc chắn gã sẽ tin rằng nó chứa đựng những thông tin rất ghê gớm.
Langdon cau có gật đầu.
– Phải, cứ cho là hắn tìm thấy thông tin ấy thì nội dung cũng đã được mã hoá, và rất khó giải… trừ phi gặp được người thích hợp nhất.
– Nghĩa là sao?
Mặc dù càng lúc càng thấy sốt ruột nhưng Langdon vẫn trả lời bằng giọng từ tốn.
– Các kho báu trong truyền thuyết luôn được bảo vệ bằng các cuộc kiểm tra mức độ thích hợp. Như các vị còn nhớ, theo truyền thuyết Thanh gươm cắm trong đá, tảng đá không chịu nhả thanh gươm ra cho đến khi gặp Arthur, người được thiên định là sẽ đủ sức điều khiển sức mạnh ghê gớm của nó. Kim tự tháp Tam điểm dựa trên ý tưởng tương tự. Trong trường hợp này, thông tin là kho báu, và người ta nói rằng nó được viết bằng một ngôn ngữ mã hoá, một ngôn ngữ bí ẩn với những từ ngữ thất truyền, chỉ người thích hợp mới đọc được.
Môi Sato thoáng một nụ cười.
– Điều đó lý giải vì sao ông bị triệu tới đây tối nay.
– Xin lỗi tôi không hiểu?
Rất thản nhiên, Sato xoay tròn cái kim tự tháp tại chỗ, rồi xoay ngược nó lại đúng 180 độ. Mặt thứ tư của kim tự tháp được ánh nến chiếu rõ.
Robert Langdon tròn mắt nhìn với vẻ kinh ngạc.
– Xem ra, có kẻ tin rằng ông là người thích hợp – Sato nhận xét.