Bạn đang đọc Anh Hùng Đông-a Dựng Cờ Bình Mông – Chương 13: Cái Tình Là Cái Chi Chi. (2)
Đào-nguyên thanh thủy, thùy tri vị?
Anh hùng nan quá mỹ nhân quan.
Dịch :
Ngọn suối Đào-nguyên ai biết vị ?
Anh hùng khó vượt mỹ nhân quan.
Sau cái đêm dẹp loạn, thanh toán được triều đình gà mái gáy, phá vỡ âm mưu chiếm Đại-Việt bằng phòng the của Tống ; thì Long-Xưởng bận rộn vô cùng. Nhưng nhờ hai lão thần có tài kinh bang, tế thế là Lưu Khánh-Đàm, và Hoàng Nghĩa-Hiền phụ chính việc triều đình. Trong Đông-cung thì có vú Loan, vú Mai, Thủ-Huy, Tăng-Khoa, Trang-Hòa, Thụy-Hương, Như-Như là những người trung thành, tinh minh mẫn cán phò tá. Ngoài ra, còn ba người em trai là Long-Minh, Long-Đức, Long-Hòa tuy võ công không cao nhưng kẻ thì mưu trí, người thì mẫn tiệp trợ giúp bên cạnh.Thái-tử Long-Xưởng xin thiết đại triều, để chư đại thần đình nghị, luận công thăng thưởng. Công đầu là Thái-sư Lưu Khánh-Đàm, Thái-phó Hoàng Nghĩa-Hiền, vì hai vị đã ở ngôi quan cao cực điểm, nên chỉ thăng tước và thêm mỹ tự mà thôi. Khánh-Đàm được phong Trường-yên quận vương thêm mỹ tự Thủ-tiết công thần, Nghĩa-Hiền được phong Hồng-châu quận vương thêm mỹ tự Trung-thứ công thần.
Khi luận bàn đến việc phong chức tước cho Trần Lý, Thủ-Huy, Tô Trung-Từ, Phùng Tá-Chu thì Trần Lý, Trung-Từ, Tá-Chu khẳng khái từ chối. Triều đình ép quá, Trần Lý tâu :
– Nếu như bệ hạ cho rằng thần có công, thì xin ban cho ba anh em thần một hoàng ân.
Nhà vua tuyên chỉ :
– Xin thiếu hiệp cứ nói.
– Anh em thần tuy nhỏ tuổi, nhưng cũng có đôi chút hư danh trong việc giáo hóa người. Vậy thần dám xin bệ hạ ân xá cho tất cả tội nhân tại trấn Thiên-trường, rồi trao cho anh em thần. Anh em thần sẽ đem về trang ấp dạy dỗ để họ thành ngoan dân.
Nhà vua ngơ ngác hỏi Thái-phó Hoàng Nghĩa-Hiền. Thái phó tâu :
– Tâu bệ hạ, thiếu hiệp Trần Lý tuy nhỏ tuổi, nhưng tư cách khác phàm. Từ năm mười hai tuổi, thiếu hiệp đã cùng hai người bạn là Tô Trung-Từ, Phùng Tá-Chu hăng hái làm ruộng, chăn nuôi, đánh cá như người lớn. Ba vị còn rủ các thiếu niên nam nữ ngang tuổi lập thành các đội khai hoang, mỗi đội mười người. Các đội này cùng phá rừng, đốt cỏ khai khẩn thành đất trồng cấy hoặc thành ruộng. Trung bình mỗi người, một tháng khai hoang hơn hai mẫu. Hiện dưới tay thiếu hiệp có 50 toán. Trong năm qua, các toán này đã khai được một vạn, sáu nghìn mẫu (16.000). Ba thiếu hiệp lại đi chiêu mộ bọn vong mạng, bọn vô lại, bọn trộm cướp, rồi đem về dạy dỗ. Sau đó cấp ruộng cho chúng.
Các quan nghe Hoàng Nghiã-Hiền tâu bất giác họ cùng nhìn ba thiếu niên với con mắt thán phục.
Hoàng Nghĩa-Hiền tâu tiếp :
– Trần thiếu hiệp còn cho đào ao nuôi cá, nuôi tôm, nuôi cua ; lập trại nuôi gà, nuôi vịt, nuôi lợn đặt tên là trại Thần-nông. Cho nên gần đây hầu hết thực phẩm của Thăng-long do các trại Thần-nông của ba thiếu hiệp cung cấp. Dân chúng gọi Trần thiếu hiệp là Thần-nông sứ, Tô thiếu hiệp là Khai-hoang sứ, Phùng thiếu hiệp là Hải-hà sứ.
Nhà vua tuyên chỉ chấp thuận lời thỉnh cầu của bọn Trần Lý. Ba người lạy tạ, rồi xin lui.
Bây giờ triều đình nghị đến việc phong chức tước cho Thủ-Huy. Việc này phải nghị đến hai ngày mới xong. Xét đúng công của nó, nào là hy sinh tính mệnh cứu giá thái-tử hai phen. Đem chính nghiã làm cho bọn Ngô Giới, Lưu Kỳ, bọn sứ đoàn khiếp sợ, lại cùng Vỵ-xuyên ngũ tiên bắt trọn sứ đoàn mật Tống . Trực tiếp chỉ huy võ sĩ cứu giá nhà vua, hoàng-hậu, thái-tử, công-chúa, và triều đình… Với công lao như vậy, thì tước phải tới công, chức phải tới đại tướng quân. Thế nhưng, luật ban ra từ thời vua Thái-tổ, dù một thiếu niên công lao đến đâu cũng không được phong chức tướng trước hai mươi tuổi. Cuối cùng Thái-phó Hoàng Nghĩa-Hiền phải dẫn Tống sử : Thời niên thiếu, Kinh-Nam vương Trần Tự-Mai, kết huynh đệ với Tống Nhân-tông, cứu giá ba phen, dù chưa đủ hai mươi tuổi, nhưng vẫn được phong tước Ngô-quốc quận vương, lĩnh ấn tướng quân. Triều đình đồng tâu nhà vua phong Huy hàm Thái-tử Thiếu-bảo, lĩnh chức Trung-nghĩa thượng-tướng quân, tổng lĩnh Thiên-tử binh, tước Thọ-xương hầu. Tăng Khoa được phong hàm Thái-tử mật thư tỉnh sự tước Nghi-tàm bá. Đỗ Trang-Hòa được phong Hiếu-khang Thạc-hòa quận chúa. Từ Thụy-Hương được phong Oân-huệ Nhu-mẫn quận chúa. Đào Như-Như đươc phong Tuyên-đức Ninh-tĩnh quận chúa. Oâng Đào Duy được xung chức tổng lĩnh nhạc công, bà Như-Yên được phong Lễ-nghi học sĩ, để dạy cung nga.
Các quan đều được thăng chức tước, lớn nhỏ khác nhau.
Nhân dịp này Long-Xưởng xin phụ hoàng phong tước cho ba em trai là Long-Minh, Long-Đức, Long-Hòa cùng cho mở phủ đệ riêng. Nhà vua chuẩn tấu :
Long-Minh được phong : Đại đô đốc thống lĩnh thủy quân, Khu-mật viện sứ, Kiến-Ninh vương.
Long-Đức được phong: Phụ-quốc thượng tướng quân, Khai-phủ nghị đồng tam tư, Long-thành tiết độ sứ, tổng-lĩnh thị-vệ, kiêm tổng-lĩnh cấùm-quân, Kiến-An vương.
Long-Hòa được phong như sau : Tả kim ngô thượng tướng quân, Đồng-bình chương sự, Trấn-Nam tiết độ sứ, tổng trấn Thanh-Nghệ, Kiến-Tĩnh vương.
Nhân sự tại Đông-cung, thì hoàng hậu thay đổi toàn bộ. Bọn chân tay của thái hậu như Lê Du, Đỗ Anh-Hạc, cùng những tên du thủ, du thực được đưa vào Đông-cung làm thị vệ, cung nga thái giám, mã phu, bộc phụ…để bao vây Long-Xưởng, đã bị giết sạch trong đêm chính biến. Hoàng hậu tuyển cho Đông-cung những người thân tín mới. Trong Đông-cung, hậu chỉ cho giữ lại có vú Mai, vú Loan, Á-nương, con Nhàn. Vú Loan, vú Mai được phong lên hàng nhất phẩm phu nhân, còn mỹ tự Nhu-mẫn đoan duệ, Thạc-hòa anh văn thì vẫn giữ nguyên. Nhân dịp này Trần Lý xin Long-Xưởng ban cho Á-nương, con Nhài đôi chút mỹ tự, chứ cứ gọi cái tên như vậy nghe thiếu vẻ thanh nhã. Long-Xưởng phong cho Á-nương làm Trung-Tĩnh nương, điều khiển cung nga, thái giám phụ trách ngự thiện đường. Con Nhài được phong Tín-Hương nương, điều khiển cung nga, thái giám phục thị tại ngự thư phòng, tẩm thất và trồng tỉa hoa.
Tuy niên việc phong tước cho Á-nương chưa thực hiện được. Vì trước ngày Long-Xưởng lên đường đi Thiên-trường, thì người nhà Á-nương lên báo cho biết thúc phụ nàng mới qua đời. Long-Xưởng thương tình người nô bộc tàn tật, trung thành, vương truyền ban tiền, lụa cho nàng, rồi cho về cư tang ba tháng. Hiện việc của Á-nương do Tín-Hương nương đảm trách.
Nhắc lại : Từ khi khám phá ra trong chiếc áo hồ cừu của Linh-Nhân hoàng thái hậu chép rất nhiều võ công. Long-Xưởng học thụộc, rồi đối chiếu tự luyện. Nhưng vì chưa có căn bản, nên vương chỉ luyện thành có nội công Ăm-nhu cùng bộ Cửu-chân chưởng, Loa-thành chưởng. Còn Mê-linh kiếm pháp thì tuy đã luyện thành từng chiêu. Song vương không biết làm sao nối các chiêu lại với nhau. Vì vậy vương chỉ truyền những gì mình học được cho mẫu hậu, cho ba người em Long-Minh, Long-Đức, Long-Hòa và bọn Đoan-Nghi, Trang-Hoà, Thụy-Hương, Tăng Khoa. Khi vương đón vợ chồng Đào Duy về Đông-cung, hai vợ chồng này là đệ tử của bà Lê Thúc-Cẩn, nhũ danh Ngô Lan-Chi. Bà thuộc vai sư muội của chưởng môn Nghi-Ninh sư thái. Hai người từng học căn bản võ công Mê-linh rất vững chắc. Bao nhiêu thắc mắc của Long-Xưởng, hai người trả lời được hết. Nhờ vậy, mà võ công Long-Xưởng tiến rất mau. Nhưng việc nối các chiêu vẫn không đạt được.
Trong những ngày ở Thiên-trường, Long-Xưởng không dấu diếm cái khiếm khuyết của mình. Vương đem tất cả võ công chép trong áo hồ cừu ra hỏi đại hiệp Tự-Kinh. Là một bác học về võ công trời Nam, Tự-Kinh chỉ nghe qua, ông đã hiểu thấu. Ông giảng giải chi tiết cho Long-Xưởng nghe. Khi ông giảng, Trần Lý, Thủ-Huy cũng ngồi cạnh. Vì được huấn luyện căn bản, nên ông nội nói đến đâu hai anh em hiểu đến đó. Trong khi Long-Xưởng chỉ hiểu được năm phần. Trên đường từ Thiên-trường về Thăng-long, Thủ-Lý lại giảng giải thêm cho Long-Xưởng.
Tới Thăng-long, Long-Xưởng để Trần Lý thay thế mình dạy võ cho ba em trai cùng bọn Đoan-Nghi, Trang-Hòa, Thụy-Hương, Như Như, Tăng Khoa.
Trong bốn thiếu nữ, thì ngay từ khi mới gặp nhau, giữa Long-Xưởng với Trang-Hòa đã nảy sinh ra mối tình thanh mai, trúc nhã. Tăng Khoa với Như-Như thì ríu rít như đôi chim ; khi ăn, khi học, lúc luyện võ, lúc chơi đùa, luôn có nhau.
Khi Trần Lý về Thăng-long, thì với tính tình vui vẻ, hòa nhã với mọi người, nhất là thông cảm với người nghèo phải làm tôi tớ. Chàng được bọn thái giám, cung nga, bộc phụ, mã phu, thân binh coi như là một ông phúc. Khi nói chuyện, dù với Long-Xưởng, hay dù với những kẻ hèn hạ như con Nhài (Tín-Hương nương), chàng đều dùng ngôn từ đầm ấm, trang trọng như nhau. Hóa cho nên bọn này kính yêu chàng tuyệt đối. Chàng lại dạy cho thiếu nữ tàn tật này cách trồng hoa, tỉa hoa, cắm hoa. Hóa cho nên Tín-Hương thâm cảm ơn chàng, mà phục thị hàng hết sức chu đáo. Ngày Trần Lý lên đường trở về Thiên-Trường, Tín-Hương nương khóc khốn khổ.
Còn Thủ-Huy với Đoan-Nghi, Thụy-Hương đã ở vào cái thế tình trong như đã, mặt ngoài còn e. Nhưng Thủ-Huy chưa nghiêng hẳn về người nào. Nếu so về nhan sắc, mỗi người một vẻ.
Đoan-Nghi thì đẹp nhu mì, đôi mắt đen to, lưng ong, chân tay dài. Mỗi cử chỉ, lời nói đều đường bệ, rõ ra vẻ một đấng cha mẹ dân. Tư thái của nàng khoan thai, nhẹ nhàng, dáng điệu ôn nhu văn nhã, thông minh tuyệt đỉnh. Khi Thái-phó giảng về văn chương, chính sự, chỉ cần nói thoáng qua, nàng đã hiểu liền. Nàng lại có văn tài, cử bút thành văn, bẩy bước thành thơ. Nhưng Đoan-Nghi thiếu cái kinh nghiệm dân gian. Nhất là nàng phải ở trong cung với mẫu thân, không được gần Thủ-Huy , thành ra giữa nàng và Thủ-Huy có một khoảng cách khi truyện trò.
Ngược lại, Thụy-Hương thì vẻ đẹp khi có khi không, mờ mờ nhân ảnh, chứa chất nét huyền bí. Bất cứ ai, khi đối diện với nàng, cũng bị đôi mắt nàng hút mất hồn phách. Nàng học văn tạm được, nói năng thiếu cái nhu nhã, cử chỉ thiếu trang trọng. Nhưng, có một điều mà Đoan-Nghi không thể bằng Thụy-Hương là Thủ-Huy với nàng rất hợp truyện, vì cả hai người cùng có cái kinh nghiệm dân dã. Nàng lại ở trong Đông-cung, ngày đêm truyện trò với Thủ-Huy. Trời cho nàng cái hoa tay nấu ăn. Đông-cung có ba ngự trù dưới quyền vú Loan, nhiệm vụ nấu nướng cung phụng cho Long-Xưởng, Thủ-Huy, hoặc làm yến thiết đãi các Kinh-diên quan, ban thưởng cho các quan. Về sau thêm con Nhài, Á-nương là hai người có hoa tay về nấu nướng. Từ khi Thụy-Hương nhập Đông-cung, thì hầu như các ngự trù, con Nhài, Á-nương do nàng chỉ huy. Vú Loan được nhàn hạ hơn. Cho nên Thủ-Huy phân vân, như người đứng giữa ngã ba đường. Hầu chưa quyết định nghiêng về Đoan-Nghi hay Thụy-Hương.
Khi Thủ-Huy dạy võ, thì cả hai đều chăm chú luyện. Sau giờ luyện võ, Đoan-Nghi phải về cung sống với Thần-phi. Còn Thụy-Hương thì luôn ở cạnh Thủ-Huy. Vì Đoan-Nghi thông Kinh-dịch, nên nàng luyện nội công Âm-nhu, Mê-linh kiếm pháp rất mau. Ngược lại Thụy-Hương chỉ luyện thành Không-minh tâm pháp, cùng võ công Đông-a mà thôi.
Tất cả những tình cảm của bẩy thiếu niên đã tới tai hoàng-hậu với Thần-phi. Hai bà mẹ theo dõi rất kỹ những gì xẩy ra xung quanh bẩy đứa trẻ.
Khi mới ra Đông-cung ở, Long-Xưởng chỉ có mình Đoan-Nghi ở bên cạnh. Đi đâu, làm gì, hai anh em cũng ở cạnh nhau. Hoàng-hậu với Thần-phi Bùi Chiêu-Dương gọi đùa hai anh em là Long-phụng hành.
Đến lúc Trang-Hòa xuất hiện, hai bà đổi Long-phụng hành thành Tam-anh hành. Rồi Tăng Khoa được phong làm thái-tử nghĩa đệ. Thụy-Hương từ Đăng-châu về sống trong Đông-cung được phong công chúa nghĩa muội, Tam-anh hành thành Ngũ-tiên hành.
Cuối cùng Thủ-Huy, Như-Như nhập Đông-cung, Ngũ-tiên hành thành Thất-tiên hành. Quan Thái-phó Hoàng Nghĩa-Hiền xin đổi là Đại-Việt Thất-tiên.
Thần-phi thường bầy tỏ mối ưu tư rằng : Long-Xưởng là một thiếu niên kỳ vỹ, chí lớn bằng trời đất, Thất-tiên đều là những người trẻ xuất chúng. Nhưng, tất cả đều đã lớn, trai gái đi đâu cũng có nhau, e rằng khó giữ nổi lễ giáo. Hoàng-hậu nào phải không biết điều đó. Bà dẫn chứng : Thời đức Thái-tổ, Khai-Quốc vương từng cho phò-mã Thân Thiệu-Thái gần công chúa Bình-Dương, phò mã Lê Thuận-Tông gần công chúa Kim-Thành, phò mã Hà Thiện-Lãm gần công chúa Trường-Ninh. Chính nhờ gần nhau, hiểu nhau, chung lo quốc sự với nhau, mà sáu vị trở thành sáu cây cột bảo vệ Bắc-cương.
Hoàng-hậu cùng Thần-phi bàn với nhau : Long-Xưởng không ưa chế độ đa thê, vương định một mai lên ngôi vua, sẽ ban chỉ lập chế độ một vợ, một chồng ; vậy cần phải tuyển một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn cho Long-Xưởng. Hai vị đồng ý chọn Trang-Hòa cháu Thần-phi. Tăng Khoa với Như-Như thì gần như duyên số đã an bài. Hai vị không cần quan tâm. Trong khi đó Đoan-Nghi với Thụy-Hương luôn sát bên Thủ-Huy. Hai thiếu nữ bắt đầu tranh đấu âm thầm, mà nào Hoàng-hậu, Thần-phi, Long-Xưởng có nhận ra !
Tuy tuổi Thủ-Huy còn nhỏ, được phong hầu, mà triều đình không ai ghen tỵ, vì công của hầu quá lớn, võ công cao cường, văn tài xuất chúng. Hầu được ông nội dạy dỗ rất kỹ về đạo lý tộc Việt, về lịch sử Hoa-Việt, về võ đạo. Từø khi kết nghĩa với Long-Xưởng, hầu trực tiếp cùng nghĩa huynh luận bàn về quốc sự, hóa cho nên hầu có kiến thức bằng người lớn hơn hầu hàng chục tuổi. Sau khi Long-Xưởng với hầu dùng Thất-tiên làm nỗ lực chính, được các đại môn phái tiếp sức, dẹp được cái loạn ngoại xâm do triều đình nhà Tống chủ mưu, qua mật sứ . Hầu trở thành già dặên hơn. Trong triều, ngoài dân đều gọi Long-Xưởng là Khai-Quốc vương tái sinh, Thủ-Huy là Kinh-Nam vương giáng thế.
Điều mà Long-Xưởng yên tâm nhất là ba người em ruột Long-Minh, Long-Đức, Long-Hòa hết sức hiếu thảo với anh. Bất cứ vương nói gì, bàn gì, ba em đều nhất nhất tuân thủ. Ngược lại Long-Xưởng cực kỳ yêu thương ba em. Vương đặt ra một lệ : Cứ mỗi khi thiết Đông-cung triều xong, bốn anh em lại ngồi ăn với nhau một bữa cơm rồi cùng bàn luận những việc nào cần cải cách làm cho dân hạnh phúc.
Dẹp loạn thành công, Long-Xưởng chưa kịp vui, thì mối lo âu đã tới : Đoan-Nghi trúng độc, mê mê, tỉnh tỉnh. Một mặt vương khẩn khoản lưu Lê Thúc-Cẩn ở lại Thăng-long, một mặt vương xin phép Thần-phi đem Đoan-Nghi về Đông-cung, để tiện săn sóc. Lê Thúc-Cẩn đã thử hết các phương pháp trị liệu, nào dùng châm cứu, nào dùng thuốc trục độc, nào dùng nội công thượng thừa. Nhưng bệnh Đoan-Nghi chỉ thuyên giảm mà không khỏi. Khi thì cơ thể nàng nóng bỏng, mồ hôi vã ra như tắm. Khi thì lại giá lạnh, khiến nàng rét run. Sau mười ngày điều trị thì tình trạng nóng, lạnh không còn nữa, nhưng Đoan-Nghi vẫn khi mê, khi tỉnh. Hơn nửa tháng sau, bệnh tình không thay đổi gì. Thủ-Huy hỏi :
– Thưa sư bá, cháu nghe nói Không-minh tâm pháp phát xuất từ Vô-ngã tướng Thiền-công. Khi luyện thành, thì trăm thứ độc không thể nhập vào người. Thế sao công chúa hút chân khí của Tô-lịch nhị tiên mà lại bị mê man ? – Này cháu, giữa việc độc tố không thể xâm nhập cơ thể với việc tự hút độc tố khác nhau rất xa.
– Cháu hiểu rồi. Thiền-công là người đầy tớ trung thành. Tỷ như trong khi công chúa giao đấu mà đối phương tung độc chiêu, ám khí có độc, thì Thiền-công tòng tâm bảo vệ chủ. Còn khi công chúa hút vào, thì Thiền-công lại tuân lệnh chủ tòng tâm hút rất nhanh, phân phối vào cơ thể rất nhanh. Nhưng sao bọn Trường-bạch hút thì không việc gì ?
– Vì chúng có phương pháp quy liễm độc tố, hơn nữa khi luyện, chúng hấp thụ dần dần, nên không đến nỗi mê mê, tỉnh tỉnh. Cháu nên biết rằng bất cứ nội công nào thì cũng phải vận khí. Mà khí thì do phế đưa vào cơ thể. Khi phế bị trở ngại, thì không còn nội công nào có thể phản ứng nữa. Lúc bọn Trường-bạch luyện công, thì chúng luyện thành bốn loại độc kia trước. Cuối cùng mới luyện nọc rết. Nên không bị mê man.
– À thì ra thế. Quả Đoan-Nghi hô hấp đang gặp khó khăn. Thế tại sao bọn Trường-bạch phải hấp nọc rết vào phế cuối cùng ?
– Cháu không hiểu cũng phải, để sư bá giảng cho.
Ông nói thực chậm :
– Chân-khí con người ta được cấu tạo bởi Tiên-thiên khí, và Hậu-thiên khí. Tiên-thiên khí là bào thai mới sinh ra. Khởi đầu con người là tinh khí của người cha, như hạt giống gieo vào người mẹ. Tinh-khí hấp thụ nguyên khí của người mẹ, thành Tiên-thiên khí. Hậu-thiên khí gồm có Thiên-khí và Địa-khí. Thiên-khí là khí trời. Địa-khí là đồ ăn thức uống. Bất cứ vì lý do gì, mà một trong bốn loại khí bị hỗn loạn, bị khánh kiệt, đều gây cho chân khí vô năng.
– Cháu hiểu.
– Công chúa Đoan-Nghi hấp tất cả độc khí Huyền-âm của Tô-lịch nhị tiên. Đúng ra với Không-minh tâm pháp, xuất từ Vô-ngã tướng Thiền-công dù nàng trúng độc gì chăng nữa, trong khi mê man, chân khí tự phản ứng chống trả, thì chỉ trong một hai giờ là tỉnh. Tỉnh chứ không khỏi. Ngặt vì Huyền-âm độc bao gồm nọc của năm thứ côn trùng. Năm thứ nọc là rắn, rết, nhện, tằm, bọ cạp . Nọc rắn nhập tâm, tâm tàng thần, chủ thần chí, chủ huyết. Khi tâm bị trúng nọc độc, thì mê mê tỉnh tỉnh. Nọc rết nhập phế , phế tàng phách, chủ hô hấp, chủ khí. Khi phế bị trúng nọc rết thì phách bị tán, công năng luân lưu khí bị mất, nên Vô-ngã tướng Thiền-công hóa ra vô dụng.
Thủ-Huy la lên :
– Nếu như có cách nào trục hết nọc rết trong phế, thì tự nhiên Đoan-Nghi thở hít bình thường. Chỉ hơn giờ sau, Vô-ngã tướng Thiền-công tự phản ứng, thì công chúa sẽ tỉnh. Biết đâu chẳng trục hết các nọc khác ra khỏi cơ thể ?
Thúc-Cẩn bật cười :
– Không hẳn vậy. Nếu như hút hết nọc rết ra, thì công chúa chỉ tỉnh dậy, rồi Vô-ngã tướng Thiền-công phản ứng, thì chỉ không chết mà thôi. Này cháu ! Nọc nhện nhập tỳ. Tỳ tàng ý, chủ lưu thông huyết. Nọc nhện nhập tỳ làm cho Đoan-Nghi không còn suy tư được nữa. Can tàng hồn, chủ cân. Khi nọc bọ cạp nhập can, làm cho hồn bay phơi phới, gân vô lực. Thận tàng chí, chủ cốt. Khi nọc tằm nhập thận làm cho mất hết ý chí, xương cốt vô lực.
Sau hơn tháng điều trị, bệnh của Đoan-Nghi vẫn không thuyên giảm. Nam-phương thần y Lê Thúc-Cẩn cáo từ Long-Xưởng:
– Con người ta sống chết có mệnh. Tuy lão phu đã dùng hết khả năng, nhưng chỉ kéo dài mạng sống của công chúa mà thôi. Công chúa đã chống được với sức công phá của ngũ độc quá 100 ngày, thì có thể thoát khỏi cái chết. Thoát chết, không có nghĩa là khỏi. Vậy lão phu xin để lại ba loại thuốc khử độc cực mạnh, lão phu có một nữ đệ tử là Trần-thị Phương-Thanh, làm ngự y cho hoàng-hậu. Phương-Thanh sẽ tiếp tục cho công chúa uống thuốc khử độc. Biết đâu…
Long-Xưởng, Thủ-Huy, tiễn Thúc-Cẩn đến cửa Quảng-phúc thì xin bái biệt :
– Xin tạm biệt tiên sinh ở đây. Non xanh không bao giờ hết củi, sông sâu không bao giờ hết nước. Xưởng này mong rằng còn có dịp tái ngộ, được tiên sinh dạy dỗ cho những điều hữu ích.
Thủ-Huy thấy dường như Thúc-Cẩn còn dấu điều cơ mật gì, mà ông không muốn nói với Long-Xưởng. Lấy lý Thúc-Cẩn là bạn thân của bố, Thủ-Huy xin được tiễn ông một đoạn đường nữa.
Hai người ruổi ngựa song song, qua chùa Diên-phúc (tức chùa Một-cột. Thời bấy giờ, cửa Quảng-phúc của Hoàng-thành quay ra hướng Tây, nơi chùa Một-cột tọa lạc). Thủ-Huy hỏi :
– Thưa sư bá, cháu đọc trong bộ Lĩnh-Nam dật sử, nói rằng : Khi Bắc-bình vương Đào Kỳ bị Mao Đông-Các đánh hai Huyền-âm chưởng, ngũ độc hành hạ, vương đau đớn cực kỳ, không thuốc gì trị được. Sau sư đệ của vương là Sún Cao đã dùng phương pháp hấp thụ độc chất, hút hết chất độc trong người vương. Nhờ thế vương thoát chết, ngược lại Sún Cao chết. Phương pháp ấy hút như thế nào ?
– Không có gì lạ đâu. Sún Cao dùng Tĩnh-huyệt của sáu kinh dương, để lên Du-huyệt của sáu kinh âm, rồi vận khí hút ra. Còn cách vận công hút độc thì hiện nay chỉ bọn Mao Khiêm là biết mà thôi.
Thủ-Huy được học rất kỹ về Kinh-lạc, Thập-nhị (mười hai), chính kinh, Kỳ-kinh bát mạch, vị trí các huyệt đạo, áp dụng luyện khí công, điểm huyệt. Còn về y học thì hầu mù tịt. Hầu hỏi :
– Thưa sư bá, tại sao lại dùng Tĩnh-huyệt, mà hút tại Du-huyệt.
– Thế này ! Mỗi kinh có một Tĩnh-huyệt. Tĩnh-huyệt là những huyệt mà kinh khí nông nhất. Vị trí của nó nằm ở đầu ngón chân, ngón tay. Duy Tĩnh-huyệt của Túc Thiếu-âm thận kinh thì nằm ở gan bàn chân. Còn Du-huyệt là nơi mà kinh khí đọng lại, thông thẳng với tạng phủ. Y kinh nói « Sở xuất vi Tĩnh, sở trú vi du » nghĩa là nơi kinh khí bắt đầu thu nhận, phát xuất là Tĩnh. Nơi mà kinh khí lưu trú lại là Du huyệt.
– Cháu hiểu rồi. Xuất cũng có nghĩa là khởi đầu. Vì vậy dùng Tĩnh-huyệt án lên Du-huyệt thì mới hút hết độc chất toàn kinh với tạng phủ. Bây giờ trở lại với bệnh trạng Đoan-Nghi, không lẽ chúng ta đành bó tay trước cái chết của Đoan-Nghi sao ?
– Cái phương pháp hấp thụ độc chất mà Sún Cao dùng, nguyên là của bọn Trường-bạch dùng để hút độc tố luyện công. Phương pháp đó cũng không khác Qui pháp âm dương của phái Đông-a, Thiền-pháp Vô-ngã tướng của phái Tản-viên, Không-minh tâm pháp của phái Mê-linh. Nếu dùng đến những phương pháp đó, hút độc cứu Đoan-Nghi, thành công thì ta không chắc cho lắm. Khi không chắc thành công, mà làm chết một người nữa, thì thực là vô ích. Vì vậy ta không bàn đến. Người nào hút nọc cứu Đoan-Nghi, không có cách gì cứu nổi. Đúng 49 ngày thì chết.
Từ biệt Thúc-Cẩn, Thủ-Huy trở về Đông-cung. Trong khi đi đường hầu nghĩ :
– Trước kia, ma đầu Đinh Kiếm-Thương từng dậy Linh-Nhân hoàng thái hậu luyện Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng. Ngài dùng ba kinh dương ở tay hấp thụ 28 độc tố khác nhau. Sau đó y dạy ngài cách quy liễm độc dược vào cơ thể. Ngài đau đớn cùng cực, lăn lộn . Y dạy ngài cách vận công chống đau. Sau hai giờ thì cơn đau hết. Cứ như thế trong 49 ngày thì không còn đau đớn nữa. Vậy tại sao ta không chiếu mật công Linh-Nhân hoàng thái hậu chép trong áo hồ cừu, thử hút độc tố trên người Đoan-Nghi, rồi vận công quy liễm thành nội công chủa mình? Biết đâu phương pháp hút độc của Hồng-thiết giáo lại chẳng hợp với phương pháp của phái Trường-bạch ?
Trong lòng hầu như mở ra một chân trời mới, hy vọng bệnh của Đoan-Nghi có thể trị được. Hầu vội vào thăm Đoan-Nghi. Quanh Đoan-Nghi, có Hoàng-hậu, Thần-phi, Long-Xưởng, Trang-Hòa. Mắt Đoan-Nghi vẫn nhắm nghiền, nàng nói trong cơn mê :
– Mẹ ơi ! Con đau quá. Oái nhị ca Thủ-Huy ơi, có mấy nghìn con rắn nó cắn muội. Cứu muội với.
Thủ-Huy quên mất rằng nam nữ thụ thụ bất tương thân, trước mặt hầu là một cô công chúa ngàn vàng. Hầu nắm lấy tay Đoan-Nghi :
– Đoan-Nghi, Thủ-Huy đây !
Đoan-Nghi thở hổn hển :
– Nhị ca ơi ! Nhị ca hứa rằng, sau khi giúp đại ca lập lại chính thống, nhị ca sẽ dẫn muội đi Thiên-trường thăm tháp Phổ-minh, nhị ca sẽ đãi muội ăn chuối hương, ăn rạm rang, ăn canh rau đay nấu cua đồng. Có đúng vậy không ?
Thủ-Huy cảm động :
– Nhất định huynh sẽ dẫn muội đi. Huynh không bao giờ quên lời hứa đâu.
– Nhị ca ơi ! Tại sao nhị ca đã có muội rồi, mà nhị ca còn tử tế với Thụy-Hương như vậy ? Nhị ca đã thề rằng trọn đời nhị ca chỉ biết có muội thôi. Nhị ca sẽ học theo Quốc-phụ Khai-Quốc vương, cả đời vương, vương chỉ sủng ái một mình vương phi Thanh-Mai. Thế mà…thế mà nhị ca lại ngồi nghe Thụy-Hương hát, nhị ca ví Thụy-Hương đẹp không thua gì Đào Hà-Thanh, nàng hầu của tổ Tự-An xưa !
Mỗi lời Đoan-Nghi nói, như một bát nước nóng dội vào người Thủ-Huy, khiến người hầu nóng bừng lên. Hầu muốn Đoan-Nghi đừng nói nữa, nhưng nàng vẫn nói trong cơn mê sảng :
– Nhị ca ơi ! Nhị ca thề với muội rằng : « Sông Hồng có thể cạn, núi Tản có thể mòn, chứ không bao giờ chúng ta có thể xa nhau ». Nhị ca còn nói : « Anh chỉ là một thằng bé quê mùa, được làm quen với một cô công chúa đẹp hơn Hằng-Nga, thì có lẽ anh đã tu đến mười tám kiếp rồi. Anh chỉ sợ thái-hậu không bằng lòng cho chúng ta gần nhau thôi. Nhưng, chúng ta đã hứa với trọn đời bên nhau, thìø dù thái-hậu có xẻo từng miếng thịt của anh, anh cũng cam tâm ». Thế rồi nhị ca làm thơ tặng muội : « Dưới khóm mẫu đơn đành bỏ mạng. Chết làm quỷ sứ cũng cam tâm ». Vậy mà khi Thụy-Hương làm mứt hạt dẻ tặng nhị ca. Nhị cai vui vẻ khen rằng : « Hạt dẻ do Hương muội làm ngon thực.Ví dù Hương muội cho anh ăn thuốc độc, anh cũng ăn ». Rồi nhị ca còn cười với nó, hai con mắt nhị ca có đuôi, tình tứ với nó như vậy mà nhị ca bảo chỉ biết có muội sao ? Nhị ca có biết rằng lúc ấy muội đau đớn đứt ra từng khúc ruột không ?
Những lời chân thực của Đoan-Nghi trong cơn mê sảng đã nói lên một sự việc quan trọng : Đoan-Nghi đã yêu Thủ-Huy, nhưng cạnh Thủ-Huy còn có Thụy-Hương. Thần-phi nhìn Long-Xưởng. Long-Xưởng nhìn Thủ-Huy, làm hầu luống cuống. Hầu lấy can đảm nói :
– Công-chúa ! Những lời Huy nói với công chúa, phát từ tâm can, không thể thay đổi, không một chút dối trá. Nếu như có một phần giả dối, thì Huy sẽ như con dòi, con bọ.
Chợt nhớ đến những lời giảng của Thúc-Cẩn, Thủ-Huy lấy cuốn võ phổ, mà hầu chép từ cái áo hồ cừu của Linh-Nhân hoàng thài hậu ra đọc. Đoạn chép cách hấp thụ độc tố của Hồng-thiết giáo như sau :
« … Bất cứ độc chất gì, cứ bỏ lên bàn tay . Hai tay xoa vào nhau. Hấp khí, dẫn khí từ hai bàn tay đưa lên cùi chỏ, vai, chuyển qua lưng, đưa xuống hai chân… »
Hầu suy nghĩ :
– Đoạn này hai ma đầu Mã-Mặc, Lệ-Anh viết quá đơn sơ. Không có gì lạ cả.
Hầu đọc xuống dưới, Nhật-Hồ lão nhân chú giải :
« … Hai bàn tay ngâm vào nước chứa độc tố. Dùng ý dẫn khí từ các huyệt Thương-dương, Quan-xung, Thiếu-trạch, đưa lên vai, tới huyệt Đại-trùy. Từ huyệt Đại-trùy dẫn khí vào các kinh Bàng-quang, Vị, Đởm, rồi đưa xuống chân. Chuyển khí bằng các lạc mạch, đưa sang ba kinh Can, Tỳ, Thận, rồi dẫn ngược lên Hạ-đơn-điền. Từ Hạ-đơn-điền, phân tán đi khắp cơ thể… »
Đến đó, Tín-Hương nương bưng vào một bát thuốc, bốc hơi nghi ngút, để trước mặt Thủ-Huy . Thủ-Huy hỏi :
– Thuốc gì vậy ?
– Thưa Thái-bảo, đây là thang thuốc khử độc, mà thần-y Lê cắt dâng công chúa.
– Được ! Tỷ tỷ cứ ra ngoài . Đợi thuốc nguội, tôi sẽ đổ cho công chúa.
Nhìn bát thuốc, Thủ-Huy nói với Long-Xưởng:
– Đại-ca, đệ thử vận Hồng-thiết tâm pháp hút bát thuốc này xem sao ? Nếu thành công, ta có thể hút nọc độc cho Đoan-Nghi. Biết đâu ?
Nghĩ là làm. Hầu nhúng ngón tay chỏ, giữa, út vào bát thuốc, rồi nhắm mắt hít hơi vận khí. Sau khi vận hai lần, hầu cảm thấy người mát mẻ dị thường. Hầu mở mắt ra nhìn, bất giác hầu bật lên tiếng ủa kinh ngạc, vì bát thuốc trở thành trong vắt, nguội lạnh.
Mọi người reo lên mừng rỡ.
Long-Xưởng tỏ ý không tán thành :
– Nếu như nhị đệ hút nọc độc cứu Đoan-Nghi thì đến lượt nhị đệ bị trúng độc, hóa ra vô ích. Đừng dại.
Thủ-Huy cãi bướng :
– Dại là thế nào ? Đệ nghĩ nếu như trong cơ thể đệ chỉ có một thứ nọc độc, thì chân khí có thể chế ngự.
– Nhị đệ ! Phàm khi chữa bệnh, khi biết chắc thì hãy làm. Còn như nghi ngờ thì không nên. Làm như vậy, có khi không cứu nổi Đoan-Nghi, mà còn nguy hiểm cả hai. Nếu như nhị đệ hút nọc cho Đoan-Nghi mà khỏi, thì Nam-thiên thần y đã bảo nhị đệ làm rồi.
Thủ-Huy còn đang tần ngần suy nghĩ, thì Đoan-Nghi rên lên mấy tiếng, tỏ vẻ đau đớn. Không suy nghĩ, hầu để ngón tay chỏ, chỗ huyệt Thương-dương vào huyệt Thái-uyên dưới cườm tay phải của Đoan-Nghi, rồi vận khí hút. Bất giác hầu rùng mình, vì chân khí của Đoan-Nghi trút vào người hầu. Hầu dẫn khí lên huyệt Đại-trùy, rồi chuyển sang kinh Bàng-quang, Vị, Đởm. Tiếp theo, hầu dẫn khi xuống chân, đưa qua ba lạc mạch, sang kinh Can, Tỳ, Thận, rồi đưa vào Nhâm-mạch, lên Hạ-tiêu, sau đó cho phân tán khắp người. Hầu cảm thấy chân khí như nước vỡ bờ, từ cơ thể Đoan-Nghi tràn vào người mình. Ngưới hầu đầy ắp chân khí, căng như cái bong bóng.
Đoan-Nghi đã luyện Không-minh tâm pháp, lại hút chân khí của Tô-lịch nhị tiên, trong người nàng có ba luồng chân khí, từng thớ thịt căng lên, như muốn nổ tung ra. Ngặt vì nọc rết nhập phế làm phế khí bế tắc, thành ra Không-minh nội lực thành vô dụng. Nàng mê mê tỉnh tỉnh. Thình lình nọc rết được Thủ-Huy hút hết, phế nạp khí vào cơ thể, Không-minh nội lực tự phản ứng, khiến chân khí lưu thông, mạnh như thác đổ. Nàng bừng tỉnh, rồi từ từ ngồi dậy.
Hoàng-hậu , Thần-phi, mừng chi siết kể. Hai vị hỏi rối rít :
– Con tỉnh rồi à ?
– Nghi nhi còn đau không ?
Long-Xưởng cũng hỏi :
– Đoan-Nghi ! Em thử hít một hơi xem nào ?
Thủ-Huy nắm lấy tay Đoan-Nghi bắt nạch :
– Công chúa ! Công chúa còn đau không ?
Tuy bị nọc độc làm cho mê mê, tỉnh tỉnh, nhưng Đoan-Nghi vẫn cảm, biết được mọi biến cố xung quanh. Nàng tâu với hoàng-hậu, Thần-phi :
– Mẫu hậu ! Mẫu thân. Con những tưởng kiếp này không được thấy mẫu hậu, mẫu thân nữa ! Nhưng…nhưng nay con thoát chết. Con lại được hầu hạ mẫu hậu, mẫu thân.
Nàng nắm lấy tay Long-Xưởng :
– Anh ! Em chết cũng không sao ! Điều em sợ nhất là không có người ở bên cạnh để giúp đỡ anh chống với bọn Tống, bọn gian thần tặc tử. Em sống sót là nhờ…
Nàng nắm lấy tay Thủ-Huy :
– Nhị ca đã cứu em. Nhị ca ơi, nhị ca hút hết nọc rết trên người em, nhị ca có việc gì không ?
Thủ-Huy hít một luồng khí vào phổi, rồi phân tán khắp cơ thể. Hầu lắc đầu :
– Công chúa ! Tiểu thần không thấy gì khác lạ cả.
Hoàng-hậu ban chỉ cho thái giám hầu cận :
– Người đi mời ngự-y hoàng cung cho ta.
Ngự-y hoàng cung là một trung niên thiếu phụ mảnh mai, họ Trần tên Phương-Thanh. Bà là đệ tử đắc ý nhất của Lê Thúc-Cẩn. Bà không biết võ, nhưng y thuật rất cao minh. Mấy khắc sau Phương-Thanh tới.
Lễ nghi tất.
Phương-Thanh cầm mạch Đoan-Nghi, rồi nói :
– Chà ! Công chúa được một nội gia, hút hết nọc rết khỏi cơ thể. Từ nay chân khí thông sướng. Tính mệnh được cứu. Nhưng trong cơ thể công chúa còn nọc rắn, nhện, tầm và bọ cạp. Bốn loại nọc độc này sẽ còn hành hạ công chúa.
Bà đưa mắt nhìn cử tọa một lượt, rồi ngừng lại trên gương mặt Thủ-Huy :
– Thì ra Thiếu-hảo đã hút nọc cứu công chúa. Than ôi ! Thiếu-hảo còn trẻ mà lòng dạ đã quảng đại như một vị Bồ-tát.
Thủ-Huy kinh ngạc hỏi :
– Thưa đại phu, tại sao đại phu biết rằng vãn sinh đã hút nọc rết cứu công chúa ?
– Có gì đâu ! Người có đủ công lực hút nọc, e trong triều không quá ba. Nọc rết nhập phế. Phế chủ da, lông, tóc. Nọc rết thuộc âm tính. Khi một người hút nọc rết, thì sau khi hút một khắc, da trở thành trắng bệch, khô khao. Nên khi mới vào đây, nhìn da mặt Thiếu-bảo thì tôi biết, Thiếu-bảo đã hút nọc độc cứu công chúa.
Lời nói của Phương-Thanh làm mọi người cùng nhìn Thủ-Huy. Quả da hầu đã đổi từ hồng tía sang trắng nhợt, ẩn hiện mờ mờ xanh mướt.
Thủ-Huy hỏi :
– Thưa đại phu. Đại phu nói công chúa sẽ bị bốn loại nọc độc hành hạ. Thế bao giờ thì các nọc này hành hạ. Hành hạ như thế nào ?
– Để tôi giảng cho Thiếu-bảo nghe.
– Trong một ngày có mười hai giờ. Giờ Tý ứng với Thận. Giờ Dần ứng với Can. Giờ Ngọ ứng với Tâm. Giờ Thân ứng với phế. Giờ Sửu, Mùi, ứng với Tỳ. Bây giờ là giờ Thìn, công chúa tỉnh táo. Lát nữa sang giờ Tỵ, thì nọc rắn trong tâm bùng lên, tim công chúa sẽ đập rất mau, mặt đỏ như gấc, lồng ngực đau như dao cắt. Sang giờ Mùi, thì các cảm giác đau đớn này không còn nữa. Bấy giờ nọc nhện trong tỳ phát tán, mặt công chúa sẽ thành vàng vọt, bao tử đau như dao cắt. Hết giờ Mùi, thì bao nhiêu cái đau đớn biến đi. Nửa đêm là giờ Tý, nọc tằm trong thận lại phát tác. Tai công chúa ù, lưng đau muốn gập người làm đôi, mặt xám ngắt, thoang thoảng như có khói ẩn trong da. Qua giờ Sửu, thuộc tỳ, công chúa lại bị hành như giờ Mùi. Tới giờ Dần, nọc bọ cạp trong Can trỗi dậy, làm cho da mặt công chúa xanh ngắt, vùng bụng bên phải đau như bị đâm…. Rồi sang giờ Tỵ…. lại đau như hôm trước.
Thủ-Huy trầm tư một lúc rồi hỏi :
– Như khi công chúa bị đau, tôi điểm huyệt cho công chúa mê đi, thì trong giấc mơ công chúa có còn thấy đau không ?
– Thưa Thiếu-bảo không !
– Vậy thì được.
Đoan-Nhu chợt nghĩ ra điều gì, nàng hỏi :
– Thưa đại phu. Thiếu-bảo hút bọc rết cứu tôi. Vậy sang giờ Thân, Thiếu-bảo có bị nghẹt thở, đau đớn không ?
– Nhất định là có. Nội công Thiếu-bảo đã cao, lại hành sự như Bồ-tát. Ngặt vì Thiếu-bảo không suy nghĩ kỹ, nên Thiếu-bảo cứu công chúa, chưa chắc công chúa đã khỏi, mà còn mang họa vào thân. Từ nay, mỗi ngày vào giờ Thân, Thiếu-bảo bị lên cơn : Mũi nghẹt, nước mắt, nước mũi tuôn ròng ròng, ngực tức, hô hấp khò khè. Sang giờ Dậu thì hết. Sau 49 ngày sẽ từ trần, không thuốc gì trị được.
Long-Xưởng kinh hoàng :
– Cứ như đại phu nói, thì sau 49 ngày cả Thủ-Huy lẫn Đoan-Nghi đều chết sao ?
– Tâu điện hạ, sau 49 ngày thì chỉ mình Thiếu-bảo từ trần mà thôi. Còn công chúa, vì công chúa luyện Không-minh tâm pháp, lại được Thiếu-bảo hút nọc rết ra, thì công chúa chỉ bị lên cơn, chứ không hoăng.
Nghe Phương-Thanh nói mình sẽ chết, Thủ-Huy thản nhiên hỏi :
– Như đại phu luận, thì sau 49 ngày, đằng nào tôi cũng chết. Vậy chi bằng tôi hút hết nọc cho Đoan-Nghi, rồi chết còn hơn tôi chết chỉ với nọc rết, mà Đoan-Nghi còn bệnh.
Long-Xưởng rùng mình :
– Còn nước còn tát. Nhị đệ đã liều một lần rồi, đừng liều một lần nữa. Biết đâu trong 49 ngày, ta chẳng tìm ra phương thức chữa trị ?
Hoàng-hậu truyền lấy một tấm gấm, một tấm lụa thưởng cho ngự-y Phương-Thanh, rồi sai đem kiệu của Đoan-Nghi đưa bà về. Bà dặn Long-Xưởng, Đoan-Nghi :
– Thôi các con ở lại. Ta với Thần-phi hồi cung.
Bà cầm lấy tay Thủ-Huy :
– Cháu ngoan ! Ta không muốn gọi cháu là quân hầu, là Thiếu-bảo. Bởi bất cứ ai có tài, có công đều thành hầu, thành Thiếu-bảo được. Nhưng không có ngoại nhân thứ nhì, mà ta coi như con. Chỉ có cháu, ngay từ khi mới gặp cháu, ta cảm thấy như thân ái, như quen biết từ lâu rồi.
Bà ngừng lại, nắm chặt tay Thủ-Huy hơn :
– Cháu đã xả thân cứu Long-Xưởng hai lần, lại bất chấp nguy hiểm, cùng ta dẹp loạn. Nay cháu phát tâm Bồ-đề cứu Đoan-Nghi, thực là trời sinh ra cháu để cứu cơ đồ họ Lý. Dù cháu khỏi bệnh hay không, thì ta vẫn dành Đoan-Nghi cho cháu.
Hoàng-hậu, Thần-phi về rồi, cả Đại-Việt Thất-tiên đều ra Ngự-thiện đường ăn cơm. Từ trước đến giờ, Ngự-Thiện đường vẫn do bộc phụ trẻ là Trung-Tĩnh nương (Á-Nương) với hai cung nữ hầu hạ. Nay Trung-Tĩnh nương về quê chịu tang, thì Tín-Hương thay thế. Trang-Hòa cau mặt lại, tỏ vẻ khó chịu. Vì mỗi khi nghị sự, ăn uống thì bao giờ Thụy-Hương cũng ngồi cạnh Thủ-Huy. Đoan-Nghi, Trang-Hòa ngồi hai bên Long-Xưởng. Lần này, Thụy-Hương lại nhanh nhẹn ngồi cạnh Long-Xưởng. Hóa cho nên Trang-Hòa lại ngồi cạnh Thủ-Huy với Như-Như. Ngoài Trang-Hòa ra, không ai để ý đến cái bất thường đó cả. Long-Xưởng hỏi Thủ-Huy :
– Nhị đệ ! Nhị đệ đã dùng phương pháp của Hồng-thiết giáo hút nọc độc cứu Đoan-Nghi, vậy nhị đệ cũng dạy Đoan-Nghi phương pháp vận công quy liễm độc tố của họ, để khi Đoan-Nghi bị lên cơn, sẽ vận công, may ra đỡ đau phần nào chăng ?
– Không nên !
Trang-Hòa bàn : Em nghĩ, nếu như Đoan-Nghi vận công hấp độc tố, thì ma tính, ma nghiệp của Hồng-thiết giáo sẽ làm hại Đoan-Nghi.
Thụy-Hương nói bằng giọng nhỏ nhẹ, ngọt như cam thảo :
– Trang-Hòa ơi ! Chị nghĩ ma tính, ma công có hay không, còn tùy người. Xưa Linh-Nhân hoàng thái hậu chẳng từng hấp độc tố của Hồng-thiết giáo, mà ngài vẫn thành Bồ-tát đó sao ? Chị nghĩ, mình cứù để chị Đoan-Nghi vận công chống đau, dù sau đó trong người có Huyền-âm nội lực, còn hơn là chết.
Vú Loan, vú Mai đã sai Trung-Tín nương Nhài dọn cơm lên. Vì Đoan-Nghi bị bệnh, nàng vẫn phải ăn cháo. Thụy-Hương bưng lên bát cháo nóng, để trước mặt Đoan-Nghi :
– Chị biết không, từ hôm chị bị bệnh, hàng ngày, chính em thân nấu cháo cho chị ăn. Hôm nay tuy bệnh tình khá hơn, nhưng chị nên ăn cháo. Đây là cháo nhộng, ngon lắm.
Nàng chỉ vào các món ăn bầy trên bàn :
– Thưa đại ca, thưa các anh các chị. Hôm nay chúng ta ăn năm món cá. Tối hôm qua, Vỵ-xuyên ngũ tiên gửi tặng cho anh Thủ-Huy năm loại cá. Em làm năm món khác nhau. Cá bống mít kho keo, cá mè nấu ám, cá quả (lóc) nướng, cá chép rán, cá rô nấu canh cải bẹ.
Vừa ăn xong, thì Đoan-Nghi cảm thấy lồng ngực như bị dao đâm vào, nàng á lên một tiếng, rồi mặt đỏ bừng bừng, tim đập thình thình. Nàng gọi Thủ-Huy :
– Nhị ca ! Em…
Rồi ngã xuống. Thụy-Hương nhanh tay bồng nàng lên đem vào dường đặt xuống. Thủ-Huy chạy theo :
– Đoan-Nghi ! Ngồi ngay ngắn lại. Rồi ! Hấp khí, đưa vào Trung-đơn điền. Rồi !Tỏa ra ngoài da.
Đoan-Nghi vận khí ba lần, thì cảm giác đau đớn từ từ biến đi. Thủ-Huy nhắc :
– Vận khí từ lồng ngực, theo Thủ Thiếu-âm tâm kinh, Thủ Khuyết-âm tâm bào kinh, dẫn ra cánh tay, xuống cùi chỏ. Rồi ! Tiếp tục dẫn khí ra cườm tay, bàn tay.
Đến đây bàn tay Đoan-Nghi đầy ắp chân khí, ngón tay rung rung. Thủ-Huy tiếp :
– Dẫn khí theo lạc mạch sang Thủ Thái-dương tiểu trường kinh, Thủ Thiếu-dương tam tiêu kinh. Rồi ! Đưa khí lên cùi chỏ, vai, tới huyệt Đại-trùy.
Hầu nghĩ :
– Lúc này còn đợi gì mà ta không hút độc cứu Đoan- Nghi. Nhanh nhẹn Thủ-Huy để huyệt Thiếu-trạch ở đầu ngón tay út vào huyệt Thần-môn ở cườm tay Đoan-Nghi. Cả hai đều rùng mình một cái, rồi nội tức từ trong người Đoan-Nghi ào ào tràn sang người Thủ-Huy. Hiện diện tới năm người, mà không ai hiểu việc làm của Thủ-Huy. Ai cũng tưởng hầu vận công, chẩn mạch cho Đoan-Nghi.
Đến đây, mồ hôi Đoan-Nghi tiết ra ướt hết quần áo. Thủ-Huy nhắc :
– Đoan-Nghi, vận lại một lần nữa.
Cứ như thế, Đoan-Nghi vận tới lần thứ ba mươi sáu thì cảm giác đau đớn biến mất. Thủ-Huy buông tay Đoan-Nghi ra. Vốn là người thông minh tuyệt đỉnh, đúng ra Đoan-Nghi cũng đoán ra việc làm của Thủ-Huy. Nhưng trải qua hai tháng mê man, minh mẫn mất đi, nên nàng tưởng hầu dạy nàng cách quy liễm độc tố, mà khỏi bệnh. Quá súc động, Đoan-Nghi nắm lấy tay Thủ-Huy, nàng nức nở :
– Nhị ca ! Nhị ca ! Sao… sao…
Rồi nàng nói không lên lời. Ai cũng tưởng Đoan-Nghi được Thủ-Huy chữa bệnh cho. Nào ngờ hầu đang đi dần đến cái chết. Tất cả đều reo lên mừng rỡ.
Thủ-Huy giảng :
– Thế là nọc rết thì anh hút ra khỏi người Đoan-Nghi. Nọc rắn thì Đoan-Nghi quy liễm thành chân khí của mình. Thủ Thái-âm phế kinh với Thủ Dương-minh đại trường kinh tương thông biểu lý. Nên khi nọc độc ra khỏi phế kinh , thì đại trường kinh cũng không còn bị tác hại nữa.
Đoan-Nghi run run cảm động, nàng lắp bắp :
– Nhị ca…
Long-Xưởng nắm tay Đoan-Nghi :
– Bây giờ nọc rắn tại tâm kinh đươc quy liễm, thì tâm bào kinh cũng không còn. Tâm kinh tương thông biểu lý với tiểu trường kinh. Tâm bào kinh tương thông biểu lý với tam tiêu kinh. Như vậy sáu kinh trên tay của Đoan-Nghi không còn làm Đoan-Nghi đau đớn nữa sao ?
Thủ-Huy biết rằng mình nói thực thì muôn ngàn lần Long-Xưởng không cho hầu hút nọc tại ba kinh âm ở chân. Hầu giảng nửa thực, nửa hư :
– Phế kinh thì đệ bảo đảm là ổn rồi. Nhưng các kinh khác, dù Đoan-Nghi có quy liễm được chăng nữa thì chỉ tạm thời trấn tĩnh mà thôi. Phải trải qua 49 ngày, thì mới thoát nạn.
– Nhị đệ ! Nhị đệ hay quá. Bây giờ nhị đệ dạy cho Đoan-Nghi cách vận công chống độc khi nọc nhện, nọc tằm, nọc bọ cạp phát tác đi.
Long-Xưởng vẫy mọi người ra khỏi khuê phòng, để mình Thủ-Huy ở lại dạy Đoan-Nghi.
Trời đã xế ngọ. Trang-Hòa phải trở về nhà. Tăng Khoa, Như-Như về thư phòng của Mật-thư tỉnh-sự. Long-Xưởng vẫy tay gọi Thụy-Hương :
– Huynh phải vào ngự thư phòng làm việc.
– Em có thể vào ngự thư phòng giúp đại ca không ?
– Muội đã là em ta, thì chỗ nào của ta, muội cũng có thể vào được. Ừ, muội vào giúp ta thay Đoan-Nghi, Trang-Hòa cho quen.
Thụy-Hương vào theo. Hai chồng hồ sơ cao đến hơn gang tay, để trên án thư. Mỗi hồ sơ đều có kèm một mẩu giấy ghi ý kiến của Thái-sư Lưu Khánh-Đàm hoặc Thái-phó Hoàng Nghĩa-Hiền. Long-Xưởng chỉ cần liếc qua, phê lên, rồi ký vào mà thôi. Tín-Hương nương (Con Nhài) mài mực, bưng bút để trước mặt Thụy-Hương.
Long-Xưởng chỉ vào chồng hồ sơ :
– Người xưa nói : Làm vua cần đức, không cần tài. Vì mọi sự đã có chư đại thần làm cả. Bây giờ tiếng là phụ hoàng làm vua, chứ thực ra là anh làm. Mà cũng chẳng phải anh làm, mà quan Thái-sư, Thái-phó làm.
Long-Xưởng đẩy một chồng hồ sơ cho Thụy-Hương :
– Muội đọc đi, rồi cho anh ý kiến.
Thụy-Hương ngồi xuống chiếc ghế đối diện với Long-Xưởng. Nàng cầm hồ sơ thứ nhất lên đọc. Đó là tấu chương của trấn Đông-triều về việc ngư nhân Tống phạm cảnh, bị bắt trên hai trăm người. Cạnh tấu chương có ý kiến của Thái-sư Lưu Khánh-Đàm. Theo ý Lưu thái sư, thì phạt mỗi người năm lượng bạc, đánh mười côn. Thuyền, dụng cụ đánh cá tịch thu. Còn người thì trao trả cho biên quan Tống. Thụy-Hương cầm bút lên nghĩ thầm :
– Bây giờ mình làm vua rồi đây. Kể ra làm vua cũng không khó. Phải chi mình có địa vị như Linh-Nhân hoàng thái hậu, thì nhất định mình không đến nỗi như Cảm-Thánh hoàng thái hậu.
Nàng phê :
« Chuẩn y. Nếu như biên quan Tống có bắt được dân Việt phạm tội, thì dùng ngư dân Tống đổi đem về».
Tấu chương thứ nhì là của Khu-mật viện về việc bọn Phụng-quốc vệ cung Cảm-Thánh, trước đây bị phái Đông-a bắt sống. Chúng bị phạt phát vãng phá hoang làm ruộng. Nay chúng rủ nhau trốn đi ăn cướp. Thái-sư Lưu Khánh-Đàm đề nghị sai Thái-úy Tô Hiến-Thành mang quân đi dẹp. Thụy-Hương biết giữa Đông-cung với Hiến-Thành không thuận nhau. Nàng phê : « Truyền Đặc-tiến Thái-bảo, Tả-kim ngô đại tướng quân, Binh-bộ thượng thư, Long-thành tiết độ sứ, Càn-nguyên điện đại học sĩ Phí Công-Tín đem Thiên-tử binh đi dẹp ».
Cứ như thế, hơn giờ sau, thì Thụy-Hương đã giải quyết xong chồng hồ sơ. Nàng ngừng lại nhìn lên, Long-Xưởng cũng giải quyết xong chồng hồ sơ trước mặt.
– Thế nào ! Muội cho ta xem nào ! Trước đây, đức Thánh-tông từng dùng Linh-Nhân hoàng thái hậu giúp ngài. Hôm nay muội lại giúp ta. Ta mong sau này Trang-Hòa sẽ giúp ta đắc lực.
Câu nói của Long-Xưởng làm Thụy-Hương đau nhói trong tim. Nàng nhủ thầm :
– Thì ta trong tâm đại ca, chỉ có Trang-Hòa mà thôi ! Vì Trang-Hòa là đại tiểu thư. Còn ta ư ? Ta chỉ là con một thị vệ hèn hạ. Nhưng…nhưng Linh-Nhân hoàng thái hậu xưa là cô bé chăn trâu thì sao ? Ta chẳng nên nản chí.
Thấy Thụy-Hương đờ người ra, Long-Xưởng hỏi :
– Muội nghĩ gì vậy ?
– Muội nghĩ…Xưa Linh-Nhân hoàng thái hậu là Ỷ-Lan phu nhân, danh chính ngôn thuận, thì ngài mới làm phụ chính cho vua Thánh-tông được. Còn muội ư ? Muội chỉ là cô em nấu bếp của đại ca thôi.
Trong ngụ ý, Thụy-Hương muốn nói xa rằng, Long-Xưởng nên tuyển nàng làm phi tần, như vua Thánh-tông tuyển Ỷ-Lan. Nhưng Long-Xưởng lại hiểu ngược lại là nàng nói nhún, nàng không có tài như Ỷ-Lan. Thoáng thấy trong đôi mắt Tín-Hương nương, dường như hiểu được ý mình, Thụy-Hương bảo nó :
– Cho người lui.
Tín-Hương nương cúi đầu, lùi ra ngoài, trước khi khép cửa lại, nó liếc con mắt sắc như dao cau lướt trên cơ thể Thụy-Hương.
Thụy-Hương bưng chồng hồ sơ, rồi đứng sau Long-Xưởng, để từng tập xuống trước mặt vương. Long-Xưởng đọc xong hồ sơ thứ nhất, vương gật đầu đồng ý, rồi ký vào. Thụy-Hương lại đặt hồ sơ thứ nhì xuống. Long-Xương đọc xong, tỏ ý hài lòng. Lại ký. Phút chốc, cả chồng hồ sơ dầy cộm, Long-Xưởng đều ký xong.
Vương bỏ bút quay lại, định ngợi khen Thụy-Hương một câu, thì đúng lúc nàng cúi xuống bưng chồng hồ sơ lên. Vô tình má Long-Xưởng ấp vào ngực nàng. Bất giác cả hai thiếu niên cùng rung động. Cả hai cùng cảm thấy trời đất đảo lộn. Chân tay hai đều run lật bật.
Hai thiếu niên sống gần nhau đã mấy năm, tâm tình với nhau, chung nhau hành sự. Cả hai kính nhau, yêu nhau như anh em. Cả hai tuy đã lớn, cơ thể đã bắt đầu thúc dục, mà họ chưa bao giờ nghĩ tới ăn trái đào tiên. Họ cũng chưa biết mùi vị tình yêu là gì. Đôi khi họ cũng nghĩ thoáng qua tới trái đào của tình yêu rồi bỏ qua. Bây giờ trong thư phòng vắng vẻ, cơ thể hai người đụng chạm nhau. Lần đầu tiên họ được hưởng cái cảm giác thần tiên. Lần đầu tiên họ biết mùi vị ngọt ngào tuyệt vời trai gái. Cả hai giữ im lặng, không ai muốn lên tiếng, không ai muốn rời nhau : Thụy-Hương vẫn giữ tư thế cúi xuống, Long-Xưởng vẫn giữ tư thế quay đầu lại phía sau, hít cái hương thơm trinh nữ.
Thời Lý, khi một hoàng tử tới tuổi mười hai, mười ba thì nhà vua đã phong cho tước vương, truyền mở phủ đệ riêng. Quan chức trong vương phủ tuy không nhiều bằng Đông-cung, nhưng cũng hằng mấy chục người : Trưởng-sử ghi chép tất cả những gì diễn ra ; Ngự-thiện trông coi việc phục vụ nhu cầu ăn uống ; Mật-thư tỉnh sự, coi về văn thư ; Phủ-khố giữ kho tàng ; Gia-tướng, thân binh, mã phu nhiều ít tùy theo chức vụ hoàng tử đảm nhiệm.
Hoàng hậu tuyển cho hoàng tử hằng chục phi tần. Người có tài, đức, nhan sắc nhất được phong làm chánh-phi, còn lại là các thứ phi. Ngoài các bà phi, hoàng hậu còn tuyển cho hoàng tử rất nhiều cung nga, thái giám. Cung nga là con các chức quan nhỏ, hoặc dân dã, có nhan sắc, tương đối có tài, có đức. Các cung nga này để hầu hạ các bà phi. Nhưng bất cứ lúc nào, hoàng tử cũng có thể xài cung nga như một bà phi, cũng có thể cất nhắc một cung nga lên chức phi. Tuy nhiên chức chánh-phi thì phải do nhà vua hay hoàng-hậu ban chế tuyên phong.
Khi cho Long-Xưởng ra ở Đông-cung, các đại thần tâu xin nhà vua áp dụng lệ đó. Nhưng vì chí Long-Xưởng lớn qúa, lại lo lắng trăm chiều đối phó với cái triều đình gà mái gáy cung Cảm-Thánh, nên hoàng-hậu trả lời, tạm hoãn việc lập vương phi. Còn cung nga, thì Cảm-Thánh thái hậu đem hơn hai mươi người của bà sang. Sau khi triều đình gà mái gáy bị dẹp, bọn cung nga, thái giám của thái-hậu cử sang Đông-cung bị giết sạch. Hoàng hậu đích thân tuyển một số cung nga, thái giám, rồi trao cho vú Loan, vú Mai cai quản. Hai bộc phụ trung kiên là Trung-Tĩnh nương với Tín-Hương nương thì được trao cho nhiệm vụ cai quản đám bộc phụ Đông-cung lau chùi, vệ sinh. Công việc ở ngự thiện đường, đại sảnh đường, và các phòng ngủ của cung nga, thái giám thì trao cho Trung-Tĩnh nương. Còn công việc ở ngự thư phòng, tẩm phòng của Long-Xưởng, Thủ-Huy, cùng các phòng làm việc của Đông-cung thì trao cho Tín-Hương nương.
Rồi hoàng-hậu, triều đình quên cái lệ lập vương phi cho Long-Xưởng. Long-Xưởng đã bàn với hoàng-hậu là sau này khi lên ngôi vua, sẽ bỏ cái hủ tục nhiều vợ, áp dụng luật một vợ, một chồng như thời vua bà Bình-Dương cai trị Bắc-biên. Trong tâm hoàng-hậu, bà định tuyển Trang-Hòa làm chánh-phi cho Long-Xưởng. Một mai Long-Xưởng lên ngôi vua, thì Trang-Hòa đương nhiên thành hoàng-hậu. Ngược lại trong thâm tâm vú Mai, vợ chồng Đào Duy thì lại coi Thụy-Hương, Như-Như là những thứ phi của Long-Xưởng. Nếu như bất cứ hoàng-tử nào khác ; má, đầu Long-Xưởng đụng chạm với khu vườn ngát hương thơm của Thụy-Hương… Long-Xưởng có toàn quyền hưởng trái ngọt thần tiên ở người con gái đang sẵn sàng, đang ước mơ được dâng hiến cho mình. Chợt hình ảnh Thủ-Huy với Thụy-Hương lúc nào cũng như đôi chim bên nhau bấy lâu hiện lên. Người thiếu niên Long-Xưởng từng nghĩ rằng nên dành Thụy-Hương cho người em kết nghĩa. Nhưng một hình hình ảnh khác mãnh liệt hơn hiện ra, đó là hình ảnh Đoan-Nghi với Thủ-Huy. Cứ như lời của hoàng-hậu nói với Thủ-Huy, thì rõ ràng hậu gả Đoan-Nghi cho Thủ-Huy rồi. Như vậy…
Thế là Long-Xưởng tiếp tục im lặng, hưởng cái diễm phúc tuyệt thế, để cho cơ thể rung động. Hai người im lặng trong khoảng một khắc, Long-Xưởng bừng tỉnh trước:
– Vạn vạn lần ta không thể. Muôn nghìn lần ta không nên ! Nhị đệ là em ta, y là ngôi sao thủ mệnh của ta. Nhị đệ không còn sống được bao lâu nữa, nhược bằng ta công khai cùng Thụy-Hương hưởng diễm phúc thì nhị đệ sẽ đau đớn lắm. Ta chỉ cần chịu đựng mấy ngày nữa, nhị đệ qua đời rồi, thì không còn gì cản trở được ta. Phàm là cha con, anh em, bạn hữu… Có thể ăn cùng mâm, ngủ cùng dường, mặc chung quần áo. Nhưng không thể chung một người đàn bà. À, giữa nhị đệ với Thụy-Hương vẫn còn tuyết sạch, giá trong mà !
Long-Xưởng đứng dậy. Thụy-Hương bừng tỉnh, nàng nhìn Long-Xưởng trong cái chua chát, trong cái ngỡ ngàng, trong cái kinh ngạc.
– Thụy-Hương, chúng ta sang thăm nhị đệ với Đoan-Nghi, xem sự thể ra sao. Chúng ta làm việc trải qua giờ Ngọ, Mùi. Bây giờ sắp sang giờ Dậu rồi. Không biết nhị đệ có bị nọc rết hành hạ, lên cơn không ?
Cửa khuê phòng Đoan-Nghi khép hờ, Long-Xưởng sẽ đẩy một cái, rồi bước vào : Đoan-Nghi, Thủ-Huy ngồi đối diện, hai bàn tay xòe ra úp vào nhau. Mắt hai người nhắm nghiền. Rõ ràng họ đang vận công giúp nhau chống độc. Tiếng kẹt cửa làm cả hai bừng tỉnh, thu công lại. Thụy-Hương hỏi :
– Thế nào nhị ca. Bệnh tình công chúa ra sao rồi ?
Thủ-Huy xua tay, tỏ ý muốn được yên tĩnh. Đoan-Nghi lắc đầu :
– Vào giờ Thân, nhị ca lên cơn khủng khiếp lắm. Nhị ca có vận công quy liễm nọc độc. Hơn giờ thì hết đau. Vừa lúc đó, chân khí chị chạy nhộn nhạo, vì các luồng tạp khí xung đột nhau. Nhị ca giúp chị hóa giải. Hóa giải vừa xong thì đại ca với tứ muội vào.
Sự thực không phải như vậy. Thủ-Huy biết rằng vì mình không hiểu y học, nhầm lẫn hút nọc rết trong Phế-kinh của Đoan-Nghi, trong 49 ngày sẽ chết. Hầu nghĩ : Đằng nào mình cũng chết, thì thà mình hút hết nọc độc cứu Đoan-Nghi, rồi chết cho cam lòng. Vì vậy khi Đoan-Nghi bị những luồng chân khí dị chủng hành hạ, hầu giả trợ nàng vận công, rồi hành động. Long-Xưởng bảo Thủ-Huy :
– Nhị đệ về phòng nghỉ đi.
Thủ-Huy đã mệt lắm rồi, hầu uể oải, lê bước về phòng mình nghỉ. Trung-Tĩnh nương chạy theo đỡ hầu.
Sáng hôm sau, hoàng-hậu, Thần-phi dẫn Thục-phi Đỗ Thụy-Châu sang Đông-cung thăm Đoan-Nghi với Thủ-Huy. Ngự-y Trần-thị Phương-Thanh cũng đã tới. Hoàng-hậu hỏi :
– Đoan-Nghi, từ qua đến giờ, con có bị đau đớn gì không ?
– Tâu mẫu hậu không. Thần-nhi không bị đau đớn gì cả. Chỉ có anh Thủ-Huy bị hành hạ khổ sở mà thôi.
Phương-Thanh cầm mạch Đoan-Nghi, mọi người hồi hộp theo dõi. Khi thì trán bà cau lại, khi thì mắt bà mở to ra. Cuối cùng, bà rùng mình :
– Tâu Hoàng-hậu, trong ngũ tạng của công chúa không còn một chút nọc độc nào cả. Bao nhiêu nọc độc thì một phần Thiếu-bảo hút ra, một phần biến thành chân khí của công chúa. Có điều, từ nay Thiền-công của công chúa lẫn với Huyền-âm công, lại có ngũ độc ở trong. Khi đấu với ai thì công chúa phải cẩn thận lắm, bởi chỉ cần công chúa đụng vào người họ thì Huyền-âm công làm cho họ sống dở, chết dở. Nhưng…
Thục-phi hồi hộp :
– Nhưng sao ?
– Nhưng Thiếu-bảo thì… hỡi ôi !
Bà cầm mạch Thủ-Huy. Vừa mó tay vào cườm tay hầu thì bà bị chân khí của hầu đẩy bật tung tay bà ra. Bà bật lên tiếng kêu :
– Ái.
Thủ-Huy vội quy liềm chân khí lại. Bấy giờ bà mới bắt mạch được. Khoảng hơn khắc sau, bà lùi lại, chắp tay vái Thủ-Huy :
– Thiếu-bảo chưa đi tu mà như đã đắc quả Bồ-tát. Hôm qua Thiếu-bảo hút nọc rết trong phế của công chúa. Sau đó, Thiếu-bảo lại hút hết nọc rắn, nhện, tằm, bọ cạp khỏi tạng của người. Người thoát chết. Nhưng Thiếu-bảo thì…hỡi ôi Thiếu-bảo chỉ còn sống có 48 ngày nữa thôi.
Đoan-Nghi hét lên :
– Đại phu ! Đại phu nói sao ? ? ?
Hoàng-hậu cũng kinh hãi :
– Thiếu-bảo hút hết nọc độc cho con bao giờ ?
Nước mắt đầm đìa, nàng nắm tay Thủ-Huy :
– Đêm qua những luồng chân khí dị chủng hành hạ thần nhi. Thần nhi bứt rứt khó chịu, thì anh Thủ-Huy bảo thần nhi ngồi yên để anh ấy dùng thần công điều hòa cho. Thần nhi nào có ngờ anh ấy lại hút hết nọc độc cứu thần nhi.
Chợt Thủ-Huy nghe thấy tiếng hô hấp trên mái điện. Hầu đưa mắt nhìn Tăng Khoa, rồi chấm tay vao chung trà viết xuống bàn :
« …Lục đệ . Lục đệ có cử thị vệ ngồi trên nóc cung canh phòng không… ? »
Tăng Khoa cũng chấm tay vào nước viết :
« …Không. Như vậy nó là gian tế rồi. Để đệ lôi cổ nó xuống. »
Đoan-Nghi cau mày suy nghĩ rồi viết :
« … Nội công tên này nửa chính, nửa tà. Cứ đợi xem y định làm gì đã ».
Có tiếng người quát :
– Ai ?
Rồi có tiếng vũ khí chạm nhau. Có tiếng người ngã. Mọi người cùng ra khỏi điện, thì thấy một thị vệ Đông-cung đang rơi từ nóc điện xuống. Trên nóc điện, Đào Duy đang dùng kiếm giao đấu với hai người bịt mặt. Võ công Đào Duy là võ công Mê-linh, còn hai người bịt mặt rất quái dị. Đào Duy đã có vẻ nao núng. Đoan-Nghi hú lên mộ