Bạn đang đọc Ỷ Thiên Đồ Long Ký – Chương 13: Thất Hiệp Tụ Hội Lạc Vị Ương
Anh em nay được buổi tao phùng,
Tụ họp trong vui đã chứa buồn.
Vừa hết sinh ly nay tử biệt,
Để lại trong ai mối hận lòng.
Một lúc sau, có sáu bảy người của hai phái Không Động và phái Nga Mi lên thuyền, chào hỏi Du Liên Châu, Tây Hoa Tử, Vệ Tứ Nương. Đứng đầu phái Không Động là một ông già gầy gò rắn rỏi mặc cát y[1], còn đứng đầu phái Nga Mi là một ni cô trung niên. Những người đó không khỏi ngạc nhiên khi thấy bọn Lý Thiên Viên của Thiên Ưng giáo cũng ở trên thuyền.
Tây Hoa Tử lớn tiếng nói:
– Đường tam gia, Tĩnh Hư sư thái, phái Võ Đương đã bắt tay với Thiên Ưng giáo rồi. Kỳ này bọn mình hố to.
Người gầy gò nhỏ thó mặc áo gai kia tên là Đường Văn Lượng là một trong ngũ lão của phái Không Động, còn trung niên ni cô Tĩnh Hư sư thái là đại đệ tử đời thứ tư của phái Nga Mi, đều là những hảo thủ có chút danh vọng trong võ lâm. Hai người nghe Tây Hoa Tử nói đều ngẩn người. Tĩnh Hư sư thái là người tinh tế, vốn đã biết tính tình bộp chộp của Tây Hoa Tử nên không nói gì, còn Đường Văn Lượng lập tức trợn tròn đôi mắt, nhìn trừng trừng vào Du Liên Châu hỏi:
– Du nhị hiệp, lời nói đó có đúng không?
Du Liên Châu chưa kịp trả lời, Tây Hoa Tử đã chen vào:
– Bọn phái Võ Đương đã kết thành thân gia với Thiên Ưng giáo, Trương Thúy Sơn đã thành con rể của Ân Thiên Chính ?
Đường Văn Lượng lạ lùng hỏi:
– Trương ngũ hiệp thất tung mười năm nay đã biết được ở đâu rồi ư?
Du Liên Châu chỉ Trương Thúy Sơn nói:
– Đây là ngũ sư đệ của tôi Trương Thúy Sơn, còn vị này là tiền bối cao nhân của phái Không Động, Đường tam gia Đường Văn Lượng, hai người làm quen đi nào.
Tây Hoa Tử lại nói:
– Vợ chồng Trương Thúy Sơn biết chỗ ở của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn, nhưng quanh co không chịu nói, lại còn giả mù sa mưa, bảo là Tạ Tốn chết rồi.
Đường Văn Lượng vừa nghe tới ?Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn?, vừa sợ vừa tức, quát lên:
– Y ở đâu?
Trương Thúy Sơn nói:
– Việc này tại hạ phải bẩm trước cho gia sư rõ, xin thứ lỗi không thể trình bày bây giờ.
Đường Văn Lượng mắt như muốn đổ lửa, quát lên:
– Tên ác tặc Tạ Tốn ở chỗ nào? Y giết cháu ta, họ Đường này quyết không đội trời chung với y, y ở đâu? Ngươi có nói không thì bảo?
Mấy câu sau cùng giọng y thật gay gắt, không còn chút nể nang gì. Ân Tố Tố lạnh lùng đáp:
– Các hạ có lắm cũng chỉ là người của phái Không Động lớn hơn vài tuổi, với tư cách đó, làm gì mà có thể bức bách được Trương ngũ gia? Ngươi là võ lâm chí tôn chăng? Hay ngươi là Trương chân nhân, chưởng môn phái Võ Đương?
Đường Văn Lượng giận quá, mười ngón tay vung ra, đang toan xông vào Ân Tố Tố, nhưng thấy nàng chỉ là một thiếu phụ ẻo lả, còn mình là nhân vật thành danh, võ lâm tiền bối, không tiện động thủ với nàng, cố dằn cơn nóng, quay qua Trương Thúy Sơn nói:
– Ai đây?
Trương Thúy Sơn nói:
– Đó là tiện nội.
Tây Hoa Tử nói chen vào:
– Đấy chính là thiên kim của Ân đại giáo chủ Thiên Ưng giáo. Hừ, tà giáo yêu nữ, có tốt lành gì.
Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính võ công tinh thâm, đương thế những người đã từng động thủ với ông ta, chưa có ai chống đỡ nổi mười chiêu. Đường Văn Lượng vừa nghe người đàn bà này là con gái của Ân Thiên Chính, không khỏi kiêng dè, chỉ nói:
– Được, được lắm.
Tĩnh Hư sư thái từ khi lên thuyền đến giờ, chỉ lặng yên bình tĩnh không thốt một lời, lúc này mới nói:
– Việc này nguyên ủy đầu đuôi ra sao, mong Du nhị hiệp cho biết.
Du Liên Châu đáp:
– Chuyện này dây mơ rễ má thật nhiều, đến nay đã kéo dài mười năm, nhất thời không thể nào mổ xẻ cho rõ ràng được. Thôi mình để ba tháng sau, tệ phái sẽ thiết yến tại Hoàng Hạc Lâu tỉnh Võ Xương, mời tất cả các môn phái bang hội có liên quan đến dự tiệc, lúc đó trái phải ngay cong, mình nêu ra trước tất cả mọi người. Ý các vị ra sao?
Tĩnh Hư sư thái gật đầu, nói:
– Như thế hay lắm.
Đường Văn Lượng nói:
– Trái phải ngay cong, ba tháng nữa mình luận cũng vừa, nhưng tên ác tặc Tạ Tốn trốn ở đâu, mong Trương ngũ hiệp nói trước cho biết.
Trương Thúy Sơn lắc đầu đáp:
– Lúc này chưa tiện nói ra.
Đường Văn Lượng tuy rất bất mãn nhưng nghĩ bụng nếu phái Võ Đương liên thủ với Thiên Ưng giáo, thì không thể nào làm gì được, nhưng công đạo là ở lòng người, để xem ba tháng sau họ sẽ nói năng thế nào với anh hùng thiên hạ. Thành thử y không nói thêm, đứng ngay dậy chắp hai tay, nói:
– Thế thì ba tháng sau mình gặp lại, cáo từ.
Tây Hoa Tử nói:
– Đường tam gia, mấy người chúng tôi đi nhờ thuyền các hạ trở về, liệu có được chăng?
Đường Văn Lượng đáp:
– Được chứ, có gì mà không được?
Tây Hoa Tử quay sang Vệ Tứ Nương nói:
– Sư muội, mình đi thôi.
Y vốn đi cùng thuyền với Du Liên Châu đến đây, bây giờ làm thế, hiển nhiên coi phái Võ Đương là thù địch. Du Liên Châu vẻ mặt thản nhiên, ân cần niềm nở tiễn họ ra đến đầu thuyền, nói:
– Chúng tôi về núi bẩm rõ cho sư tôn rồi sẽ gửi thiếp mời dự anh hùng yến đến quí vị.
Ân Tố Tố đột nhiên nói:
– Tây Hoa đạo trưởng, tôi có một việc muốn thỉnh giáo.
Tây Hoa Tử ngạc nhiên quay đầu lại, hỏi:
– Chuyện gì?
Ân Tố Tố nói:
– Đạo trưởng không ngớt miệng nói tôi là tà giáo yêu nữ, nhưng không biết tà ở chỗ nào, yêu ở chỗ nào?
Tây Hoa Tử sững sờ, nói:
– Tà ma ngoại đạo, hồ mị yêu dâm, thì là như thế, ta việc gì phải nói nhiều? Nếu không tại sao đường đường một vị Trương ngũ hiệp của phái Võ Đương lại bị mê hoặc? Ha ha, ha ha.
Nói xong liên tiếp cười khẩy. Ân Tố Tố nói:
– Tốt lắm, đa tạ đã chỉ điểm.
Tây Hoa Tử thấy mấy câu của mình đã khiến cho nàng ngú ngớ không đáp lại được, thật ngoài dự liệu, thấy nàng không nói gì thêm, liền lên cầu ván đi qua thuyền của phái Không Động.
Hai chiếc thuyền đều là loại lớn ba cột buồm dùng đi biển, tuy đậu tại một chỗ nhưng cách nhau phải đến hơn hai trượng, cầu ván bắc ngang thật dài. Tây Hoa Tử đối đáp với Ân Tố Tố mấy câu, nên thành người sau cùng, những người khác đã qua thuyền kia cả rồi. Y đi vừa đến giữa tấm ván, thấy đằng sau hơi có tiếng gió, tiếp theo một tiếng soẹt nhỏ. Y tuy tính tình nóng nảy, nhưng võ công cũng khá cao, đi lại trên giang hồ cũng nhiều, vừa nghe tiếng gió, biết sau lưng có người ám toán, lập tức quay người lại, rút trường kiếm ra cầm trên tay. Ngay lúc đó, y thấy dưới chân hẫng xuống, chiếc cầu ván đứt ra làm đôi. Y vội vàng tung mình nhảy lên nhưng giữa hai chiếc thuyền trống không, chẳng có gì để bám vào, bên dưới là biển sâu, nhảy lên rồi không thể nhảy thêm lần nữa, nghe tùm một tiếng, rơi ngay xuống nước.
Y vốn không biết bơi, lập tức ục ục uống ngay mấy ngụm nước mặn, hai tay múa may quờ quạng, đột nhiên nắm được một sợi dây thừng, mừng quá, vội vàng giữ chặt, thấy có người đang kéo y ra khỏi mặt nước. Tây Hoa Tử nhìn lên, thấy đầu dây bên kia chẳng ai xa lạ mà chính là Trình đàn chủ của Thiên Ưng giáo, đang nhìn y miệng cười tủm tỉm.
Thì ra Ân Tố Tố giận y ngôn ngữ vô lễ, bí mật dặn dò Phong Trình hai đàn chủ, sắp đặt mưu kế. Phong đàn chủ có tài sử dụng ba mươi sáu ngọn phi đao nổi danh trong giới giang hồ, ra tay vừa nhanh vừa chính xác, mỗi ngọn phi đao đều do thợ khéo rèn bằng thép ròng, mỏng như lá liễu, sắc bén dị thường, đối thủ nếu đưa binh khí ra đỡ phi đao của y, đều bị chặt đứt. Lúc này y dùng phi đao chặt cầu ván, chỉ nghe soẹt một tiếng nhỏ là đứt liền. Trình đàn chủ đứng bên chuẩn bị sẵn dây thừng, đợi Tây Hoa Tử uống mấy ngụm nước rồi mới tung giây kéo y lên.
Bọn Vệ Tứ Nương, Đường Văn Lượng thấy Tây Hoa Tử rơi xuống biển, tuy cũng đoán là đối phương giở trò, nhưng Phong đàn chủ xuất thủ quá nhanh, mọi người lại chỉ nhìn về phía trước, nên không ai biết tại sao cầu ván đứt đôi, đợi đến lúc mọi người hô hoán cứu cấp, Trình đàn chủ đã kéo được y lên khỏi mặt nước.
Tây Hoa Tử cố dằn cơn giận, định bụng vừa lên đến thuyền, là ra tay tấn công đối phương ngay. Nào ngờ Trình đàn chủ chỉ kéo y lên khỏi mặt nước độ chừng một thước, rồi không kéo nữa, kêu lên:
– Đạo trưởng, tuyệt đối chớ nên động đậy, tại hạ sức yếu, nến cử động, e rằng kéo không nổi sẽ tuột tay đấy nhé.
Tây Hoa Tử nghĩ thầm nếu y giả ngây giả dại, cho mình rơi xuống biển lần nữa, thì thật mất thú, nên đành nắm chặt dây thừng, không dám leo lên. Trình đàn chủ kêu lên:
– Cẩn thận này.
Tay y vẩy một cái, vung chiếc thừng vút lên trên không thành một nửa vòng tròn. Cánh tay của y khỏe thật, chỉ giựt một cái, kéo vút Tây Hoa Tử về sau bẩy tám trượng, lại vung một cái ném về trước, tống y lên thẳng thuyền bên kia.
Tây Hoa Tử buông dây ra, hai chân rơi phịch xuống sàn. Trường kiếm của y bị mất khi rơi xuống biển, lúc này tức giận muốn phát điên, nghe bên thuyền của Thiên Ưng giáo tiếng hoan hô và tiếng cười nhạo báng cùng nổi lên, lập tức chạy đến rút thanh bội kiếm của Vệ Tứ Nương, toan nhảy qua thí mạng. Nhưng lúc đó hai chiếc thuyền cách nhau đã xa, khó lòng nhảy qua nổi, chỉ còn nước dậm chân, chỉ tay mắng chửi, nhưng không làm được.
Ân Tố Tố đùa giỡn Tây Hoa Tử, Du Liên Châu đều nhìn thấy hết, nghĩ thầm người con gái này quả thực tà môn, không phải là mối lương duyên cho ngũ đệ, nên nói:
– Ân Lý hai vị đường chủ, xin cảm phiền về bẩm lại với Ân giáo chủ, ba tháng sau gặp lại ở Võ Xương Hoàng Hạc Lâu, nếu lão nhân gia không coi là nhẹ, xin mời giá lâm. Hôm nay chúng mình từ biệt nơi đây. Ngũ đệ, chú theo ngu huynh về gặp ân sư chứ?
Trương Thúy Sơn nói:
– Vâng.
Ân Tố Tố thấy mấy lời của Du Liên Châu có ý muốn vợ chồng xa nhau, lập tức ngửng lên nhìn trời, lại cúi xuống nhìn sàn thuyền. Trương Thúy Sơn biết nàng có ý muốn nhắc lại lời thề ?thiên thượng địa hạ, vĩnh bất phân ly?, nên nói:
– Nhị ca, tiểu đệ muốn đưa vợ con về khấu kiến ân sư trước, để khi nào được lão nhân gia cho phép, sẽ qua bái kiến nhạc phụ, nhị ca nghĩ có được không?
Du Liên Châu hơi trù trừ, nghĩ thầm nếu cương quyết bắt vợ chồng phân ly, cha con xa cách, quả thật chàng không lòng nào thốt ra, nên gật đầu nói:
– Thế cũng được.
Ân Tố Tố mừng quá, nói với Lý Thiên Viên:
– Sư thúc, xin sư thúc về bẩm lại với cha cháu, nói rằng đứa con gái bất hiếu này may mắn thoát chết, ít ngày nữa sẽ trở về tổng đà, bái kiến lão nhân gia.
Lý Thiên Viên nói:
– Tốt lắm, ta ở tổng đà cung kính đón chờ đại giá của hai vị.
Liền đứng lên, cùng Du Liên Châu chào từ biệt.
Ân Tố Tố hỏi:
– Cha cháu có khỏe không?
Lý Thiên Viên đáp:
– Khỏe lắm, khỏe lắm. Xem ra tinh thần còn kiện vượng hơn xưa nữa.
Ân Tố Tố lại hỏi:
– Còn anh cháu có khỏe không?
Lý Thiên Viên đáp:
– Khỏe lắm. Lệnh huynh mấy năm nay võ công tiến bộ vượt bực, khiến cho sư thúc đuổi theo không kịp, thật đáng xấu hổ biết bao.
Ân Tố Tố mỉm cười nói:
– Sư thúc lại nói đùa với bọn vãn bối rồi.
Lý Thiên Viên nghiêm mặt nói:
– Ta không có nói đùa đâu. Ngay cả gia gia ngươi cũng còn khen là màu lam từ màu xanh mà ra, thì cháu thử xem có lợi hại không?
Ân Tố Tố cười nói:
– Ối chao, sư thúc trước mặt người ngoài, mèo khen mèo dài đuôi, tự mình bốc mình lên, chẳng sợ Du nhị hiệp cười hay sao.
Lý Thiên Viên cười nói:
– Trương ngũ hiệp đã là rể quí của chúng ta, Du nhị hiệp đâu có còn là người ngoài nữa.
Nói xong ôm quyền cung kính chào, quay mình xuống thuyền. Du Liên Châu nghe mấy câu đó trong lòng không vui chút nào, hơi nhíu mày, nhưng không nói gì. Trương Thúy Sơn đợi người Thiên Ưng giáo đi hết, liền hỏi:
– Nhị ca, thương thế của tam ca bây giờ ra sao? Anh ấy ? có bớt chút nào không?
Du Liên Châu hừm một tiếng, hồi lâu không đáp. Trương Thúy Sơn trong lòng bồn chồn, mắt chăm chăm nhìn sư ca, trong lòng nổi lên một ý không may, chỉ sợ nghe thấy một tiếng ?chết?. Du Liên Châu chậm rãi nói:
– Tam đệ không chết, thế nhưng so với chết cũng chẳng khác bao nhiêu. Y tàn phế suốt đời, chân tay không di động được. Du Đại Nham Du tam hiệp, ha ha, trên giang hồ nay không còn cái tên đó nữa.
Trương Thúy Sơn nghe nói tam ca không chết, trong lòng mừng rỡ, nhưng nghĩ đến một vị sư ca anh phong hiệp cốt mà phải chịu cảnh như vậy, nhịn không nổi phải ứa nước mắt, nghẹn ngào hỏi:
– Cừu nhân hại anh ấy là ai? Đã tìm ra được chưa?
Du Liên Châu không trả lời, quay mặt lại, đột nhiên đôi mắt sáng như điện chiếu thẳng vào mặt Ân Tố Tố, nghiêm nghị hỏi:
– Ân cô nương, cô có biết kẻ hại Du tam đệ của ta là ai không?
Ân Tố Tố tự nhiên hơi run rẩy, nói:
– Nghe nói gân cốt chân tay của Du tam hiệp, bị người ta dùng Kim Cương Chỉ Lực của phái Thiếu Lâm đánh đứt.
Du Liên Châu đáp:
– Đúng thế. Cô không biết là ai ư?
Ân Tố Tố lắc đầu:
– Em không biết.
Du Liên Châu không lý đến nàng nữa, nói:
– Ngũ đệ, phái Thiếu Lâm nói là ngươi giết tất cả lớn bé Long Môn tiêu cục ở phủ Lâm An, lại giết cả mấy tăng nhân Thiếu Lâm, việc đó thật hay giả?
Trương Thúy Sơn nói:
– Cái đó ?
Ân Tố Tố nói xen vào:
– Việc đó không liên quan gì đến ngũ ca, tất cả đều do em giết đấy.
Du Liên Châu nhìn nàng, trong ánh mắt lộ vẻ hết sức thống hận, nhưng chỉ chớp mắt lại tiêu đi, khuôn mặt trở lại vẻ bình hòa, nói:
– Ta cũng biết ngũ đệ không bao giờ giết người bừa bãi như thế. Phái Thiếu Lâm cũng vì chuyện đó đã ba lần cử người lên núi Võ Đương lý luận, nhưng vì ngũ đệ đột nhiên mất tích, trên võ lâm ai ai cũng biết, nên không người đối chứng. Bên mình thì nói phái Thiếu Lâm hại tam đệ, bên phái Thiếu Lâm thì nói ngũ đệ giết của họ mấy chục người. Cũng may là chưởng môn trụ trì phái Thiếu Lâm là Không Văn đại sư lão thành trì trọng, tôn kính ân sư, hết sức ước thúc môn hạ đệ tử, không cho sinh sự nên mười năm nay không gây ra đại họa.
Ân Tố Tố nói:
– Khi em còn trẻ hành sự chẳng biết khinh trọng tốt xấu gì cả, bây giờ nghĩ lại thật là hối hận. Thế nhưng người đã chết rồi, bây giờ mình cứ chối biến không nhận đến cùng, thế là xong.
Du Liên Châu trên mặt lộ vẻ lạ lùng, liếc nhìn Trương Thúy Sơn một cái, nghĩ thầm sao hạng người con gái thế này sư đệ mình lại lấy làm vợ được. Ân Tố Tố thấy chàng đối xử với mình lạnh nhạt, mở miệng ra chỉ nói ?Ân cô nương? chứ không gọi ?đệ phụ?, trong bụng đã bực thầm, nên nói:
– Ai làm nấy chịu. Việc này em sẽ không để cho phái Võ Đương phải liên lụy đâu, cứ để cho phái Thiếu Lâm đến kiếm Thiên Ưng giáo là xong.
Du Liên Châu lớn tiếng:
– Trên chốn giang hồ, mọi việc không thể bỏ qua chữ ?lý?. Không nói gì phái Thiếu Lâm hiện nay là phái lớn nhất trong võ lâm, dù cho có là kẻ mẹ góa con côi vô quyền vô dũng, chúng ta cũng phải lấy ?lý? ra mà xử chứ không thể nói chuyện cậy mạnh hiếp yếu, lấy thịt đè người.
Nếu như mười năm trước, những lời giáo huấn nghiêm chính của Du Liên Châu chắc chắn sẽ khiến Ân Tố Tố thẹn quá hóa khùng, rút kiếm ra gây chuyện ngay, thế nhưng lúc này nàng thấy Trương Thúy Sơn cung cung kính kính đáp: ?Nhị ca dạy chí phải? nên nghĩ thầm: ?Nếu như ta không nghe những lời nhân nghĩa đạo đức kia, mà mở miệng cãi lại, chỉ làm cho Trương lang càng khó xử thêm, thôi mình nên nhường nhịn là hơn?. Nàng bèn dắt tay Vô Kỵ, đi ra bên ngoài, nói:
– Vô Kỵ, để mẹ đưa con ra coi chiếc thuyền lớn này, trước nay con chưa thấy thuyền bao giờ, phải không?
Trương Thúy Sơn đợi vợ và con đi ra ngoài rồi, mới nói:
– Nhị ca, trong mười năm qua, em ?
Du Liên Châu xua tay, nói:
– Ngũ đệ, anh em mình bụng dạ liền nhau, tình như ruột thịt, dù có chuyện gì lớn lao đến đâu, nhị ca cũng quyết cùng chú sống chết có nhau. Chuyện vợ chồng chú, đừng nói với anh vội, về đến núi rồi, đợi xem sư phụ định như thế nào. Nếu như sư phụ trách phạt, tất cả bảy anh em mình cùng quì xuống van xin, con chú cũng đã lớn rồi, lẽ nào sư phụ lại bắt chồng vợ cha con mỗi người một ngả?
Trương Thúy Sơn mừng quá, nói:
– Đa tạ nhị ca.
Du Liên Châu bên ngoài cứng rắn nhưng trong dạ rất nhiệt tình, trong bảy người của phái Võ Đương chàng ít đùa cợt nhất, những sư đệ đối với chàng hết sức kính sợ, còn hơn cả đại sư ca Tống Viễn Kiều nhiều. Thực ra chàng là người đối với anh em rất tình sâu nghĩa nặng, khi Trương Thúy Sơn đột nhiên mất tích, trong bụng chàng đau đớn muốn phát điên, ngoài mặt vẫn làm như vô sự, hôm nay huynh đệ trùng phùng, thực là bình sinh chưa có gì vui bằng, thế nhưng vẫn phải giữ vẻ nghiêm nghị, dạy cho Ân Tố Tố một chập, đến bây giờ chỉ còn sư huynh đệ hai người, lúc ấy mới lộ chân tình.
Chuyện chàng lo ngại nhất là việc Ân Tố Tố giết quá nhiều đệ tử phái Thiếu Lâm, việc đó không thể nào giải quyết cho êm thắm được, nhưng trong bụng đã định sẵn, thà mình tính mệnh không còn cũng quyết bảo vệ gia đình sư đệ an toàn.
Trương Thúy Sơn lại hỏi:
– Nhị ca, bên mình cùng Thiên Ưng giáo xảy ra tranh chấp, phải chăng cũng vì việc vợ chồng tiểu đệ? Việc này khiến cho lòng đệ không yên chút nào.
Du Liên Châu không trả lời, hỏi lại:
– Việc trên Vương Bàn Sơn đảo đầu đuôi ra sao?
Trương Thúy Sơn liền thuật lại mình đến Lâm An đang đêm tiến vào Long Môn tiêu cục như thế nào, làm sao gặp được Ân Tố Tố, rồi cùng nhau đi dự dương đao lập uy của Thiên Ưng giáo trên Vương Bàn Sơn đảo, sau đó Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn ra tay tàn sát, đoạt được đao Đồ Long, bắt ép hai người phải lên thuyền ra biển.
Du Liên Châu nghe hết câu chuyện, rồi hỏi kỹ lại vụ hai người của phái Côn Lôn là Cao Tắc Thành và Tưởng Đào, ngẫm nghĩ một hồi, mới nói:
– Hóa ra là vì thế. Nếu như hiền đệ không quay về, không biết những ẩn tình bên trong biết đến ngày nào mới tỏ lộ ra được.
Trương Thúy Sơn nói:
– Đúng vậy, nghĩa huynh của đệ ? ồ, nhị ca, Tạ Tốn thực ra không phải là người hung ác đến mức không thể cải hóa, y như thế, chẳng qua vì đời gặp một thảm sự mà thành, bây giờ em đã cùng y kết nghĩa kim lan.
Du Liên Châu gật đầu, nghĩ thầm: ?Đây cũng lại là một chuyện trói chân trói tay mình nữa?. Trương Thúy Sơn nói tiếp:
– Uy lực tiếng rống của nghĩa huynh tiểu đệ, khiến cho tất cả mọi người trên Vương Bàn Sơn đảo thần trí thất thường, y nói những người đó tuy không chết, nhưng đều biến thành điên dại, để cho chuyện y đoạt được đao Đồ Long không tiết lậu ra ngoài.
Du Liên Châu đáp:
– Gã Tạ Tốn kia tuy hành sự tàn ác nhưng phải nói y quả là một kỳ nam tử, có điều y trăm điều tính vẫn sót một điều, quên đi một người.
Trương Thúy Sơn hỏi:
– Ai thế?
Du Liên Châu đáp:
– Bạch Qui Thọ.
Trương Thúy Sơn hỏi:
– Đàn chủ Huyền Võ Đàn của Thiên Ưng giáo ư?
Du Liên Châu đáp:
– Chính hắn. Cứ như lời của hiền đệ, trong số quần hào có mặt ngày hôm đó tại Vương Bàn Sơn đảo, thì Bạch Qui Thọ nội công thâm hậu hơn cả nhưng bị Tạ Tốn bắn rượu đánh chết giấc. Về sau khi Tạ Tốn thi triển Sư Tử Hống, nếu như Bạch Qui Thọ còn bình thường thì cũng chịu không nổi tiếng hú đó ?
Trương Thúy Sơn vỗ đùi, nói:
– Đúng rồi, lúc đó Bạch Qui Thọ còn nằm trên mặt đất chưa tỉnh nên không nghe tiếng hú, khiến cho về sau thần trí vẫn còn tỉnh táo. Nghĩa huynh của đệ tuy tính toán khít khao, nhưng lại không nghĩ ra chuyện đó.
Du Liên Châu thở dài một tiếng, nói:
– Từ trên đảo Vương Bàn Sơn trở về mà không mất trí, chỉ có một mình Bạch Qui Thọ mà thôi. Phái Côn Lôn tuy có nội công độc đáo, nhưng Cao Tưởng hai người nội lực thô thiển, từ đó thành phế nhân si si ngốc ngốc. Hỏi hai người ai đã hại họ thành như thế, Tưởng Đào chỉ biết lắc đầu, còn Cao Tắc Thành từ trước đến sau chỉ nói được tên một người là Ân Tố Tố.
Chàng ngừng lại một lát, nói tiếp:
– Bây giờ ta đã rõ rồi, hóa ra trong lòng y khắc sâu hình bóng đệ muội không quên. Hừm, lần sau Tây Hoa Tử còn ăn nói hỗn láo, để ta cho y biết tay. Đệ tử phái Côn Lôn nhà y hành sự bất cẩn, sao còn đi trách cứ người khác.
Trương Thúy Sơn nói:
– Nếu Bạch Qui Thọ không mất trí, y hẳn phải hiểu rõ nguyên ủy thế nào.
Du Liên Châu đáp:
– Thế nhưng y lại không nói ra, ngũ đệ có biết tại sao không?
Trương Thúy Sơn suy nghĩ, biết ngay nguyên do, nói:
– Phải rồi, Thiên Ưng giáo muốn một mình đi đoạt lại thanh đao Đồ Long nên không chịu thổ lộ cái tin tức chỉ có họ biết, nên trước sau vẫn nói là họ không biết gì.
Du Liên Châu nói:
– Thì hiện nay võ lâm chia ra phe nhóm tranh chấp cũng từ đó mà ra. Phái Côn Lôn nói là Ân Tố Tố hại hai người Cao Tưởng, anh em chúng ta cũng nói hiền đệ bị Thiên Ưng giáo hạ độc thủ.
Trương Thúy Sơn nói:
– Thế việc tiểu đệ đến hội Vương Bàn Sơn cũng do Bạch Qui Thọ nói ra ư?
Du Liên Châu nói:
– Không đâu, y không nói gì cả. Ta cùng tứ đệ, lục đệ cùng đến đảo Vương Bàn Sơn tra xét, thấy ngươi dùng thiết bút tại vách núi viết hai mươi bốn chữ đại tự nên biết rằng hiền đệ cũng tham dự đại hội ?Dương Đao Lập Uy? của Thiên Ưng giáo. Ba người chúng ta tìm không ra tung tích gì của ngũ đệ trên đảo, nên đến tìm Bạch Qui Thọ tra hỏi, y nói năng hỗn hào, nên hai bên động thủ, bị ta đánh cho một chưởng. Chẳng bao lâu sau người phái Côn Lôn cũng tìm đến, nhưng thua to, bị Thiên Ưng giáo giết mấy hai người. Mười năm qua thù oán hai bên mỗi ngày một sâu.
Trương Thúy Sơn rất là ân hận, nói:
– Chỉ vì chuyện vợ chồng tiểu đệ, khiến cho bao nhiêu người vô tội các môn phái gặp nạn, làm sao lòng em an được? Tiểu đệ về bẩm rõ sư tôn xong, sẽ đến các môn phái giải thích những hiểu lầm, chịu người ta trách cứ.
Du Liên Châu thở dài một tiếng nói:
– Cái đó do trời xui đất khiến chứ không thể trách chú được. Hôm đó sư phụ sai ta và thất đệ đi đến Lâm An, bảo hộ Long Môn tiêu cục, nhưng khi vừa đến Giang Tây, gặp phải một chuyện đại bất bình, hai người bọn ta không thể nào không ra tay, khiến cho bị trễ mất mấy ngày, cứu được mươi người vô tội, khi đến Lâm An, vụ án Long Môn tiêu cục đã xảy ra rồi.
Nói cho đúng ra, nếu chỉ vì việc của hai vợ chồng ngũ đệ, thì cũng chỉ có Côn Lôn, Võ Đương và Thiên Ưng giáo có chuyện rắc rối thôi, thế nhưng vì Thiên Ưng giáo muốn cướp thanh đao Đồ Long nên trước sau không nói gì đến cái tên Tạ Tốn cả. Thành thử cả bang Cự Kình, phái Hải Sa, Thần Quyền môn các môn phái bang hội vì món nợ máu của bang chủ, chưởng môn cũng đều đổ riệt cho Thiên Ưng giáo. Thiên Ưng giáo vì thế trở thành mục tiêu chung của các giới giang hồ.
Trương Thúy Sơn nói:
– Chẳng biết thanh đao Đồ Long kia có cái gì ghê gớm mà nhạc phụ của em phải thay người khác chịu cái tai nạn này?
Du Liên Châu đáp:
– Ta chưa từng gặp mặt lệnh nhạc phụ bao giờ, nhưng ông ta thống lãnh Thiên Ưng giáo độc kháng quần hùng, khí khái đó, phách lực đó, dù có phải đối địch với ông ta, nhưng ai ai cũng phải khâm phục.
Trương Thúy Sơn nói:
– Thế còn phái Thiếu Lâm, Nga Mi, Không Động có tham dự đại hội Vương Bàn Sơn đảo đâu, sao cũng kết oán cừu với Thiên Ưng giáo?
Du Liên Châu nói:
– Chuyện đó thì lại vì nghĩa huynh của chú là Tạ Tốn mà ra. Thiên Ưng giáo vì muốn chiếm thanh đao Đồ Long, hai ba lần đưa thuyền ra biển đi khắp các đảo ngoài khơi để tìm tung tích của Tạ Tốn. Thế nhưng bao giấy làm sao chứa được đốm lửa, dù cho Bạch Qui Thọ có giữ mồm giữ miệng tới đâu, cái tin đó cũng bị tiết lộ ra ngoài. Nghĩa huynh của ngũ đệ trước đây mạo danh Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn, trên khắp Giang Nam, Giang Bắc gây ra hơn ba mươi vụ đại án, những người thành danh trong các môn phái chết dưới tay y không biết bao nhiêu mà kể, không biết chuyện đó chú đã biết chưa?
Trương Thúy Sơn lặng lẽ gật đầu, hạ giọng nói:
– Mọi người rồi cũng biết là chính anh ta làm.
Du Liên Châu nói:
– Tại mỗi vụ án, y đều viết trên tường một hàng chữ lớn ?Kẻ giết người là Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn?. Khi đó anh em ta theo lệnh sư phụ, từng xuống núi tra xét, lúc đó quả thực chẳng biết hung thủ là ai, còn Thành Côn trước sau không lộ diện. Thế nhưng khi Thiên Ưng giáo đi tìm tung tích Tạ Tốn bị tiết lộ ra rồi, những người trí mưu trong các môn phái đều nghĩ ngay ra, Tạ Tốn vốn là đệ tử truyền nhân duy nhất của Thành Côn, sau này không biết vì duyên cớ gì bất hòa, trở mặt thành thù nghịch, nên kẻ mạo danh Thành Côn giết người kia, không ai khác hơn là Tạ Tốn. Chú thử nghĩ xem Tạ Tốn giết biết bao nhiêu người, liên hệ lớn lao biết là chừng nào? Chỉ riêng phái Thiếu Lâm thì Không Kiến đại sư chết dưới quyền của y thì đã bao nhiêu người muốn kiếm giết y cho thỏa nguyện?
Trương Thúy Sơn thần sắc thê thảm, nói:
– Nghĩa huynh của em tuy đã hối điều quấy mà quay sang làm diều lành, nhưng hai bàn tay đã nhuốm máu của biết bao nhiêu người rồi ? than ôi, nhị ca, lòng em rối như tơ vò, chẳng biết phải làm sao bây giờ.
Du Liên Châu nói:
– Anh em chúng ta thì vì ngũ đệ mà đi tìm Thiên Ưng giáo, phái Côn Lôn thì vì Cao Tưởng hai người mà tìm Thiên Ưng giáo, Cự Kình bang vì bang chủ chết thảm mà tìm Thiên Ưng giáo, ngoài phái Thiếu Lâm lại còn bao nhiêu nhân vật bạch đạo, hắc đạo, vì muốn biết tung tích của Tạ Tốn nên cũng đi tìm Thiên Ưng giáo. Trong những năm qua, hai bên đại chiến đã năm lần, tiểu chiến thì không biết bao nhiêu. Tuy mỗi lần đánh lớn, Thiên Ưng giáo đều bị vào thế lép, nhưng nhạc phụ của chú bị quần hùng vây đánh thế mà vẫn đứng vững không đổ, quả thực là một người kiệt xuất. Nói cho đúng, các danh môn chính phái như Võ Đương, Thiếu Lâm, Nga Mi vì sự tình chưa rõ ràng, trong đó còn rất nhiều việc chưa giải thích được, xem ra Thiên Ưng giáo không phải là đầu mối mọi tội lỗi, nên khi ra tay vẫn không hết sức, còn các môn phái khác thì nhất quyết sống mái mất còn. Lần này chúng ta nghe tin Thiên Thị Đường Lý đường chủ của Thiên Ưng giáo dong thuyền ra khơi đi tìm Tạ Tốn, nên bí mật đuổi theo, mong tìm ra được chút đầu dây mối nhợ. Nào ngờ Lý đường chủ thấy tình hình bất ổn, không chịu để cho bọn ta đi theo sau, thế là phái Côn Lôn ra tay động thủ với họ. Nếu như vợ chồng chú không kịp thời đi bè tới nơi, hai bên chắc sẽ thiệt hại rất nhiều hảo thủ.
Trương Thúy Sơn lặng yên, nhìn kỹ sư ca, thấy chàng hai bên tóc mai đã lấm tấm bạc, trên trán đã thêm nhiều nếp nhăn, nói:
– Nhị ca, mười năm qua, anh chắc khó nhọc rất nhiều. Em may mắn còn sống về được đây, may mắn được gặp lại sư ca, em … em …
Du Liên Châu thấy chàng mắt đỏ hoe, nói:
– Võ Đương thất hiệp trùng phùng gặp gỡ, quả thật là một chuyện hết sức vui mừng. Từ khi tam đệ bị thương, chú lại mất tích, trên giang hồ đã đổi tên anh em mình thành Võ Đương ngũ hiệp, ha ha, hôm nay thì thất hiệp lại trùng chấn thanh uy ?
Chợt nghĩ lại Du Đại Nham chân tay tàn phế, tuy bảy người vẫn còn đủ, nhưng muốn tất cả anh em cùng nhau hành hiệp giang hồ như xưa không còn được nữa, lòng chàng không khỏi quặn đau.
?Thuyền đi tiếp về phương nam thêm mấy mươi ngày thì đến cửa sông Trường Giang, cả bọn đổi qua thuyền đi sông ngược dòng lên. Vợ chồng Trương Thúy Sơn thay đổi y phục, trông chẳng khác gì một đôi ngọc bích đặt trên dao đài[2], phong tư chẳng khác ngày xưa. Vô Kỵ cũng thay quần áo mới, tóc buộc dải lụa đỏ thành hai cái bím, trông thật tươi tắn dễ thương.
Du Liên Châu chuyên tâm vào việc học võ, không vợ con, đối với Vô Kỵ thương yêu bội phần, nhưng vì bẩm tính nghiêm trang, trầm mặc ít nói, mặt mày lúc nào cũng lạnh lùng. Vô Kỵ biết rằng vị sư bá mặt lạnh như tiền này rất mực thương yêu mình nên mỗi lúc rảnh rang, lại sà vào hỏi sư bá chuyện này chuyện nọ. Thằng bé sinh ra nơi hoang đảo, trên lục địa chưa từng nhìn qua bao giờ nên cái gì cũng mới lạ. Du Liên Châu không lấy đó làm phiền, thường ngồi ôm thằng bé ở đầu thuyền, ngắm cảnh hai bên sông. Vô Kỵ hỏi chàng mười câu, tám câu, chàng mới vắn tắt đáp lại một câu.
Hôm ấy đến chân núi Đồng Quan, huyện Đồng Lăng, tỉnh An Huy, trời cũng đã xế chiều, chiếc thuyền đậu lại một tiểu thị trấn. Người lái đò lên bờ mua rượu thịt, Du Liên Châu với vợ chồng Trương Thúy Sơn ngồi trên thuyền pha trà nói chuyện.
Vô Kỵ đi loanh quanh ở đầu thuyền thấy trên bến có một người ăn mày già đang ngồi đùa chơi với rắn, trên cổ quấn một con rắn xanh, còn trong tay là một con rắn lớn màu đen có chấm trắng. Con rắng đen đó luồn qua lách lại, lúc thì vòng lên đầu, thoắt cái lại chui xuống lưng, thật là linh động. Vô Kỵ ở trên Băng Hỏa đảo chưa từng nhìn thấy rắn bao giờ, xem biểu diễn thật là thích thú. Người ăn mày thấy nó liền mỉm cười, vẫy tay một cái, con rắn đen liền nhảy lên, lộn một vòng, rơi xuống quấn luôn vào ngực y mấy vòng. Vô Kỵ thấy lạ, mắt chăm chăm nhìn. Người khất cái vẫy thằng bé, đưa tay ra hiệu, ý muốn nếu nó lên bờ chơi còn nhiều trò khác biểu diễn cho nó xem.
Vô Kỵ lập tức theo ván cầu đi lên, người ăn mày lấy trong lưng ra một cái bao vải, mở ra, cười nói:
– Trong này có mấy thứ hay lắm, lại đây mà xem.
Vô Kỵ hỏi:
– Cái gì thế?
Người ăn mày đáp:
– Cái này hay lắm, nhìn xem thì biết.
Vô Kỵ thò đầu vào trong bao nhìn, chỉ thấy tối mò không có gì cả. Cậu bé tiến đến gần hơn, định xem cho rõ, hai tay lão ăn mày đột nhiên lật một cái, chụp luôn cái bao lên đầu đứa trẻ. Vô Kỵ ?A? lên một tiếng, mồm đã bị gã ăn mày bịt chặt, rồi thân hình lập tức bị nhấc bổng lên.
Tiếng kêu của thằng bé từ trong bao vọng ra, tuy rất khẽ, nhưng Du Liên Châu và Trương Thúy Sơn đã nghe thấy. Hai người tuy ở trong thuyền, cách rất xa, nhưng cũng biết tiếng kêu có gì không ổn, nên cùng chạy ra đầu thuyền thấy Vô Kỵ đã bị lão ăn mày bắt cóc rồi.
Hai người vừa toan phi thân lên bờ, gã khất cái liền hung hăng quát lên:
– Muốn thằng bé sống thì đừng có động thủ.
Nói xong y xé rách áo trên lưng thằng bé, để ngay con rắn đen lên chỗ da thịt đứa trẻ. lúc đó Ân Tố Tố cũng đã chạy ra đến ngoài, thấy đứa con yêu bị bắt, vừa hốt hoảng vừa nóng ruột, toan phát xạ ngân châm. Du Liên Châu đưa tay ngăn lại, quát lên:
– Không được đâu.
Chàng nhận ra con rắn đen này tên là ?Tất Lý Tinh?, là một độc xà nổi tiếng, thân càng đen, độc tính càng ghê gớm. Con rắn thân hình đen bóng, những đốm trắng lại lấp lánh, há to mồm nhe bốn chiếc răng nhọn, nhắm ngay chỗ thịt trắng mềm của Vô Kỵ trên lưng. Con rắn chỉ ngoặp một cái, khoảnh khắc là Vô Kỵ sẽ chết ngay, dẫu có đánh chết gã ăn mày lấy được thuốc giải, thì cũng không cứu kịp. Du Liên Châu không động thanh sắc, nói:
– Tôn giá tại sao lại gây chuyện cho đứa trẻ, chẳng hay có ý định gì?
Người ăn mày già đáp:
– Nhị hiệp sai người kéo neo nhổ thuyền, đậu cách bờ năm sáu trượng, lúc đó tại hạ mới nói chuyện.
Du Liên Châu biết y sợ mình bất ngờ nhảy lên bờ, tuy rằng thuyền đã ra ngoài rồi việc cứu người càng khó khăn hơn, nhưng Vô Kỵ đang bị y hiếp chế, đành phải nghe lời rồi tính sau. Chàng cầm dây buộc neo giựt nhẹ một cái, chiếc neo năm sáu chục cân theo tay mà từ dưới nước bay vọt lên.
Gã ăn mày thấy Du Liên Châu chỉ lắc nhẹ một cái, chiếc neo sắt đã nhảy lên, công lực tinh thuần trên đời ít thấy, mặt bỗng biến sắc. Trương Thúy Sơn cầm chiếc sào dài, chống lên bờ, chiếc thuyền từ từ đi ra giữa sông. Gã ăn mày kêu lên:
– Đi xa thêm chút nữa.
Trương Thúy Sơn bực mình hỏi lại:
– Thế này còn chưa đủ năm sáu trượng hay sao?
Gã ăn mày mỉm cười:
– Du nhị hiệp kéo chiếc neo lợi hại như thế, dù có năm sáu trượng, tại hạ vẫn chưa yên tâm.
Trương Thúy Sơn chỉ còn có nước đẩy thuyền đi xa thêm hơn một trượng nữa. Du Liên Châu ôm quyền hỏi:
– Thỉnh giáo tôn tính đại danh.
Tên ăn mày đáp:
– Tại hạ là kẻ vô danh tiểu tốt trong Cái Bang, không dám nói tiện danh ra để làm bẩn tai Du nhị hiệp.
Du Liên Châu thấy y đeo trên lưng sáu cái túi vải, nghĩ thầm đây là đệ tử sáu túi của Cái Bang, vai vế cũng không kém, nhưng sao lại ra tay ti tiện như thế? Huống chi Cái Bang xưa nay hành sự nhân nghĩa, bang chủ của họ là Sử Hỏa Long là một hán tử oai hùng, trên chốn giang hồ rất nổi danh, việc này quả là kỳ lạ.
Ân Tố Tố bỗng quát lên:
– Vu Sơn Bang ở Đông Xuyên đầu nhập Cái Bang rồi sao? Ta xem trong Cái Bang không có các hạ đâu.
Gã ăn mày chỉ hừ một tiếng nhưng không trả lời. Ân Tố Tố lại nói:
– Hạ Lão Tam, ngươi định làm trò quỉ gì? Nếu chỉ đụng đến một cái lông con ta, ta sẽ chặt Mai Thạch Kiên nhà các ngươi ra thành mười bảy, mười tám miếng.
Người khất cái giật mình, nói:
– Ân cô nương quả nhiên mắt tinh thật, nhận ra Hạ Lão Tam này. Chính tại hạ nhận lệnh của Mai bang chủ đến đây nghênh đón công tử.
Ân Tố Tố giận dữ nói:
– Mau bỏ con rắn độc ra. Cái bang Vu Sơn nhỏ bé của ngươi thật là lớn mật, dám gây sự với Thiên Ưng giáo.
Hạ Lão Tam nói:
– Chỉ xin Ân cô nương nói một câu, Hạ Lão Tam này sẽ lập tức trả công tử về, Mai bang chủ sẽ đích thân đến tận cửa tạ tội.
Ân Tố Tố hỏi:
– Câu gì?
Hạ Lão Tam đáp:
– Công tử độc nhất của Mai bang chủ chết dưới tay Tạ Tốn, Ân cô nương chắc đã nghe rồi. Mai bang chủ cầu khẩn Trương ngũ hiệp và Ân cô nương … ấy chết, tiểu nhân lỡ lời, phải gọi là Trương phu nhân mới phải, cầu khẩn hai vị ra ân, cho biết tung tích của Tạ Tốn, toàn thể tệ bang từ trên xuống dưới, đều cảm cái đại đức đó.
Ân Tố Tố nhướng lông mày, nói:
– Bọn ta không biết.
Hạ Lão Tam nói:
– Vậy xin hai vị nghe ngóng dò hỏi dùm. Chúng tôi sẽ hầu hạ công tử chu đáo, đợi khi nào hai vị có tin của Tạ Tốn đến cho hay, Mai bang chủ sẽ đích thân đưa công tử về.
Ân Tố Tố thấy mấy chiếc răng con rắn bất quá chỉ cách da thịt con mình chừng vài tấc, trong lòng khích động, đã toan nói ra chuyện Băng Hỏa đảo, quay sang nhìn trượng phu, thấy mặt chồng đầy vẻ cương nghị. Nàng làm vợ Trương Thúy Sơn đã mười năm, biết chàng là người rất trọng nghĩa khí, nếu mình vì đứa con yêu mà tiết lộ nơi ở của Tạ Tốn, nhân đó nghĩa huynh chết ở tay người, e rằng tình nghĩa vợ chồng khó mà toàn vẹn, nên cố nhịn không dám nói.
Trương Thúy Sơn lớn tiếng nói:
– Được rồi, ngươi đem con ta đi đâu thì đem. Đại trượng phu lẽ nào bán rẻ bạn bè? Ngươi coi Võ Đương thất hiệp nhẹ thể quá.
Hạ Lão Tam ngạc nhiên, y vẫn nghĩ nếu bắt được Vô Kỵ, vợ chồng Trương Thúy Sơn không thể nào không thổ lộ tung tích Tạ Tốn, nào ngờ Trương Thúy Sơn đáp lại bằng những lời chém đinh chặt sắt, nhất thời chưa biết tính sao, nói:
– Du nhị hiệp, tội của tên ác tặc Tạ Tốn to bằng non, phái Võ Đương chủ trì công đạo, người trong võ lâm ai nấy đều kính ngưỡng, xin nhị hiệp khuyên hai vị một lời.
Du Liên Châu đáp:
– Việc này xử trí thế nào, sư huynh đệ tại hạ định về núi Võ Đương, bẩm rõ cho ân sư biết, để xin lão nhân gia dạy bảo. Đại hội anh hùng ở Hoàng Hạc Lâu tại Võ Xương, xin mời quí bang Mai bang chủ và các hạ cùng đến dự, lúc đó trái phải ngay cong mọi người sẽ biết. Xin hãy thả thằng bé ra đi.
Chàng ở cách bờ sông phải đến sáu, bảy trượng, nói mấy câu đó tuyệt nhiên không đề khí, không cao giọng, nhưng Hạ Lão Tam nghe thấy từng câu, từng chữ đều rõ ràng, chẳng khác nào hai người đang ngồi bên nhau nói chuyện. Y trong lòng kính phục lắm, nghĩ thầm: ?Võ Đương thất hiệp uy chấn thiên hạ, quả nhiên danh bất hư truyền. Lần này bọn mình đành dốc túi đánh một chuyến, chứ bang Vu Sơn nhỏ bé làm sao chọi lại được với phái Võ Đương và Thiên Ưng giáo? Thế nhưng cái thù giết con của Mai bang chủ lẽ nào không báo”?
Bèn khom lưng nói:
– Nếu đã thế, tiểu nhân chỉ còn có nước đắc tội, đưa Trương công tử cùng về Đông Xuyên.
Bất thần, Ân Tố Tố đưa tay đánh mạnh vào lưng một thủy thủ đang ngồi trên mạn thuyền, tiếp theo giơ chân đá một tên thủy thủ khác. Hai thuyền phu kêu lên oai oái, chỉ nghe tũm tũm hai tiếng đều lộn cổ xuống sông, nước văng tung tóe. Ân Tố Tố lại kêu lên:
– Ối chao, ôi chao, ngũ ca, sao chàng đánh em?
Nói rồi đứng giữa thuyền vừa kêu, vừa nhảy. Du Liên Châu và Trương Thúy Sơn ngạc nhiên, không hiểu sao nàng lại làm như thế. Hạ Lão Tam trố mắt nhìn chuyện đột biến, ngẩn ngơ lạ lùng vô cùng. Du Liên Châu chỉ chớp mắt đã hiểu ngay, mắt thấy Hạ Lão Tam trợn mắt há mồm, lập tức rút trường kiếm, vận kình ném tới. Chỉ nghe soẹt một tiếng, thanh kiếm bay vụt ra, chém đứt đầu con độc xà ?Tất Lý Tinh?, ngay cả bốn ngón tay của Hạ Lão Tam đang nắm con rắn cũng đứt lìa rơi xuống.
Ngay khi trường kiếm của Du Liên Châu rút ra khỏi vỏ, Trương Thúy Sơn đã chộp một sợi dây buộc buồm đang lơ lửng, hai chân đạp xuống thuyền một cái, người chàng bay vèo qua. Chàng chỉ chậm hơn thanh kiếm của Du Liên Châu một chút xíu, còn trên không chân chưa chạm đất đã phóng mình tới, tay phải ôm lấy Vô Kỵ, tay trái tung ra một chưởng, đánh Hạ Lão Tam lăn đi mấy vòng.
Hạ Lão Tam nằm dãy dụa trên mặt đất không đứng lên nổi. Hai tên thủy thủ cố bơi vào bờ, không hiểu sao Ân Tố Tố bỗng dưng nổi giận nên không dám trở về thuyền. Ân Tố Tố cười khanh khách nói:
– Xin mời hai vị đại ca lên thuyền đi, vừa rồi tôi đắc tội, xin tặng cho mỗi người một lạng bạc để quí vị đi uống rượu.
Chiếc thuyền đi ngược dòng, lại thêm trái gió nên thật chậm. Trương Thúy Sơn xa cách sư phụ và các anh em đồng môn đã mười năm, nóng lòng gặp lại, nên khi đến An Khánh chàng muốn bỏ thuyền đi ngựa. Du Liên Châu nói:
– Ngũ đệ, bọn mình ngồi thuyền tốt hơn, tuy có chậm vài ngày, nhưng ngồi trên thuyền, ít bị rắc rối. Hôm nay trên chốn giang hồ không biết bao nhiêu người muốn biết chỗ ở của nghĩa huynh hiền đệ.
Ân Tố Tố đáp:
– Chúng em đi chung với nhị bá, không lẽ còn có người nào dám cản trở đại giá của Du nhị hiệp?
Du Liên Châu đáp:
– Cả bảy anh em chúng ta liên thủ, hoặc giả không ai dám ngăn trở, chứ chỉ có ta và ngũ đệ hai người, làm sao địch lại bao nhiêu là cao thủ cùng kéo đến? Vả lại chuyện này mình chỉ mong được mọi người bãi chiến, đâu có mong gì kết thêm oán cừu.
Trương Thúy Sơn gật đầu đáp:
– Nhị ca nói đúng lắm.
Thuyền đi được mấy ngày thì đến Võ Huyệt là biên giới tỉnh Hồ Bắc. Chiều hôm đó đến Phú Trì Khẩu, người lái thuyền đậu lại, chuẩn bị nghỉ đêm. Du Liên Châu bỗng nghe thấy trên bờ có tiếng ngựa hí, ngó ra ngoài khoang, thấy hai con ngựa đang quay đầu, chạy về hướng thị trấn. Tuy chỉ thấy sau lưng người ngồi trên ngựa, nhưng thân pháp nhanh nhẹn, hiển nhiên là người biết võ nghệ.
Chàng quay lại nói với Trương Thúy Sơn:
– Ở nơi đây e rằng lại gặp chuyện thị phi, bọn mình đi suốt đêm là hơn.
Trương Thúy Sơn nói:
– Vâng.
Trong lòng chàng hết sức cảm kích. Võ Đương thất hiệp từ khi hạ sơn hành đạo đến nay, võ nghệ cao cường, hành sự ngay thẳng, chỉ có người ngoài nghe tiếng trốn tránh chứ chưa từng phải kiêng mặt ai bao giờ. Mấy năm gần đây uy danh Du Liên Châu thật là vang dội, đến như các chưởng môn danh môn chính phái như Côn Lôn, Không Động cũng không bằng, vậy mà lần này mới thấy bóng dáng sau lưng của hai kẻ vô danh tiểu tốt, đã không muốn ở lại Phú Trì Khẩu, cũng chỉ vì lo lắng cho ba người của gia đình sư đệ mà thôi.
Du Liên Châu gọi người chủ thuyền, thưởng cho y ba lạng bạc, ra lệnh cho y đi suốt đêm. Người lái đò tuy đã mỏi mệt, nhưng ba lạng bạc bằng tiền kiếm được trong mấy tháng, nên hết sức vui mừng, lập tức nhổ neo đi ngay.
Đêm hôm đó trăng thanh gió mát, Vô Kỵ đã đi ngủ rồi, Du Liên Châu cùng hai vơ chồng Trương Thúy Sơn ngồi ở đầu thuyền uống rượu thưởng trăng, nhìn ra mặt sông mênh mông, trong lòng thật khoan khoái.
Trương Thúy Sơn nói:
– Đại thọ trăm tuổi của ân sư thoáng cái đã đến nơi, tiểu đệ may mắn được về dự một thịnh sự hiếm có của võ lâm, quả thực ông trời đãi mình cũng không bạc.
Ân Tố Tố tiếp lời:
– Tiếc rằng mình vội quá, bọn mình không kịp đi tìm một lễ vật thật vừa ý để kính biếu lão nhân gia.
Du Liên Châu đáp:
– Đệ muội, cô có biết ân sư của ta yêu ai nhất trong bảy người học trò không?
Ân Tố Tố cười:
– Đệ tử đắc ý nhất của lão nhân gia hẳn phải là nhị bá rồi.
Du Liên Châu cười đáp:
– Câu của cô quả không phải thực lòng, bụng nghĩ một đằng mà mồm thì nói một nẻo. Trong bảy người sư huynh đệ của ta, sư phụ ngày đêm mong nhớ, chính là ông chồng anh tuấn của đệ muội đó.
Ân Tố Tố tuy trong lòng thật mừng, nhưng vẫn lắc đầu:
– Em không tin.
Du Liên Châu đáp:
– Bảy anh em ta ai cũng có sở trường. Đại sư ca thâm thông dịch lý, giản dị thanh cao, tam sư đệ tinh minh chu đáo, sư phụ giao việc gì không bao giờ để lỡ, tứ sư đệ mưu trí hơn người, lục sư đệ kiếm thuật tinh thông, thất sư đệ mấy năm gần đây chuyên luyện ngoại môn võ công, về sau sẽ nội ngoại kiêm tu, cương nhu hợp nhất, ngoài y ra không còn ai ?
Ân Tố Tố chen vào:
– Còn bản thân nhị bá thì sao?
Du Liên Châu đáp:
– Ta tư chất ngu lỗ, không có sở trường gì cả, miễn cưỡng mà nói thì ta là người phải cố công nhiều nhất luyện tập bản môn võ công thầy truyền dạy cho.
Ân Tố Tố vỗ tay cười:
– Thì ra nhị bá là người giỏi nhất trong Võ Đương thất hiệp, nhưng vì khiêm tốn nên không nói ra đấy thôi.
Trương Thúy Sơn nói:
– Anh em chúng ta trong bảy người, đúng ra nhị sư ca võ công cao nhất. Mười năm không gặp nhau, tiểu đệ bây giờ đuổi không sao kịp được. Than ôi, không được ân sư dạy dỗ mười năm, tiểu đệ bây giờ đứng chót trong các anh em rồi.
Lời nói không khỏi có ý cảm thán. Du Liên Châu nói:
– Thế nhưng trong bảy anh em mình, văn võ toàn tài thì chỉ có một người thôi. Đệ muội, để ta nói cho cô nghe một chuyện bí mật. Năm năm trước, trong kỳ tiệc thọ ân sư chín mươi lăm tuổi, khi anh em đến chúc thọ, ân sư bỗng dưng không vui, nói: ?Trong bảy người đệ tử của ta, ngộ tính cao nhất, văn võ song toàn, chỉ có mình Thúy Sơn thôi. Ta vẫn định bụng sẽ cho y kế thừa y bát[3], ôi, tiếc rằng y phúc bạc, trong năm năm qua chết sống không biết ra sao, e rằng dữ nhiều lành ít?. Xem đấy, có phải sư phụ thương yêu ngũ đệ nhất hay không?
Ân Tố Tố mặt tươi như hoa, trong lòng vui sướng khôn cùng, còn Trương Thúy Sơn trong lòng hết sức cảm kích, nước mắt rưng rưng. Du Liên Châu nói:
– Bây giờ ngũ đệ bình yên trở về, thọ lễ dâng lên ân sư không có gì to lớn hơn thế nữa.
Vừa nói tới đây, bỗng thấy trên bờ sông có tiếng vó ngựa vọng tới. Tiếng vó ngựa từ đông sang tây, trong đêm vắng nghe rõ ràng có bốn kỵ sĩ. Ba người đưa mắt nhìn nhau, nghĩ thầm những con ngựa này suốt đêm chạy vội như thế, ắt có liên quan gì đến mình. Ba người không muốn chuyện rắc rối, nhưng đâu phải là kẻ nhát gan, thành thử không ai đề cập đến.
Du Liên Châu nói:
– Kỳ này khi ta hạ sơn, sư phụ cũng vừa bế quan tĩnh tu. Mong rằng lúc mình lên núi, lão nhân gia đã khai quan rồi.
Ân Tố Tố nói:
– Cha của tiểu muội trước đây có nói với em rằng, trong đời chỉ khâm phục có hai người thôi, một người là Dương giáo chủ của Minh Giáo, ông ta đã qua đời rồi, người kia là tôn sư Trương chân nhân. Ngay cả bốn đại cao tăng của phái Thiếu Lâm ?Kiến Văn Trí Tính?, cha em cũng không có gì bội phục cả. Trương chân nhân năm nay đã tròn trăm tuổi, tu trì thâm hậu đời nay không ai sánh kịp. Bây giờ lại còn bế quan, chắc là để tu luyện thuật trường sinh bất lão chăng?
Du Liên Châu đáp:
– Không phải, ân sư muốn suy nghĩ về võ công.
Ân Tố Tố hơi kinh ngạc, hỏi:
– Võ công của lão nhân gia đã cao siêu không biết đâu mà lường rồi, còn nghiên cứu thêm gì nữa? Không lẽ trên đời còn có người nào là địch thủ của người nữa ư?
Du Liên Châu nói:
– Từ năm ân sư chín mươi lăm tuổi trở đi, năm nào cũng bế quan chín tháng. Lão nhân gia nói rằng, võ công của phái Võ Đương, chủ yếu là từ bộ Cửu Dương Chân Kinh. Thế nhưng năm xưa khi ân sư được Giác Viễn tổ sư truyền thụ, tuổi còn quá nhỏ, lại không biết chút võ công nào. Giác Viễn tổ sư cũng không có ý dạy, chỉ nhiệm ý đọc cho ân sư nghe, thành ra võ công bản môn vẫn còn có khuyết điểm. Bộ Cửu Dương Chân Kinh này nghe Giác Viễn tổ sư nói là do Đạt Ma tổ sư truyền lại, nhưng ân sư nói là người càng suy nghĩ, càng thấy chuyện đó không phải là thật.
Một là những điều bí áo trong chân kinh so với võ công của phái Thiếu Lâm khác nhau xa, xem ra gần với Đạo gia võ học của Trung Nguyên hơn; hai là bộ Cửu Dương Chân Kinh này không viết bằng chữ Phạn, mà bằng tiếng Trung Quốc, viết xen kẽ trong các hàng chữ Phạn trong cuốn kinh Lăng Già. Thử nghĩ Đạt Ma tổ sư tuy diệu ngộ Thiền lý, võ học uyên thâm, nhưng ông ta từ Thiên Trúc qua, chưa chắc đã tinh thông văn tự Trung Quốc. Một bộ võ kinh quan trọng đến như thế, sao không viết trên giấy thành sách, mà lại viết giữa hai hàng chữ của một bộ kinh?
Trương Thúy Sơn gật đầu xem là đúng, hỏi thêm:
– Vậy ân sư suy nghĩ về đạo lý trong này như thế nào?
Du Liên Châu đáp:
– Ân sư cũng nghĩ không ra, người cho rằng có lẽ do một vị cao tăng Thiếu Lâm đời sau sáng tác, nhưng giả thác tên của Đạt Ma tổ sư. Ân sư vẫn nghĩ nếu như sự hiểu biết về cuốn Cửu Dương Chân Kinh này không hoàn toàn, thì sao mình không tự sáng chế ra? Mỗi năm sư phụ bế quan suy nghĩ, cốt để mở ra một phái võ học mới, khác hẳn với võ công các môn phái đang truyền hiện thời.
Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố nghe xong, cả hai đều chắc lưỡi ca ngợi. Du Liên Châu nói tiếp:
– Năm xưa khi nghe Giác Viễn tổ sư truyền thụ Cửu Dương Chân Kinh chỉ có ba người, một là ân sư, một người nữa là Vô Sắc đại sư của phái Thiếu Lâm, còn một người đàn bà, chính là tổ sư khai sáng ra phái Nga Mi Quách Tương Quách nữ hiệp.
Ân Tố Tố nói:
– Tiểu muội từng nghe gia gia em nói rằng, Quách nữ hiệp là một người thân thế rất lớn, cha của bà ấy là Quách Tĩnh, Quách đại hiệp, mẹ của bà ấy là bang chủ Cái Bang Hoàng Dung, khi thành Tương Dương thất hãm, hai ông bà Quách đại hiệp đều tuẫn nạn.
Du Liên Châu đáp:
– Đúng vậy. Ân sư chúng tôi trước đây từng có duyên gặp được hai ông bà một lần trên đỉnh Hoa Sơn, mỗi khi nhắc đến nhân phong hiệp cốt của hai vị, tấm lòng vì nước vì dân, sư phụ thường khuyên anh em chúng tôi phải noi gương vợ chồng Quách đại hiệp.
Chàng lặng người hồi lâu, nói tiếp:
– Năm xưa ba người được truyền Cửu Dương Chân Kinh, ngộ tính mỗi người một khác, căn bản cũng lại càng cách biệt. Nếu xét về võ công thì Vô Sắc đại sư cao hơn cả, Quách nữ hiệp là con gái của Quách đại hiệp và Hoàng bang chủ, sở học rộng nhất, còn ân sư lúc đó hoàn toàn không có căn cơ gì, nhưng cũng chính vì thế, sở học lại tinh thuần hơn hết. Trong ba phái Thiếu Lâm, Võ Đương, Nga Mi thì một phái được chữ ?cao?, một phái được chữ ?bác?, còn một phái được chữ ?thuần?. Ba phái mỗi đằng đều có sở trường, nhưng cũng phải nói là cũng có sở đoản.
Ân Tố Tố nói:
– Thế thì vị Giác Viễn tổ sư võ công chắc ghê gớm lắm, trăm năm không có được một người, phải không?
Du Liên Châu đáp:
– Không phải, Giác Viễn tổ sư không biết võ công. Ông ta ở trong chùa Thiếu Lâm giữ Tàng Kinh Các, chỉ thích sách thành mê, không kinh nào không đọc, không kinh nào không thuộc lòng. Ông ta vô tình đọc được Cửu Dương Chân Kinh, cũng chẳng khác gì tụng kinh Kim Cương, kinh Pháp Hoa vậy thôi. Ông nhớ trong bụng, nhưng những điều võ học bác đại tinh thâm trong đó, tuy cũng lãnh ngộ nhưng chỉ luyện nội công, còn võ thuật hoàn toàn không biết gì cả.
Chàng bèn kể lại chuyện Cửu Dương Chân Kinh thất lạc ra sao, và những chuyện chưa hề ai nói tới kể cho Ân Tố Tố nghe. Chuyện đó Trương Thúy Sơn đã từng nghe sư phụ nói qua rồi, nhưng Ân Tố Tố lần đầu được nghe, rất hứng thú, nói:
– Hóa ra đời trước của phái Nga Mi cùng với phái Võ Đương có liên quan sâu đậm đến thế. Sao vị Quách Tương Quách nữ hiệp không lấy Trương chân nhân nhỉ?
Du Liên Châu đáp:
– Ân sư và Quách nữ hiệp chia tay dưới chân núi Thiếu Thất rồi, về sau không gặp lại nữa. Ân sư nói, Quách nữ hiệp trong lòng in sâu một bóng hình, chính là Thần Điêu đại hiệp Dương Quá, người ngoài thành Tương Dương dùng đá ném chết Đại Hãn Mông Cổ. Quách nữ hiệp đi khắp thiên hạ nhưng tìm không ra Dương đại hiệp, đến năm bốn mươi tuổi bỗng nhiên đại triệt đại ngộ, xuất gia làm ni cô, về sau khái sáng phái Nga Mi.
Ân Tố Tố kêu ?A? một tiếng, thương thầm cho Quách Tương, đưa mắt nhìn Trương Thúy Sơn. Trương Thúy Sơn lúc ấy cũng liếc nhìn Ân Tố Tố, bốn mắt gặp nhau, đều nghĩ thầm: ?Hai người mình trên trời dưới đất, mãi mãi không xa nhau, so với vị Quách nữ hiệp khai sáng phái Nga Mi kia, thật may mắn hơn nhiều?.
Du Liên Châu bình thường trầm mặc ít nói, có khi mấy ngày không nói một câu, nhưng từ khi gặp lại Trương Thúy Sơn sau nhiều năm xa cách, vui vẻ khác thường, cách ăn nói trở lại sắc sảo. Chàng ở gần Ân Tố Tố mươi ngày, biết nàng bản tính không phải là người xấu, chỉ có điều gần mực thì đen, gần đèn thì sáng, từ thuở còn thơ đã tai nghe mắt thấy toàn chuyện tà ác, cho nên thiện ác không phân, nhiễm cái tính thích giết người. Từ khi nàng làm vợ Trương Thúy Sơn mười năm nay, khí chất đã biến hẳn, nên những ác cảm khi mới gặp cũng dần dần tiêu trừ, thấy nàng tính tình chân thật, so với bọn danh môn chính phái tự cao tự đại gàn dở còn có phần thẳng thắn hơn.
Lúc ấy bỗng nghe thấy tiếng chân ngựa vang lên từ hướng đông truyền tới, chẳng mấy chốc đã vượt ngang hông thuyền đi về hướng tây. Trương Thúy Sơn làm như không nghe thấy, nói:
– Nhị ca, nếu như sư phụ mời các cao thủ của hai phái Thiếu Lâm, Nga Mi cùng nghiên cứu, lấy sở trường của người bổ túc cho sở đoản, cả ba phái võ công sẽ cùng đại tiến.
Du Liên Châu vỗ đùi một cái, nói:
– Đúng đấy, sư phụ nói chú ngày sau sẽ thừa thụ y bát môn hộ, quả thực không sai chút nào.
Trương Thúy Sơn nói:
– Ân sư chỉ vì tiểu đệ không có ở bên cạnh, cho nên lúc nào cũng nhớ mong. Kẽ lãng tử đi xa không về, trong lòng người mẹ hiền, lại coi hơn đứa con hiếu hạnh ở ngay bên cạnh. Thực sự tiểu đệ tài năng lúc này, dĩ nhiên so với đại ca, nhị ca, tứ ca không bằng đã đành, mà ngay cả lục đệ, thất đệ so với tiểu đệ cũng còn hơn nhiều.
Du Liên Châu lắc đầu:
– Không hẳn thế. Nếu lúc này lấy võ công mà luận, dĩ nhiên chú không bằng anh. Thế nhưng truyền nhân y bát của ân sư, là người mang trọng nhiệm làm sáng danh võ học. Ân sư thường nói rằng, thiên hạ lớn lao như thế, chuyện vinh hay nhục của phái Võ Đương nào có đáng gì? Thế nhưng nếu tinh cứu áo bí của võ học, tuyển chọn truyền nhân cho kỹ càng, trước là để võ công của hạng người chính nhân quân tử kẻ tà ác không theo kịp được, kế đến là kết hợp nghĩa sĩ trong thiên hạ, khu trừ Thát Lỗ, lấy lại giang sơn, đó mới là làm tròn cái bổn phận của kẻ học võ chúng ta. Vì thế y bát truyền nhân của ân sư, trước là tâm thuật, sau là ngộ tính. Nói đến tâm thuật, anh em ta bảy người không khác nhau bao nhiêu, nhưng ngộ tính thì em là cao hơn hết.
Trương Thúy Sơn xua tay nói:
– Cái đó bởi vì ân sư nghĩ đến tiểu đệ, nên nhất thời hứng đến mà nói thế. Nếu quả thực ân sư có ý đó chăng nữa, tiểu đệ cũng vạn vạn không dám nhận.
Du Liên Châu mỉm cười, nói:
– Đệ muội, cô vào bảo vệ cháu Vô Kỵ, đừng để nó kinh hoảng, bên ngoài này đã có ta và ngũ đệ lo liệu.
Ân Tố Tố đưa mắt nhìn quanh, thấy bốn bề tĩnh mịch tuyệt nhiên không có gì khác lạ, nghĩ thầm không biết nhị ca có hoa mắt không. Bỗng dưng Du Liên Châu lớn tiếng nói:
– Du nhị và Trương ngũ của núi Võ Đương đi ngang qua quí địa, xin thứ tội lễ thứ không chu toàn. Vị bằng hữu nào đó nếu có hứng, xin mời lên thuyền uống một chén rượu được chăng?
Câu nói của chàng vừa dứt, thấy trong đám lau lách có tiếng mái giầm khua, sáu chiếc thuyền nhỏ tiến ra thành hình chữ nhất, chặn ngang mặt sông. Từ một chiếc thuyền có tiếng rít, bắn ra một mũi hưởng tiễn[4], trong những bụi cây thấp bờ sông phía nam tiến ra chừng mươi hán tử nai nịt gọn gàng, mặc toàn màu đen, tay cầm binh khí, trên mặt bịt khăn mỏng cũng màu đen, chỉ để lộ đôi mắt.
Ân Tố Tố trong lòng thật bội phục: ?Vị nhị bá này quả thực danh bất hư truyền, tài ba ghê gớm thật?. Nàng thấy địch nhân quá đông nên vội vàng vào trong khoang thì Vô Kỵ đã sợ hãi tỉnh dậy. Ân Tố Tố mặc quần áo cho con, hạ giọng nói:
– Cục cưng của mẹ ơi, đừng có sợ.
Du Liên Châu lại nói:
– Trước mặt là vị bằng hữu nào đó, Võ Đương Du nhị, Trương ngũ có lời hỏi thăm.
Thế nhưng sáu chiếc thuyền chỉ có người chèo phía sau, không thấy ai khác, cũng không ai trả lời.
Du Liên Châu đột nhiên tỉnh ngộ, kêu lên:
– Chẳng lành rồi.
Chàng lắc mình phóng ngay xuống nước. Du Liên Châu từ bé sống ở Giang Nam nên bơi lội rất giỏi, vừa xuống nước thấy bốn người tay cầm dùi sắt, đang lặn dưới nước bơi tới toan đục đáy thuyền, để bắt sống bốn người.
Chàng nép vào mạn thuyền, đợi họ bơi tới gần, hai tay tung ra điểm trúng huyệt đạo của hai người, tiếp theo giơ chân đá vào hông một người khác, điểm huyệt ?Chí Thất?. Người thứ tư kinh hoảng toan chạy, Du Liên Châu vung tay trái ra, nắm được cổ chân y, ném vọt lên trên thuyền. Ba người kia bị điểm huyệt nếu không cứu ngay ắt sẽ chết đuối nên chàng cầm từng người một ném lên xong mới trèo lên.
Người thứ tư kia bị ném lên sàn thuyền liền lăn một vòng, tung mình nhảy lên, giơ dùi đâm vào ngực Trương Thúy Sơn. Trương Thúy Sơn thấy y võ công tầm thường, không thèm né tránh, thò tay trái ra, nắm được cổ tay y, tiếp theo cùi chỏ thúc ra, đánh trúng ngay huyệt đạo trên ngực. Người đó chỉ kêu lên một tiếng rồi ngã lăn ra.
Du Liên Châu nói:
– Trên bờ hình như có mấy hảo thủ, mình coi như đã đủ lễ rồi, không cần phải nể nang gì nữa, cứ xông tới đi.
Trương Thúy Sơn gật đầu, ra lệnh cho lái đò cứ việc tiến lên, đi dần tới sáu chiếc thuyền kia. Du Liên Châu nhắc bốn người bị bắt lên, giải khai huyệt đạo rồi ném qua. Cũng thật lạ, bên kia những thuyền đó không ai lên tiếng, mà trên bờ mươi người áo đen cũng lặng thinh tưởng như họ đều câm cả. Bốn người thợ lặn liền chui vào khoang, không thấy ra ngoài nữa.
Thuyền đi song song với sáu chiếc thuyền nhỏ, đang toan vượt lên trước, bỗng từ bên trong một chiếc thuyền bên kia, người chèo thuyền đột nhiên vung tay hai cái, nghe bình bình hai tiếng, gỗ bay tứ tán, tay lái thuyền họ đang ngồi đã bị gãy nát, chiếc thuyền lập tức quay ngang. Thì ra tên lái đò nọ ném ra hai chiếc ngư pháo dùng để ném cá, nhưng những quả pháo này thật lớn, nhồi nhiều hỏa dược nên sức nổ rất mạnh.
Du Liên Châu bình thản như không, nhẹ nhàng nhảy sang thuyền đối phương. Chàng tài đã cao mà mật lại lớn, nên chỉ qua hai tay không. Tên chèo thuyền trên chiếc thuyền nhỏ kia cứ tiếp tục chèo về trước không để ý đến việc có người nhảy qua. Du Liên Châu quát lên:
– Kẻ nào ném ngư pháo đó?
Người chèo thuyền đó lặng thinh không trả lời. Du Liên Châu tiến vào khoang thuyền, thấy có hai người ngồi bình thản quay mặt vào nhau nhưng không tỏ vẻ gì muốn nghinh địch. Du Liên Châu nắm cổ hai người giơ lên quát hỏi:
– Các ngươi là bù nhìn à?
Hai người đó không trả lời. Chàng là loại cao thủ hạng nhất nên giữ thân phận không muốn dùng võ lực tra hỏi, nên lập tức quay ra ngoài thuyền, thấy Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố đã ôm Vô Kỵ sang thuyền con. Du Liên Châu giựt lấy mái chèo, chèo ngược giòng đi lên. Chỉ mới chèo được vài cái, Ân Tố Tố kêu lên:
– Bọn giặc này tháo nước vào rồi.
Thấy khoang thuyền nước tuôn ào ào hóa ra họ đã tháo nút ở đáy thuyền cho nước chảy vào. Du Liên Châu nhảy lên chiếc thuyền thứ hai, thấy thuyền cũng đã ngập nước đến một nửa, bèn quay đầu lại nói:
– Ngũ đệ, thế này thì mình không thể nào không lên bờ, thôi đi lên vậy.
Sáu chiếc thuyền đó quả nhiên đã được sắp đặt sẵn, giống như một chiếc cầu để khách lên bờ. Ba người ôm Vô Kỵ cùng nhảy lên bờ.
Hơn mười hán tử áo đen bịt mặt đã xếp thành một hình vòng cung chờ sẵn, vây bốn người vào trong. Những người đó đa số cầm trường kiếm, nhưng cũng có một số cầm song đao, hoặc nhuyễn tiên, không ai cầm các loại binh khí nặng.
Du Liên Châu khoanh tay đứng yên, từ trái qua phải nhìn khắp một lượt, thần sắc thản nhiên, không nói năng gì cả. Trong đám người một hán tử áo đen bỗng giơ tay vẫy một cái, vòng người liền mở ra thành hai nhóm, mọi người hơi khom mình, binh khí trong tay chỉ xuống đất, ôm quyền hành lễ, nhường đường cho họ đi. Du Liên Châu trả lại một lễ, ngang nhiên đi qua. Bọn người đợi Du Liên Châu qua xong, bỗng nhiên lại đóng cái vòng lại, chặn đường ba người gia đình Trương Thúy Sơn, ánh sáng lấp lóe, những món binh khí lại dựng lên.
Trương Thúy Sơn cười ha hả, nói:
– Hóa ra các vị chỉ muốn giữ Trương mỗ lại nên bày thành trận thế, thật là coi trọng kẻ hèn này quá.
Hán tử đứng giữa hơi ngần ngừ, hạ kiếm xuống mở đường cho đi. Trương Thúy Sơn nói:
– Tố Tố, em đi trước.
Ân Tố Tố ôm Vô Kỵ đang toan tiến lên, bỗng nghe tiếng gió, năm thanh trường kiếm cùng nhắm thẳng vào Vô Kỵ. Ân Tố Tố giật mình, vội vàng lùi lại. Năm người đó lập tức tiến tới, mũi kiếm không ngừng rung động, trước sau vẫn cách thân hình Vô Kỵ chừng một thước.
Du Liên Châu hai chân nhún một cái, nhảy qua đầu mọi người trở lại trong vòng hai tay đập luôn bốn cái, mỗi cái vỗ trúng cổ tay một người áo đen, bốn thanh kiếm đang chỉ vào Vô Kỵ lập tức bay vọt lên trời. Bốn cái vỗ đó thật nhanh, hất bốn thanh kiếm văng đi, tay trái chàng lập tức lật một vòng nắm luôn cổ tay người thứ năm, ngón tay trỏ thuận thế điểm luôn vào huyệt đạo ở cổ tay người đó, nhưng thấy tay y mềm mại nhẵn nhụi, hình như là tay đàn bà, nên vội bỏ ra. Người đó cổ tay tê chồn, nghe keng một tiếng, kiếm rơi xuống đất.
Năm người bị mất kiếm lập tức lùi lại. Dưới ánh trăng thấp thoáng, lại có hai thanh kiếm khác đâm tới, nhưng thấy đâm ngang, lưỡi kiếm quay sang hai bên tả hữu, hai người cùng sử chiêu Đại Mạc Bình Sa, nhưng không sử kình, dường như không có ý đả thương người.
Du Liên Châu nghĩ thầm: ?Côn Lôn kiếm pháp, thì ra họ thuộc phái Côn Lôn?. Đợi kiếm đến cách ngực chừng ba tấc, đột nhiên chàng hóp ngực lại, hai tay khua một vòng, hai ngón tay trỏ đồng thời búng vào lưỡi kiếm.
Cái búng đó chàng sử dụng Võ Đương tâm pháp, đúng ra trường kiếm đối phương phải tuột ra khỏi tay mới phải, nào ngờ ngón tay và thanh kiếm đụng nhau, thấy từ thanh kiếm có một luồng nhu kình, hóa giải một nửa lực đạo của chàng, nên kiếm không rơi xuống. Thế nhưng hai người đó vẫn chịu không nổi, lục tục lui về sau ba bước. Một người đứng không vững, ngã phịch xuống đất, còn người kia kêu lên “Ối chao” một tiếng, ọc ra một ngụm máu tươi.
Từ khi gặp họ đem sáu chiếc thuyền ra chặn đến giờ họ chưa lên tiếng, lúc này kêu lên ?Ôi chao?, tiếng nói thanh thoát, nghe như tiếng đàn bà. Người áo đen đứng giữa lập tức giơ tay vẫy một cái, cả bọn quay mình bỏ chạy, chỉ giây lát biến mất vào trong các bụi cây thấp chung quanh. Những người đó quá nửa thân hình yểu điệu, hiển nhiên đàn bà mặc giả đàn ông. Du Liên Châu lớn tiếng nói:
– Du nhị, Trương ngũ gửi lời hỏi thăm Thiết Cầm tiên sinh, xin tha cho tội vô lễ.
Những người áo đen đó không trả lời, nghe văng vẳng có người cười khẩy một tiếng, đúng là giọng phụ nữ. Ân Tố Tố để Vô Kỵ xuống đất, nắm chặt tay con, nói:
– Những người này quá nửa là đàn bà. Nhị bá, bọn họ là người của phái Côn Lôn đấy ư?
Du Liên Châu đáp:
– Không đâu, phái Nga Mi đấy.
Trương Thúy Sơn lạ lùng hỏi:
– Phái Nga Mi ư? Vậy sao sư ca lại nói là ?hỏi thăm Thiết Cầm tiên sinh??
Du Liên Châu thở dài đáp:
– Bọn họ trước sau không nói một lời, mặt lại bịt khăn đen, chính là vì không muốn mình biết chân diện mục của họ. Năm thanh kiếm nhắm vào Vô Kỵ, chính là Hàn Mai Kiếm Trận của phái Côn Lôn. Hai người đâm vào ta, cũng sử dụng chiêu Đại Mạc Bình Sa của phái Côn Lôn. Bọn họ đã mạo xưng phái Côn Lôn, mình cũng giả vờ như không biết, nên hỏi thăm chưởng môn phái Côn Lôn Thiết Cầm tiên sinh Hà Thái Xung.
Ân Tố Tố hỏi:
– Vậy sao nhị bá biết họ là người của phái Nga Mi? Nhận ra được người nào trong bọn chăng?
Du Liên Châu đáp:
– Không đâu. Những người đó công lực không lấy gì làm thâm hậu, chắc phải là hạng đồ tôn của chưởng môn phái Nga Mi Diệt Tuyệt sư thái, hoặc là những tiểu đệ tử của bà ta, làm sao ta nhận ra được. Thế nhưng nhu kình hóa giải chỉ lực khi ta búng vào thanh kiếm, chính là Nga Mi tâm pháp. Học vài chiêu trận thức của môn phái khác không khó khăn gì, nhưng một khi sử dụng nội kình, chân tướng không thể nào che dấu được.
Trương Thúy Sơn gật đầu:
– Nhị ca dụng chỉ kích kiếm, nếu như họ buông kiếm ra thì tốt, bị thương nhẹ thôi. Nội công phái Nga Mi rất hay, nhưng có điều là nếu công lực chưa đủ mà vận lên sử dụng, gặp phải cao thủ, không khỏi không bị hại ghê gớm. Nếu nhị ca thực sự coi họ là kẻ địch, hai cô ả đó đã chết lăn ra rồi. Có điều phái Nga Mi đối với mình trước nay vẫn có chiều nể nang.
Du Liên Châu đáp:
– Ân sư khi còn trẻ đã từng được tổ sư sáng phái của Nga Mi là Quách Tương, Quách nữ hiệp đối đãi tử tế, thành thử lão nhân gia vẫn thường căn dặn kỹ càng không được đắc tội với môn hạ đệ tử của phái Nga Mi, để bảo tồn cái tình hương lửa khi xưa. Khi ta búng tay vào kiếm thấy nội kình của đối phương có điều không ổn, rút về không kịp nữa rồi, thành ra làm cho hai người bị thương. Tuy đó chỉ là vô tâm thất thố thôi, nhưng cũng vi phạm lời căn dặn của ân sư.
Ân Tố Tố nói:
– Cũng may là sau cùng nhị bá nói là xin lỗi Thiết Cầm tiên sinh nên không thực sự đắc tội với phái Nga Mi.
Lúc đó chiếc thuyền họ đi đã theo dòng trôi xuống hạ lưu rồi, không còn thấy đâu nữa. Sáu chiếc thuyền nhỏ cũng chìm mất, những người chèo thuyền ướt như chuột lột lóp ngóp bò lên bờ. Ân Tố Tố hỏi:
– Những người này cũng thuộc phái Nga Mi ư?
Du Liên Châu hạ giọng nói nhỏ:
– Đa số thuộc Lương Thuyền bang ở Sào Hồ.
Ân Tố Tố nhìn năm thanh kiếm lấp loáng ánh trăng nằm dưới đất, đang toan cúi xuống nhặt lên xem. Du Liên Châu nói:
– Đừng đụng tới binh khí của họ, nếu như trên kiếm có khắc tên người, sau này mình không thể nào giả vờ không biết được. Thôi mình đi.
Ân Tố Tố lúc này kính phục vị nhị bá bá này không để đâu cho hết nên đáp lời:
– Vâng.
Nắm tay Vô Kỵ đi lên con đường lớn cạnh bờ sông.
Đi qua một hàng cây thấp, thấy tại đằng trước cách mấy trượng dưới một cây liễu lớn có buộc ba con ngựa. Vô Kỵ mừng rỡ kêu lên:
– Có ngựa kìa, có ngựa kìa.
Thằng nhỏ ở trên Băng Hỏa đảo chưa từng thấy ngựa bao giờ, về đến Trung Thổ muốn được cưỡi ngựa nhưng chỉ đi bằng thuyền nên chưa có dịp.
Bốn người đến gần cây liễu thấy thân cây có gài một tờ giấy. Trương Thúy Sơn lấy xuống xem thấy viết:
– Kính tặng ba con ngựa để tạ tội làm hỏng thuyền.
Hàng chữ đó bằng than, viết vội nên hơi tháu, nét chữ mềm mại, rõ ràng là do đàn bà. Ân Tố Tố cười:
– Các cô phái Nga Mi dùng bút than vẽ lông mày để viết thư cho các đại hiệp của phái Võ Đương.
Du Liên Châu nói:
– Các cô này cũng lễ phép quá sức.
Nói xong chàng cởi giây buộc ngựa, ba người chia nhau cưỡi. Vô Kỵ ngồi trong lòng mẹ, rất lấy làm thích thú. Trương Thúy Sơn nói:
– Hình tích của mình nay đã lộ rồi, đi thuyền hay cưỡi ngựa cũng thế thôi.
Du Liên Châu đáp:
– Đúng thế. Trên đường thể nào mình cũng gặp người làm phiền, nếu như bất đắc dĩ phải giao đấu, mình cũng không nên mạnh tay.
Chàng vô tình làm bị thương hai đệ tử của phái Nga Mi, trong lòng áy náy không yên. Ân Tố Tố thấy hối hận, nghĩ thầm: ?Nhị bá chỉ mới ra tay hơi nặng một tí, bản ý không phải là đả thương người, chỉ cốt ép đối phương phải buông kiếm, họ vì gượng lại nên bị thương. So với ta năm xưa cố ý giết biết bao nhiêu đệ tử của phái Thiếu Lâm, chẳng cần biết nặng nhẹ là gì, thật không thể nào nói vào đâu được. Một thân làm tội, một thân chịu, về sau mình không thể để cho nhị bá phải phiền phức?. Nàng bèn nói:
– Nhị bá, những người này cũng chỉ vì vợ chồng em mà đến, còn đối với anh thật là cung kính. Nếu trên đường đi còn gặp ai cản trở, hãy để cho đệ muội đánh đuổi họ cũng được, nếu không xong, lúc ấy mới nhờ đến nhị bá ra tay tương viện.
Du Liên Châu nói:
– Cô nói thế có khác gì người ngoài. Chúng ta huynh đệ đồng sinh cộng tử, còn phân biệt anh tôi cái gì?
Ân Tố Tố không tiện nói thêm, hỏi lại:
– Bọn họ biết rõ nhị bá đi cùng với vợ chồng em, sao lại chỉ phái mấy đệ tử nhỏ tuổi đến ngăn đường?
Du Liên Châu đáp:
– Có lẽ vì việc gấp gáp, không kịp điều động cao thủ.
Trương Thúy Sơn thấy hành vi của các cô gái phái Nga Mi, áng chừng họ muốn biết tung tích Tạ Tốn, nói:
– Thì ra nghĩa huynh cũng có gây thù chuốc oán với phái Nga Mi, tiểu đệ ở Băng Hỏa đảo không nghe nói tới.
Du Liên Châu thở dài:
– Phái Nga Mi môn qui rất nghiêm, trong môn phái đại đa số là nữ đệ tử, Diệt Tuyệt sư thái trước nay không cho nữ đệ tử tùy tiện hành tẩu giang hồ. Kỳ này phái Nga Mi lại đến gây khó khăn cho Thiên Ưng giáo, bọn ta lúc đầu cũng hơi lấy làm lạ, mãi đến gần đây mới hiểu nguyên do. Thì ra Kim Qua Chùy Phương Bình Phương lão anh hùng ở Lan Phong, Hà Nam một hôm đột nhiên bị hại, trên tường có hàng chữ ?Giết người là Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn? viết bằng máu.
Ân Tố Tố hỏi lại:
– Vậy Phương Bình là người của phái Nga Mi ư?
Du Liên Châu đáp:
– Không. Diệt Tuyệt sư thái khi chưa xuất gia vốn họ Phương. Phương lão anh hùng chính là anh ruột của bà ta.
Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố đồng thời cùng ?A? một tiếng.
Vô Kỵ đột nhiên hỏi:
– Nhị bá, thế Phương lão anh hùng là người tốt hay là người xấu?
Du Liên Châu đáp:
– Nghe nói Phương lão anh hùng chỉ làm vườn, đọc sách, xưa nay không giao thiệp với ai, dĩ nhiên không phải là người xấu.
Vô Kỵ nói:
– Ồ, nghĩa phụ giết người bừa bãi như thế, thật không đúng chút nào.
Du Liên Châu mừng lắm, vươn cánh tay dài, nhắc thằng bé từ trong lòng mẹ qua ôm nó, xoa đầu nói:
– Hài tử, cháu biết không nên giết người bừa bãi, nhị bá rất vui lòng. Người chết rồi không sống lại được, ngay cả những người tội nghiệt thâm trọng, cùng hung cực ác, cũng không nên tùy tiện giết, mà nên để cho họ một đường hối cải.
Vô Kỵ nói:
– Nhị bá, cháu cầu xin bác một điều.
Du Liên Châu hỏi:
– Điều gì?
Vô Kỵ nói:
– Nếu họ tìm thấy nghĩa phụ, bác bảo họ đừng giết cha nuôi của cháu. Nghĩa phụ mắt mù rồi, không đánh lại họ đâu.
Du Liên Châu trầm ngâm một hồi, nói:
– Việc đó bác không đáp ứng được. Chỉ có điều bác sẽ nhất quyết không giết cha nuôi của cháu thôi.
Vô Kỵ thừ người không nói, mắt rươm rướm ướt.
Khi trời sáng, bốn người đến một thị trấn, tại khách điếm ngủ đến nửa ngày, đến quá trưa mới lên đường. Có khi Ân Tố Tố và trượng phu cưỡi chung một ngựa, để cho Vô Kỵ một mình cầm cương cho thích. Vô Kỵ dẫu sao cũng là trẻ con, cưỡi ngựa một hồi, quên ngay cái chuyện lo lắng cho Tạ Tốn.
Đường đi không xảy ra chuyện gì, hôm sau đã đến Hán Khẩu. Trưa hôm đó họ gần đến An Lục bỗng thấy trên đường có hơn chục người khách thương chạy xuống, thấy bọn Du Liên Châu bốn người, vội vàng xua tay, kêu lớn:
– Mau quay đầu, mau quay đầu, đằng trước có binh đội Thát Đát đang giết người cướp của.
Một người nói với Ân Tố Tố:
– Đàn bà con gái như cô đừng có lớn mật, gặp bọn Thát Đát không phải chuyện đùa đâu.
Du Liên Châu hỏi:
– Có bao nhiêu Thát tử?
Một người đáp:
– Chừng chục đứa, hung ác ghê gớm lắm.
Nói xong lại chạy thục mạng về hướng đông. Võ Đương thất hiệp trước nay căm ghét thậm tệ bọn Nguyên binh tàn hại dân lành. Trương Tam Phong bình thời giáo huấn đệ tử rất nghiêm, không ai được tùy tiện động thủ với người khác. Thế nhưng nếu gặp quan quân làm điều tàn ác thì được ra tay không phải dung tình. Thành thử Võ Đương thất hiệp nếu gặp đại đội Nguyên binh đánh phải né tránh, nhưng nếu gặp ít kẻ hành hung, lập tức trừ khử. Du Trương hai người nghe nói chỉ có chừng một chục quân Nguyên, nghĩ thầm đúng là dịp tốt trừ hại cho dân, lập tức giục ngựa chạy về phía trước.
Đi được chừng ba dặm, quả nhiên nghe thấy tiếng kêu thảm thiết. Ngựa của Trương Thúy Sơn đi đầu, thấy hơn một chục quân Nguyên tay cầm cương đao, trường mâu, đang lùa mấy chục người dân lại để tàn sát, máu chảy vung vãi đầy mặt đất, có bảy tám người đầu một nơi, thân một nẻo. Một tên quân Nguyên cầm một đứa trẻ chừng ba bốn tuổi, giơ chân đá mạnh khiến đứa trẻ tung vọt lên không. Đứa bé ở trên trời kêu la, khi rơi xuống lại gặp một tên khác đá lên, chẳng khác gì người ta đá chuyền banh qua lại. Chỉ qua mấy lần, đứa trẻ không còn kêu khóc gì nữa, hẳn đã chết rồi. Trương Thúy Sơn nổi giận, từ trên lưng ngựa nhảy vọt xuống, chân chưa chạm đất, nghe một tiếng bình, đã đấm trúng ngực một tên Nguyên binh đang đá đứa trẻ. Tên đó kêu ối một tiếng ngã lăn ra. Một tên nguyên binh khác giơ cây giáo dài đâm luôn vào lưng Trương Thúy Sơn.
Vô Kỵ sợ hãi kêu lên:
– Gia gia coi chừng.
Trương Thúy Sơn quay đầu lại, cười đáp:
– Con coi cha đánh bọn Thát tử.
Thấy trường mâu còn cách ngực chừng nửa thước, tay trái chàng khua một cái, chộp được cán thương, tiếp theo đâm mạnh về trước, cán mâu liền đâm vào ngực tên Nguyên binh. Tên đó kêu lên một tiếng lăn quay ra xem chừng không sống được nữa.
Bọn quân Nguyên thấy Trương Thúy Sơn dũng mãnh như thế, kêu lên một tiếng, bốn phía vây chàng lại. Ân Tố Tố cũng nhảy xuống ngựa, cướp lấy một thanh đao dài chém chết luôn hai đứa. Bọn quân Nguyên xem chừng không xong, bỏ chạy tứ tán. Thế nhưng bọn này hung ác thành tính, trong khi chạy trốn, vẫn còn vung đao loạn sát những người dân. Du Liên Châu nổi giận, kêu lên:
– Không để cho bọn chúng chạy thoát.
Chàng lao vụt ra hướng tây, chặn bốn tên quân Nguyên. Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố cũng chia ra chặn bọn còn lại. Ba người biết rằng bọn quân Nguyên tuy hung ác thật nhưng võ công chỉ bình thường, Vô Kỵ so với bọn chúng còn cao hơn nhiều nên không cần phân tâm lo lắng.
Vô Kỵ cũng nhảy xuống ngựa, thấy nhị bá và phụ thân nhảy nhót như bay, vỗ tay kêu lên:
– Hay quá, hay quá.
Đột nhiên, tên quân Nguyên bị Trương Thúy Sơn dùng cán mâu đâm bất tỉnh hồi nãy bất ngờ nhỏm dậy, giơ tay ôm lấy Vô Kỵ, xoay mình nhảy lên lưng ngựa, giựt cương chạy đi. Du Liên Châu và vợ chồng Trương Thúy Sơn kinh hãi, cùng kêu lên đuổi theo. Du Liên Châu chỉ nhún mình hai cái đã đến đằng sau con ngựa, tay trái đánh ra một chưởng, thân hình cũng chồm theo nhắm đúng hậu tâm tên Nguyên binh. Tên đó không quay đầu, đánh ngược lại một chưởng. Chỉ nghe bộp một tiếng, hai chưởng đụng nhau. Du Liên Châu thấy chưởng lực đối phương như bài sơn đảo hải, một luồng nội lực cực kỳ âm hàn truyền thẳng qua, lập tức toàn thân lạnh buốt thấu xương, thân hình lảo đảo mấy cái, loạng choạng lùi về sau ba bước.