Đọc truyện Vũ Khí Bóng Đêm 2: Thành Phố Tro Tàn – Chương 2: Quán Hunter’s Moon
Maia Robert chẳng bao giờ tin những anh chàng đẹp mã, chính vì thế cô ghét Jace Wayland ngay từ lần đầu tiên thấy hắn.
Anh trai cô, Daniel, được sinh ra với làn da bánh mật và đôi mắt đen to tròn của mẹ, rồi hóa ra anh ta là thứ người nhẫn tâm đốt cháy cánh của những con bươm bướm và dửng dưng nhìn chúng chấp chới bay tới khi cháy rụi. Anh ta cũng tra tấn cô, lúc đầu chỉ bằng những trò nhỏ nhặt vặt vãnh, như cấu véo cô ở những chỗ không ai nhìn thấy, đổi dầu gội thành chất tẩy trắng. Cô có mách bố mẹ nhưng họ không tin. Chẳng ai tin cả, khi nhìn vào Daniel; họ lầm tưởng giữa vẻ đẹp đẽ và sự ngây thơ vô tội. Khi anh ta bẻ gãy tay cô hồi lớp chín, cô trốn nhà, nhưng bố mẹ đã đem cô về. Năm lớp mười, Daniel bị một gã tài xế nào đó đâm chết ngay trên đường. Đứng bên cạnh cha mẹ trong nghĩa địa, Maia thấy xấu hổ vì cảm giác nhẹ nhõm bừng lên trong tâm. Chúa trời, cô nghĩ, chắc sẽ trừng phạt cô vì đã hài lòng khi anh trai mất mạng.
Và năm sau, Chúa trời trừng phạt cô thật. Cô gặp Jordan. Tóc đen dài, hông mảnh dẻ trong chiếc quần bò bạc màu, chiếc áo phông hình các indie rocker[1] và lông mi dài như con gái. Cô chưa bao giờ nghĩ hắn sẽ thích cô – thường thường những người như hắn sẽ thích những cô gái mảnh dẻ, nhợt nhạt đeo cặp kính gọng to – nhưng có vẻ hắn lại thích những cô gái tròn trịa như Maia. Khi trao cô những nụ hôn, hắn đã khen rằng cô thật xinh đẹp. Vài tháng đầu tiên trôi qua như mơ; những tháng cuối cùng lại là ác mộng. Hắn trở nên gia trưởng, luôn muốn kiểm soát cô. Khi giận cô, hắn gầm ghè và tát vào mặt cô, để lại vết tay hằn trên má như thể cô đã đánh quá nhiều phấn hồng vậy. Khi cô cố chia tay, hắn đã đẩy, hất ngã cô xuống sân trước khi cô kịp chạy vào trong và khóa chặt cửa lại.
[1] Indie rocker: một thể loại rock alternative xuất hiện tại UK và US vào những năm 1980. (ND)
Sau đó, cô cố tình cho hắn thấy cô hôn một anh chàng khác, chỉ để khẳng định cho hắn biết là họ đã chấm dứt rồi. Cô thậm chí chẳng nhớ tên cậu trai kia. Cái cô nhớ là buổi tối hôm đó khi đi bộ về nhà, trời mưa bay giăng giăng trên tóc, bùn bắn lên bắp quần vì cô đã theo lối tắt băng qua công viên gần nhà. Cô nhớ một bóng hình đen thui từ sau vòng quay ngựa gỗ bằng sắt nhảy xổ ra, một thân mình chó sói to tướng ướt nhẹp xô cô ngã xuống vũng bùn, cơn đau quằn quại khi hàm răng con sói cắn ngập vào cổ cô. Cô đã la hét và giãy giụa, nếm thấy vị máu nóng hổi trong miệng, thấy đầu óc đang hét lên: Không thể nào. Không thể nào. Ở New Jersey làm gì còn sói, nhất là trong khu ngoại ô bình thường của cô, nhất là ở thế kỷ hai mươi mốt này.
Tiếng hét của cô khiến các nhà xung quanh bật đèn, hết ô cửa sổ này tới ô cửa sổ khác sáng lên như thể quẹt diêm. Con sói thả cô ra, trên miệng máu chảy ròng ròng và còn dính chút da thịt của cô.
Sau hai mươi bốn mũi khâu, cô trở về căn phòng ngủ màu hồng của mình, còn mẹ cô lo lắng đi đi lại lại. Bác sĩ phòng cấp cứu nói vết cắn giống vết răng một con chó lớn, nhưng Maia biết rõ hơn thế. Trước khi con sói quay người bỏ đi, cô nghe thấy tiếng thì thầm quen thuộc, phả hơi thở nóng hổi bên tai cô, “Giờ em là của tôi. Em luôn luôn là của tôi.”
Cô không bao giờ gặp lại Jordan nữa – hắn cùng bố mẹ đã dọn đi, bạn bè hắn không ai biết gia đình hắn đã đi đâu, mà kể cả biết cũng không chịu nói. Cô chỉ hơi ngạc nhiên khi cơn đau đến vào dịp trăng tròn tháng sau: đau đớn giằng xé chạy dọc chân cô, buộc cô phải bò trên mặt đất, phải còng lưng theo cách những nhà ảo thuật bẻ cong cái thìa. Khi răng thò ra khỏi lợi và rơi lạch cạch xuống đất như những viên kẹo cao su Chiclet, cô ngất lịm đi. Hoặc cô nghĩ mình đã ngất. Cô tỉnh dậy cách nhà hàng dặm, không một mảnh vải che thân, mình mẩy dính đầy máu, vết sẹo trên cổ nhói lên từng hồi như nhịp tim đập. Đêm đó cô lên tàu tới Manhattan. Chẳng phải một quyết định khó khăn gì. Là một đứa con lai tại khu vực ngoại ô với những người hàng xóm bảo thủ đã quá khổ sở rồi. Chúa mới biết họ sẽ làm gì với người sói.
Tìm được một đàn để hòa vào cũng không quá khó. Riêng Mahattan thôi cũng đã có vài đàn. Cô gia nhập một đàn người sói trong khu trung tâm, những người thường ngủ lại trong một đồn cảnh sát cũ ở khu Chinatown.
Sói đầu đàn thay đổi liên tục. Đầu tiên là Kito, rồi Vérionique, Gabriel và giờ là chú Luke. Cô thích Gabriel nhưng Luke là sói đầu đàn tốt hơn. Chú có vẻ ngoài khiến những người tiếp xúc với chú tin tưởng, đôi mắt xanh hiền hậu mà cũng không quá đẹp trai, chính vì thế cô không ghét chú Luke ngay tắp lự. Cô thấy thoải mái khi ở cùng đàn, được ngủ trong đồn cảnh sát cũ, vào những đêm trăng chưa tròn, họ cùng nhau chơi bài và ăn đồ Trung Hoa. Còn những đêm trăng tròn họ cùng nhau đi săn trong công viên, rồi hôm sau lại tới quán Hunter’s Moon, một trong những quán bar ngầm của người sói trong thành phố, nhậu cho qua tàn dư của Cơn Biến Đổi. Có những thùng bia cao cả thước, và không ai kiểm tra xem bạn đủ hai mươi mốt tuổi chưa. Làm người sói khiến bạn phát triển nhanh, và chỉ cần bạn mọc răng và tóc một tháng một lần, bạn được quyền chè chén ở Moon, không cần biết bạn bao nhiêu tuổi tính theo tuổi của con người.
Những ngày này cô ít nhớ tới gia đình, nhưng khi anh chàng tóc vàng mặc áo choàng đen dài bước vào bar, Maia cứng cả người. Hắn trông không giống Daniel, không hẳn – Daniel có tóc đen dài xoăn xoăn úp vào gáy và da bánh mật, còn người con trai này da trắng tóc vàng. Nhưng họ đều sở hữu một cơ thể mảnh mai, có cùng một dáng đi giống như báo tìm mồi, và cùng một vẻ tự tin ngời ngời về ngoại hình. Tay cô bất giác co lại nắm chặt quanh cái cốc và cô phải tự nhắc mình: Anh ta chết rồi. Daniel đã chết.
Anh chàng kia đi tới đâu, tiếng xì xào vang theo tới đó, như bọt sóng lan quanh đuôi thuyền. Cậu trai tỏ ra như chẳng để ý gì, dùng một chân mang bốt móc kéo chiếc ghế quầy bar về phía mình rồi ngồi lên đoạn chống khuỷu tay xuống bàn. Maia nghe hắn gọi một ly rượu mạch nha trong khi mọi người ngừng bặt. Hắn dốc thẳng nửa ly vào miệng bằng một cú phẩy cổ tay gọn ghẽ. Thứ rượu đó mang màu vàng như màu tóc hắn vậy. Khi hắn giơ tay đặt ly xuống quầy bar, Maia đã thấy những Ấn Ký màu đen dày đặc quấn quanh cổ tay và mặt trên bàn tay.
Bat, người ngồi cạnh cô – cô từng hẹn hò với cậu này, nhưng giờ họ là bạn – thì thầm gì đó nghe như “Nephilim.”
Thì ra là vậy. Tay kia không phải là người sói gì cả. Hắn là Thợ Săn Bóng Tối, một thành viên của lực lượng cảnh sát mật của Thế giới Ngầm. Họ duy trì Luật Pháp, được Hiệp Ước bảo vệ, và bạn không thể trở thành một người như họ được: Bạn phải được sinh ra là đã thế thôi. Dòng máu quyết định ra họ. Có rất nhiều lời đồn đại về họ, phần lớn là những điều không hay ho: Họ tự cao tự đại, độc ác, kiêu căng; họ khinh ghét Cư dân Thế giới Ngầm. Chẳng có thứ gì mà người sói ghét bằng Thợ Săn Bóng Tối – có lẽ ngoài ma cà rồng ra.
Mọi người cũng đồn rằng Thợ Săn Bóng Tối giết quỷ. Maia nhớ hồi đầu tiên nghe đến chuyện quỷ dữ có tồn tại và được nghe kề về những chuyện chúng gây ra. Những câu chuyện đó khiến cô đau đầu. Ma cà rồng và người sói chỉ là những người bình thường bị mắc một căn bệnh mà thành, cô hiểu được từng ấy, nhưng mà trông chờ cô tin vào mấy trò thiên đường và địa ngục vớ vẩn ấy, vào quỷ dữ và thiên thần, trong khi vẫn chưa có ai có thể cam đoan với cô được rằng liệu Chúa trời có thực hay không, rằng bạn sẽ đi về đâu sau khi lìa bỏ trần thế ư? Chẳng công bằng đâu nhé. Giờ cô đã tin có quỷ dữ – cô đã thấy những việc chúng làm nhiều đến độ không thể phủ nhận sự tồn tại của chúng – nhưng cô vẫn ước gì mình không buộc phải tin như vậy.
“Tôi thấy là,” gã trai nói và chống khuỷu tay lên bàn, “anh không phục vụ bia Silver Bullet ở đây. Do nó có quá nhiều điều tiếng xấu chăng?” Hai mắt hắn lấp lánh, nheo nheo lại và lóe sáng như trăng đầu tuần.
Người phục vụ quầy rượu, Freaky Pete, chỉ nhìn gã trai và lắc đầu khó chịu. Maia biết nếu hắn không phải Thợ Săn Bóng Tối, hẳn Pete đã ném hắn bay khỏi quán Moon, nhung anh chỉ đi sang đầu kia quầy mà cặm cụi đánh bóng ly.
“Thực ra.” Bat lên tiếng, tay này không thể nào không chõ mũi vào mọi chuyện, “bọn tao không có món đó vì nó thực sự là một loại bia kinh tởm.”
Gã trai chuyển ánh nhìn lấp lánh nheo nheo của hắn sang Bat, rồi nhoẻn cười vui vẻ. Thường người ta không mỉm cười vui vẻ khi Bat nhìn họ cảnh cáo: Bat cao một mét chín, với vết sẹo lồi lớn làm biến dạng hết nửa mặt do bị bột bạc làm bỏng. Bat không thuộc đàn qua đêm, đàn sống trong đồn cảnh sát, ngủ trong những xà lim cũ kỹ. Anh ta có nhà riêng, thậm chí còn có công ăn việc làm nữa. Bat là một người bạn trai khá ổn, cho tới khi anh ta đá Maia vì một con phù thủy tóc đỏ tên Eve sống tại Yonkers và có một hàng bói chỉ tay tại ga-ra.
“Vậy anh đang uống gì thế?” gã trai hỏi, nhoài lại quá gần Bat tỏ ý nhục mạ. “Một ít lông của con chó… ờm, gặp ai cắn nấy nhỉ?”
“Mày quả là nghĩ mày khá vui tính nhỉ.” Tới lúc đó tất cả mọi người trong đàn đều đã nhoài người tới nghe, sẵn sàng yểm trợ cho Bat nếu anh ta định đánh cho thằng mất dạy này ngủ tới giữa tuần sau. “Phải không?”
“Bat,” Maia nói. Cô tự hỏi có phải mình là người duy nhất trong quán nghi ngờ khả năng đánh ngất anh chàng này tới giữa tuần của Bat không. Không phải cô không tin Bat. Nhưng là vì điều gì đó trong ánh mắt gã trai kia. “Đừng.”
Bat lờ cô đi. “Phải không?”
“Tôi là ai mà dám phủ nhận sự thật hiển nhiên cơ chứ?” Ánh mắt gã trai lướt qua Maia như thể cô không tồn tại và trở về Bat. “Tôi không nghĩ anh sẽ nói cho tôi biết chuyện gì xảy tới với mặt anh nhỉ? Trông như…” Và tới đây hắn ta nhoài người tới và nói thật khẽ vào tai Bat nên Maia không nghe rõ. Điều tiếp theo cô biết, Bat vung một cú đấm lẽ ra là đã đập nát quai hàm cậu kia rồi, chỉ có điều cậu ta đã không còn ở đó. Hắn đứng cách đó cả mét rưỡi, cười khanh khách, khi nắm đấm Bat tung trúng chiếc cốc chổng chơ trên mặt bàn và khiến nó bay qua mặt quầy bar đập vào bức tường đối diện, vỡ tan tành.
Freaky Pete đi vòng qua quầy bar, xoắn lấy cổ áo Bat, ngay trước khi Maia kịp chớp mắt. “Đủ rồi,” anh ta nói. “Bat, sao cậu không đi bộ cho bình tĩnh lại đi.”
Bat xoay người trong khi Pete vẫn nắm chặt. “Đi bộ ư? Anh có nghe thấy…”
“Tôi có nghe.” Pete hạ thấp giọng. “Hắn là Thợ Săn Bóng Tối. Bỏ qua đi, sói con.”
Bat chửi thề và lùi khỏi người đứng quầy. Anh ta hùng hục đi khỏi quán, vai gồng cứng lên vì tức giận. Cánh cửa đóng sầm lại.
Gã trai ngừng cười rồi nhìn Freaky với kiểu oán hờn, như thể bartender này vừa cướp đi món đồ chơi hắn định chơi vậy. “Không cần thiết phải vậy đâu,” hắn nói. “Tự tôi xử lý được mà.”
Pete nhìn gã Thợ Săn Bóng Tối dò xét. “Tôi chỉ lo cho quán bar của tôi thôi,” cuối cùng anh ta nói. “Nếu cậu không muốn gặp rắc rối, Thợ Săn Bóng Tối à, tôi khuyên cậu nên đi chỗ khác mà chơi.”
“Tôi không nói là tôi không muốn gặp rắc rối.” Gã trai ngồi xuống ghế. “Hơn nữa, tôi còn chưa uống xong.”
Maia liếc ra sau nhìn bức tường ướt nhẹp rượu. “Tôi thì tôi thấy anh đã uống xong rồi đấy chứ.”
Trong một giây trước gã trai chỉ trông ơ thờ; một giây sau một ánh tò mò thích thú lóe lên trong đôi mắt vàng của hắn. Trong khoảnh khắc đó trông hắn quá giống Daniel làm Maia chi muốn lỉnh đi mất.
Pete đẩy một ly rượu có màu hổ phách ngang qua mặt quầy trước khi gã trai kịp trả lời Maia. “Của cậu đây,” anh nói. Anh đưa mắt nhìn vào Maia. Cô nghĩ mình nhìn ra chút quở trách trong đấy.
“Anh Pete…” cô dợm lời. Cô không kịp nói hết câu. Cửa quán bật tung. Bat đang đứng ở lối vào. Maia mất một lúc mới nhận ra mặt trước và tay áo áo sơ-mi anh ướt đẫm máu.
Cô nhảy khỏi ghế và chạy tới bên anh. “Bat! Anh bị thương à?”
Mặt anh xám xịt, vết sẹo trắng bệch nổi trên má như một mảnh dây vẹo vọ. “Có một vụ tấn công,” anh nói. “Có một xác chết trong hẻm. Một đứa nhỏ. Máu – khắp nơi.” Anh lắc đầu, nhìn xuống toàn thân. “Không phải máu anh. Anh ổn.”
“Một xác chết ư? Nhưng ai…”
Câu trả lời của Bat chìm trong tiếng bàn tán xôn xao. Ghế ngồi trong quán bị bỏ đi khi cả đàn lao về phía cửa. Pete đi khỏi quầy và len lỏi qua đám đông. Chỉ có tay Thợ Săn Bóng Tối là còn nguyên tại chỗ, đầu cúi gục xuống cốc rượu.
Liếc qua khoảng trống giữa những người đang đứng chen chúc trước cửa, Maia thoáng thấy vỉa hè xám xịt của con hẻm, loang lổ những máu. Máu vẫn ướt và chảy thành dòng qua những đường gạch như rễ của loài cây dây leo màu đỏ. “Nó bị cắt cổ à” Pete đang nói với Bat, người trên mặt đã có lại chút huyết sắc. “Làm sao…”
“Có ai đó trong hẻm. Có ai quỳ bên thằng bé,” Bat nói. Giọng anh nghẹn lại. “Không giống người – giống một cái bóng hơn. Chúng chạy mất khi thấy tôi. Lúc đó thằng bé vẫn còn sống. Nhưng cũng chỉ còn chút hơi tàn thôi. Tôi quỳ xuống bên, nhưng…” Bat nhún vai. Đó là một động tác bình thường, nhưng những sợi gân trên cổ anh hằn lên như những sợi rễ phụ quấn quanh thân cây. “Thằng bé chết không kịp trăn trối.”
“Lũ ma cà rồng,” một nữ người sói đẫy đà đang đứng cạnh cửa, lên tiếng – hình như tên chị ta là Amabel thì phải. “Những Đứa Con của Màn Đêm. Chẳng thể là ai khác.”
Bat nhìn chị ta, sau đó quay lại, hùng dũng đi băng qua căn phòng về phía quầy bar. Anh nắm lấy lưng áo khoác tay Thợ Săn Bóng Tôì – hay đang vươn tay ra định làm vậy, nhưng gã trai đã đứng dậy, uyển chuyển quay người lại. “Anh có vấn đề gì hả, người sói?”
Bàn tay Bat vẫn đang duỗi tới. “Mày điếc sao, Nephilim?” anh gầm ghè. “Có một đứa bé chết trong hẻm. Một trong số bọn tao.”
“Ý anh là một người sói hay một giống khác trong Thế giới Ngầm ấy à?” Hắn nhướn đôi lông mày màu sáng. “Với tôi, các anh ai cũng như ai hết.”
Có tiếng gầm ghè nho nhỏ – Maia ngạc nhiên khi nhận ra âm thanh đó tới từ Freaky Pete. Anh đã quay trở vào quầy và chung quanh là những thành viên khác trong đàn, tất cả đều đang chăm chú nhìn tay Thợ Săn Bóng Tối. “Cậu bé ấy chỉ là một con sói con,” Pete nói. “Tên Joseph.”
Cái tên không làm Maia nhớ đó là ai, nhưng cô thấy quai hàm Pete cứng lại và bụng dạ cô cũng hơi chộn rộn. Lúc này cả đàn đang hăng máu và nếu tay Thợ Săn Bóng Tối kia còn chút thông minh, hắn nên cúp đuôi biến đi. Nhưng không. Hắn chỉ đứng đó nhìn họ bằng đôi mắt vàng và nụ cười vui trên mặt “Một nhóc người sói sao?” hắn nói.
“Cậu ta là một thành viên trong đàn,” Pete nói.”Mới mười lăm tuổi.”
“Và chính xác các người muốn tôi làm gì nào?” tay kia nói.
Pete trố mắt nhìn không tin được. “Cậu là một Nephilim,” anh nói. “Hội Clave cần bảo vệ chúng tôi trong những hoàn cảnh như thế này.”
Gã trai nhìn quanh quán, chậm rãi với một vẻ xấc xược đến mức khiến mặt Pete dần đỏ lên.
“Tôi không thấy các anh cần phải bảo vệ gì ở đây cả,” hắn nói. “Trừ vài thứ trang trí xấu xí và vấn đề về rêu mốc. Nhưng các anh có thể dùng chất tẩy là ổn.”
“Có một xác chết ngoài cửa quán bar này,” Bat gằn từng tiếng một, “Mày không nghĩ…”
“Tôi nghĩ giờ đã quá trễ để mà bảo vệ cậu ta rồi,” hắn nói, “vì cậu ta đã chết.”
Pete vẫn trừng mắt nhìn. Tai anh đã nhọn lên, và khi cất tiếng, giọng anh đã nghẹt lại vì những chiếc răng như răng chó thò ra khỏi lợi. “Cậu nên cẩn thận đấy, Nephilim,” anh nói. “Cậu nên cực kỳ cẩn thận.”
Gã trai nhìn Pete bằng đôi mắt u mê. “Thật sao?”
“Vậy là mày định khoanh tay đứng nhìn à?” Bat nói “Phải không?”
“Tôi định uống hết cốc rượu,” gã trai đáp, đưa mắt nhìn vào chiếc cốc đã cạn nửa đặt trên quầy bar, “nếu các anh để tôi tự nhiên.”
“Vậy đây là thái độ của hội Clave, chỉ một tuần sau khi Hiệp Định Hòa Bình được ký kết sao?” Pete khinh bỉ nói. “Cái chết của một Cư dân Thế giới Ngầm không là gì với các người à?”
Gã trai mỉm cười, và Maia thấy nổi gai ốc. Trông hắn y hệt như Daniel ngay trước khi anh ta vươn tay ra và vặt cánh con bọ rùa. “Cái kiểu như những Cư dân Thế giới Ngầm,” hắn nói, “trông chờ hội Clave dọn dẹp rác rưởi giùm cho các người ấy mà. Làm như thể chúng tôi bận tâm chỉ vì một con sói con ngu ngốc nào đó quyết định tự đổ sơn lên khắp con hẻm…”
Rồi hắn dùng đến một từ, từ chỉ người sói mà chính những người sói cũng không bao giờ dùng, một từ nghịch tai bẩn thỉu chỉ mối quan hệ không đoan chính giữa sói và phụ nữ loài người.
Trước khi có ai kịp di chuyển. Bat đã lao vào tay Thợ Săn Bóng Tối – nhưng hắn đã biến mất. Bat mất đà rồi quay phắt lại, mắt đảo tìm kiếm. Cả đàn nín thở.
Maia há hốc. Tay Thợ Săn Bóng Tối đang đứng trên quầy bar, chân dạng rộng. Hắn quả thực giống thiên thần báo thù chuẩn bị đưa ra phán quyết cuối cùng từ trên cao, đúng như công việc của những Thợ Săn Bóng Tối. Sau đó hắn vươn tay ra và cuộn những ngón tay về phía hắn, thật nhanh, một cử chỉ quen thuộc với cô trong sân chơi, có nghĩa Tới mà bắt tao nào – cả đàn lao lên.
Bai và Amabel trèo lên mặt quầy; gã trai đảo người, nhanh đến nỗi hình ảnh hắn phản chiếu trên gương dường như chỉ là lưu ảnh nhòe. Maia thấy hắn co chân đá, thế là hai người kia nằm rên rỉ trên sàn cùng một đống thủy tinh vỡ vụn. Cô có thể nghe thấy tiếng của gã trai ngay cả khi có ai đó leo lên kéo hắn xuống; hắn ngay lập tức biến mất vào đám đông, một cách tự nguyện là đằng khác, rồi sau đó cô không thể trông thấy hắn nữa, chỉ còn là tay chân vung vẩy túi bụi. Ẩy vậy mà, cô nghĩ mình vẫn nghe thấy hắn cười, kể cả khi có ánh kim loại lóe lên – một lưỡi dao – rồi Maia thấy mình nín thở.
“Đủ rồi.”
Là tiếng chú Luke, bình thản, kiên định như nhịp tim. Thật là lạ khi bạn luôn nghe ra tiếng của sói đầu đàn. Maia quay lại thấy chú đang đứng ngay cửa quán, một tay chống lên tường. Trông chú không chỉ có vẻ mệt mỏi, mà là kiệt sức, như có gì đó cắn xé chú từ bên trong; tuy vậy giọng chú vẫn vang lên vô cùng bình tĩnh. “Đủ rồi. Để thằng nhóc yên.”
Cả đàn tản ra khỏi tay Thợ Săn Bóng Tối, chỉ trừ Bat vẫn ương bướng đứng đó, một tay vẫn nắm lấy lưng áo Thợ Săn Bóng Tối, tay kia vẫn lăm le con dao găm. Gã trai kia mặt mày có bê bết máu nhưng trông chẳng giống gì người cần được cứu giúp; hắn vẫn toe toét nụ cười trông đáng sợ chẳng kém mớ kính vỡ rải rác khắp sàn nhà. “Thằng này không chỉ là một thằng nhóc,” Bat nói. “Hắn là Thợ Săn Bóng Tối.”
“Chúng ta chào đón họ tới đây,” Luke nói, giọng đều đều. “Họ là đồng minh với chúng ta.”
“Hắn nói đồng minh hay không chẳng là cái thá gì sất,” Bat giận dữ. “Chuyện Joseph…”
“Biết rồi,” Luke lặng lẽ nói. Chú chuyển sang nhìn gã trai tóc vàng. “Cậu tới đây chỉ để gây sự thôi, phải không Jace Wayland?”
Gã bai kia – Jace – mỉm cười, bành cái môi bầm dập ra để cho một dòng máu nhỏ rỉ xuống cằm. “Chú Luke.”
Bat giật mình khi nghe tên thủ lĩnh vang lên từ miệng Thọ Săn Bóng Tối, liền thả lưng áo Jace ra. “Tôi không biết..”
“Chẳng có gì để biết cả,” chú Luke nói, và sự mệt mỏi giờ đã ngấm vào trong tận giọng nói của chú.
Freaky Pete nói, đùng đục như tiếng trống. “Cậu ta nói hội Clave không quan tâm tới cái chết của một người sói, kể cả khi đó là một đứa nhỏ. Và đây mới là một tuần sau Hiệp ước Hòa Bình được thiết lập, Luke ạ.”
“Jace không phải phát ngôn viên của hội Clave,” chú Luke nỏi, “và cậu ta chằng thể làm được gì đâu dù có muốn lắm đi nữa. Có đúng không?”
Chú đưa mắt nhìn Jace, lúc này trông khá tái. “Làm sao chú…”
“Tôi biết chuyện gì đã xảy ra,” Luke nói. “Về Maryse.”
Jace đanh người, trong thoáng chốc Maia đã nhìn xuyên qua được cái lớp vỏ bọc của sự vui thú ác độc giống Daniel kia mà đến được những gì bên dưới, chạm tới một cái gì đó tối tăm, thống khổ và khiến cô nhớ tới đôi mắt mình trong gương hơn đôi mắt người anh trai. “Ai nói vói chú? Clary à?”
“Không phải Clary.” Maia chưa bao giờ nghe Luke nhắc tới cái tên đó, nhưng âm điệu giọng nói chú cho cô biết đó là một người đặc biệt với chú và với chính tay Thợ Săn Bóng Tối này nữa. “Tôi là sói đầu đàn mà Jace. Tôi nghe thấy nhiều chuyện. Giờ đi thôi. Chúng ta vào văn phòng cùa Pete mà nói chuyện.”
Jace hơi lưỡng lự rồi nhún vai. “Được thôi,” anh ta nói, “nhưng chú nợ cháu ly Scotch cháu chưa uống kia nhé.”
‘‘Mình chỉ nghĩ ra được thêm mỗi nơi này nữa thôi,” Clary thở dài thất vọng rồi ngồi sụp xuống những bậc cấp bên ngoài Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan và chán nản nhìn đại lộ Năm.
“Mình thấy ý kiến của cậu đâu có tồi.” Simon ngồi xuống cạnh cô, duỗi thẳng đôi chân dài ngoằng. “Ý mình là, anh ta thuộc tuýp người thích vũ khí và chết chóc, vậy thì vì sao anh ta lại không có mặt ở kho vũ khí lớn nhất thành phố chứ? Với lại dù sao mình cũng luôn muốn tới tham quan khu triển lãm Vũ Khí và Giáp Sắt mà. Giúp mình có ý tưởng cho chiến dịch.”
Clary ngạc nhiên nhìn bạn. “Cậu vẫn chơi game với Eric, Kirk và Matt à?”
“Vẫn. Sao lại không chứ?”
“Mình cứ tưởng mấy trò game đấy đã thôi không còn hấp dẫn với cậu nữa kể từ khi…” Kể từ khi cuộc sống thực của chúng ta bắt đầu giống với một trong những chiến dịch ảo của cậu rồi chứ. Với đủ loại người tốt, kẻ xấu, những trò ma pháp ghê gớm, và mỏi mắt đi tìm những vật linh thiêng quan trọng nếu muốn là người thắng cuộc.
Chỉ có điều trong game, người tốt luôn thắng, luôn đánh bại bọn xấu và hân hoan trở về với cả đống báu vật trong tay. Trong khi đấy ở thế giới thực, người tốt chỉ có trắng tay, và lắm lúc Clary chẳng biết thực sự ai tốt ai xấu nữa.
Cô nhìn Simon và thấy nỗi buồn dâng trào trong tim. Nếu cậu thực sự từ bỏ game, đó sẽ là lỗi do cô, cũng như tất cả những chuyện xảy ra cho cậu trong mấy tuần rồi đều là lỗi của cô hết. Cô vẫn nhớ y nguyên gương mặt trắng bệch của Simon trong nhà bếp, ngay trước khi cậu hôn cô.
“Simon à…” cô cất tiếng.
“Ngay lúc này mình đang chơi nhân vật tu sĩ lai quỷ lùn muốn trả thù lũ Orc vì đã sát hại gia đình anh ta,” Simon vui vẻ nói. “Hấp dẫn vô cùng.”
Clary vừa cười thì điện thoại đổ chuông. Cô rút ra khỏi túi và bật mở; chú Luke gọi. “Bọn cháu không tìm thấy anh ấy,” cô nói, trước khi chú kịp chào.
“Không tìm được đâu. Nhưng chú tìm ra rồi.”
Cô ngồi thẳng dậy. “Chú đừng đùa. Anh ấy có đó không ạ? Cháu nói chuyện với anh ấy được không?” Cô thoáng thấy Simon đang liếc nhìn và liền hạ giọng. “Anh ấy ổn chứ ạ?”
“Gần như thế.”
“Gần như thế là sao ạ?”
“Cậu ta gây sự với một đàn sói. Bị bầm dập và trầy xước chút xíu.”
Clary nhắm hờ mắt. Ôi, vì sao, vì sao Jace lại gây sự với một đàn người sói chứ? Anh ấy bị cái gì nhập vậy? Mà thôi, vì đấy là Jace mà. Anh ấy sẵn sàng chọi nhau với xe tải Mack nếu anh ta lên cơn.
“Chú nghĩ cháu nên xuống đây,” Luke nói. “Phải có người nói phải quấy với cậu ta mà chú thì không có cửa rồi.”
“Chú ở đâu?” Clary hỏi.
Chú ấy nói địa chỉ. Một quán bar mang tên Hunter’s Moon tại đường Hester. Cô tự hỏi liệu nơi đó có bị ếm bùa ảo ảnh không. Gập điện thoại lại, cô quay sang Simon, lúc này nhướn mày nhìn cô chăm chú.
“Đứa con hoang tàn đã trở về hở?”
“Đại loại thế.” Cô lồm cồm đứng dậy rồi duỗi dài đôi chân đã đi tới rệu rã, trong đầu óc tính toán xem từ đây tới khu Chinatown bằng tàu mất bao nhiêu thời gian và liệu dùng số tiền tiêu vặt chú Luke cho để đi taxi có đáng không. Có lẽ là không – nếu tắc đường, họ sẽ mất nhiều thời gian hơn là đi tàu.
“… đi với cậu nhé?” Simon nói nốt và đứng dậy. Cậu đứng dưới cô một bậc cấp, vì thế họ gần như cao bằng nhau. “Cậu nghĩ sao?”
Cô mở miệng, nhưng nhanh chóng ngậm miệng lại. “Ờ…”
Simon có vẻ cam chịu. “Cậu không nghe lấy một chữ mình nói trong suốt hai phút rồi, đúng không?”
“Không thật,” cô thừa nhận. “Mình đang nghĩ về Jace. Nghe có vẻ anh ấy đang trong tình trạng không được tốt cho lắm. Mình xin lỗi cậu.”
Đôi mắt nâu của cậu bạn tối sầm. “Thế nghĩa là cậu đang muốn vội tới để băng bó vết thương cho anh ta đúng không?”
“Chú Luke bảo mình tới,” cô nói. “Mình mong có cậu đi cùng.”
Simon đá mũi giày vào bậc thềm phía trên. “Mình sẽ đi, nhưng… vì sao? Chú Luke không thể đưa Jace trở về Học Viện mà không có cậu giúp sao?”
“Có lẽ. Nhưng chú ấy nghĩ có thể Jace sẵn lòng kể cho mình nghe chuyện đã xảy ra trước đã.”
“Mình cứ tưởng tối nay bọn mình có thể làm gì đó cơ đấy,” Simon nói. “Cái gì đó hay ho. Đi xem phim. Xuống phố ăn tối.”
Clary nhìn cậu bạn mình. Từ đằng xa, cô nghe có tiếng nước róc rách chảy vào đài phun nước của bảo tàng. Cô nghĩ tới gian bếp trong nhà Simon, nhớ bàn tay âm ấm của Simon đan vào tóc cô, nhưng dường như ký ức đó đã quá xa xôi, dù cô vẫn có thế mường tượng ra trước mắt – theo cái cách bạn có thể nhớ về hình ảnh một biến cố nhưng chẳng thể nhớ chính xác biến cố đó là gì.
“Anh ấy là anh mình,” cô nói. “Mình phải đi.”
Simon nhìn như thể cậu ấy kiệt sức tới thở dài cũng chẳng nổi. “Vậy mình sẽ đi với cậu.”
* * *
Văn phòng đằng sau quán Hunter’s Moon nằm cuối một hành lang hẹp rải rác mùn cưa. Đây đó mùn cưa có in dấu chân người và rải rác những bãi chất lỏng đen đặc trông không giống bia cho lắm. Toàn bộ nơi này bốc mùi khói và ôi thiu, hơi hơi giống như mùi – Clary phải thừa nhận, nhưng không dám nói với chú Luke – mùi chó ướt.
“Giờ tâm trạng Jace không được tốt cho lắm,” Luke nói khi dừng lại trước cánh cửa đóng kín. “Chú đã nhốt cậu ta trong phòng Freaky Pete sau khi nó sém chút đã giết hết gần nửa số sói trong đàn của chú bằng tay không. Nó không thèm nói chuyện với chú, vì thế” – Luke nhún vai – “chú nghĩ tới cháu.” Chú hết nhìn gương mặt bối rối của Clary rồi lại nhìn Simon. “Sao thế?”
“Cháu không thể tin rằng anh ấy lại tới đây,” Clary nói.
“Cháu không thể tin nổi là chú lại quen một người tên Freaky Pete,” Simon nói.
“Chú biết nhiều người,” Luke nói. “Kể ra thì Freaky Pete cũng không hoàn toàn là người, nhưng mà chú cũng vậy thôi.” Chú mở rộng cánh cửa. Bên trong là một căn phòng bố trí nội thất đơn giản, không có cửa sổ, trên tường treo những lá cờ thể thao. Một chiếc bàn giấy ngổn ngang giấy tờ oằn mình dưới sức nặng của cái TV nho nhỏ, và đằng sau nó, trên chiếc ghế da đã rạn trông như vân đá hoa cương, là Jace.
Lúc cửa bật mở, Jace nhặt chiếc bút chì màu vàng trên bàn và phi đi. Cây bút bay vèo và cắm phập vào bức tường ngay bên cạnh đầu chú Luke mà rung lên bần bật. Mắt chú Luke mở lớn.
Jace cười nhạt. “Xin lỗi, cháu không nhận ra đó là chú.”
Clary cảm thấy tim mình như thắt lại. Nhiều ngày nay cô không được gặp Jace, và trông anh hình như có gì khang khác – không tính tới gương mặt bầm dập và bê bết máu đâu nhé, rõ ràng là còn mới toanh, nhưng hình như da mặt anh có vẻ căng hơn, đường xương nổi rõ hơn.
Luke vẫy tay chỉ vào Simon và Clary. “Tôi đưa vài người tới gặp cậu.”
Giờ Jace đã nhìn hai người. Ánh mắt anh chẳng có một chút cảm xúc nào, như thể có người vẽ đôi mắt đó lên gương mặt anh vậy. “Đáng tiếc là,” anh nói, “cháu chỉ có mỗi một cây bút chì.”
“Jace à…” chú Luke cất tiếng.
“Không muốn cậu kia ở đây.” Jace hất hàm về phía Simon.
“Vậy đâu có được.” Clary phẫn nộ. Chẳng lẽ anh ấy đã quên chuyện Simon đã cứu mạng Alec, và có lẽ là mạng tất cả bọn họ sao?
“Ra ngoài, đồ người thường,” Jace nói và chỉ về cửa.
Simon phẩy tay. “Tốt thôi. Mình đợi ngoài hành lang nhé.” Cậu bỏ đi, cố kiềm chế để không đóng sầm cửa lại, dù Clary biết thừa cậu muốn muốn làm thế lắm.
Cô quay lại với Jace. “Anh có nhất thiết phải quá…” cô mở lời, nhưng ngừng lại khi thấy nét mặt anh. Gương mặt anh thật buồn, thật oan ức.
“Khó chịu hả?” anh nói hộ cô. “Chỉ vào những ngày mẹ nuôi anh ném anh ra khỏi nhà và bảo anh đừng bao giờ làm ô uế cửa nhà bà lần nữa thôi. Còn bình thường, anh mát tính lắm mà. Em thử kiểm tra lại thái độ của anh vào những ngày không kết thúc bằng chữ y xem nhé.”
Chú Luke nhíu mày. “Maryse và Robert Lightwood không phải là những người tôi ưa thích gì, nhưng vẫn không thể tin được là Maryse lại làm vậy.”
Jace có vẻ ngạc nhiên. “Chú biết họ sao? Nhà Lightwood ấy?”
“Họ từng trong Hội Kín với tôi,” Luke nói. “Khá là ngạc nhiên khi nghe nói họ điều hành trụ sở Học Viện ở đây. Có vẻ sau vụ Nổi Loạn, họ đã thỏa thuận thế nào đấy với hội Clave, để đổi lại chút đối đãi khoan nhượng cho họ, trong khi Hodge thì – ừm, chúng ta đều biết chuyện gì xảy ra với ông ấy rồi đấy.” Chú trầm ngâm một lát. “Vậy, Maryse có nói trắng nguyên nhân cô ta đuổi cháu không?”
“Mẹ nuôi không tin việc cháu nghĩ mình là con trai Michael Wayland thật. Bà cho rằng cháu là quân đồng lõa với Valentine ngay từ đầu – nói rằng cháu đã giúp ông ấy lấy Cốc Thánh và bỏ trốn.”
“Nếu thật vậy thì vì sao anh lại còn ở đây?” Clary hỏi. “Sao lẽ ra anh đã không bỏ đi cùng ông ấy chứ?”
“Bà không nói, nhưng anh đoán bà nghĩ anh ở lại nằm vùng. Một con rắn độc nằm trong ngực áo của họ. Không phải là Maryse đã dùng từ ‘ngực’ gì đâu, nhưng chắc chắn bà có ý đó.”
“Một gián điệp cho Valentine ư?” chú Luke nói với vẻ chán nản.
“Bà nghĩ Valentine cho rằng vì tình cảm mà gia đình Lightwood đã dành cho cháu, nên họ sẽ tin mọi lời cháu nói. Thế nên bà Maryse quyết định giải pháp tốt nhất cho việc này là họ không được có tình cảm tình củm gì với cháu nữa.”
“Tình cảm yêu thương đâu có theo cách đó được.” Luke lắc đầu. “Ta đâu thể nào muốn ngừng là ngừng, như tắt nước đâu. Đặc biệt nếu cháu làm cha làm mẹ.”
“Họ không thực sự là bố mẹ cháu.”
“Công sinh thành sao bằng công nuôi dưỡng. Việc họ đã làm cha mẹ cháu trong suốt bảy năm trời mới là điều quan trọng. Chắc Maryse chỉ bị tổn thương mà thôi!”
“Tổn thương ư?” Jace có vẻ ngờ vực “Bà ấy bị tổn thương sao?”
“Cô ta yêu Valentine, nhớ không” chú Luke nói. “Tất cả chúng ta đều vậy. Hắn đã làm cô ta tổn thương sâu sắc. Cô ta không muốn con trai hắn làm điều tương tự với mình nữa. Cô ta lo rằng cậu sẽ nói dối gia đình họ. Rằng người mà cô ta tưởng mình hiểu suốt bao nhiêu năm qua chẳng qua chỉ là vỏ bọc, một trò lừa đảo. Cậu phải an ủi làm cho cô ta có lại niềm tin nơi cậu.”
Vẻ mặt của Jace là một nét pha trộn hoàn chỉnh giữa ương ngạnh và kinh ngạc. “Bà Maryse là người lớn! Sao lại cần cháu an ủi chứ.”
“Ôi, thôi nào, Jace,” Clary nói. “Anh không thể trông chờ ai ai cũng cư xử hoàn hảo được. Người lớn cũng mắc lỗi mà. Quay lại Học Viện mà nói lý với bà ấy đi. Hãy là một người đàn ông xem nào.”
“Anh không muốn làm đàn ông,” Jace đáp. “Anh chỉ muốn làm một cậu thiếu niên đang quằn quại trong đau khổ, người không thể đương đầu nổi với con quỷ nội tâm của mình nên phải lu loa lên với người khác.”
“Hừ,” chú Luke nói, “thế thì cậu đang lu loa rất chuẩn đấy.”
“Jace,” Clary vội nói, trước khi hai chú cháu họ lại xảy ra xung đột gay gắt, “anh phải trở về Học Viện. Hãy nghĩ cho Alec vói Izzy, hãy nghĩ xem chuyện anh bỏ nhà ra đi gây ảnh hưởng thế nào tới họ.”
“Bà Maryse sẽ dựng lên lý do gì đấy làm họ nguôi ngoai thôi mà. Có thể bà ấy sẽ bảo là anh trốn nhà đi bụi cũng nên.”
“Không được đâu,” Clary bảo. “Lúc Isabelle nói chuyện trên điện thoại nghe có vẻ hoảng hốt lắm.”
“Lúc nào con bé ấy nghe chẳng hoảng hốt,” Jace nói, nhưng trông anh có vẻ hài lòng. Anh tựa người ra sau ghế. Những vết bầm dọc quai hàm và má giống anh nổi bật lên như những Ấn Ký đen, không hình không dạng trên da. “Anh sẽ không về nơi mà ở đó anh không được tin tưởng. Anh không phải thằng nhóc mười tuổi nữa. Anh có thể tự lo cho mình.”
Chú Luke trông có vẻ như không tin tưởng lắm. “Cậu sẽ đi đâu? Cậu sẽ sống thế nào?”
Ánh mắt Jace sáng lên. “Cháu mười bảy tuổi rồi. Về cơ bản đã là người lớn. Bất cứ Thợ Săn Bóng Tối trưởng thành nào đều được quyền…”
“Bất cứ người lớn nào. Nhưng không phải cậu. Cậu không thể lấy lương từ hội Clave vì cậu còn quá trẻ, và trên thực tế theo Luật thì nhà Lightwood phải chăm sóc cho cậu. Nếu không, người khác sẽ được chỉ định để…”
“Nếu không thì sao?” Jace bật dựng lên khỏi ghế. “Cháu sẽ vào trại trẻ mồ côi ở Idris à? Bị quẳng vào một gia đình mà cháu chưa từng biết mặt ư? Cháu có thể kiếm việc tại thế giới người thường trong một năm, sống như một người trong số họ…”
“Không, anh không thế,” Clary nói. “Em biết rõ lắm, Jace à, vì em từng là một trong số họ. Anh còn quá trẻ nên sẽ không thể được việc anh muốn, và hơn nữa, những kỹ năng anh có – ừm, hầu hết những kẻ giết người chuyên nghiệp đều lão làng hơn anh. Mà họ là tội phạm đấy.”
“Anh không phải kẻ giết người.”
“Nếu cậu sống ở thế giới con người,” chú Luke nói, “thì cậu chỉ có thể làm quân giết người mà thôi.”
Jace cứng đờ người, miệng mím chặt, và Clary biết lời nói của chú Luke đã đánh trúng điểm yếu của anh. “Chú không hiểu rồi,” anh bảo, vẻ tuyệt vọng đột ngột dâng trào trong giọng nói. “Cháu không thể trở lại. Bà Maryse muốn cháu nói cháu ghét Valentine. Và cháu không thể làm điều đó.”
Jace hếch cằm lên, quai hàm nghiến lại, mắt nhìn thẳng chú Luke như thể nửa hy vọng người đàn ông lớn tuổi hơn kia sẽ trả lời anh kèm theo những lời chế nhạo hoặc thậm chí là tệ hơn thế. Xét cho cùng thì chú Luke có lý do để ghét Valentine hơn bất cứ ai trên thế giới này.
“Tôi biết chứ,” Luke nói. “Tôi cũng đã từng rất yêu quý hắn mà.”
Jace thở hắt ra, nghe như thanh âm nhẹ nhõm, và Clary đột nhiên nghĩ, Đó chính là lý do vì sao anh ấy tới đây, tới chính nơi này. Không phải chỉ để gây gổ, mà là để tìm chú Luke. Bởi vì chú Luke sẽ hiểu anh. Không phải mọi thứ Jace làm đều điên rồ hay đâm đầu vào chỗ chết đâu, cô tự nhủ. Chỉ thoạt trông có vẻ là vậy thôi.
“Cậu không việc gì phải tuyên bố rằng mình ghét bố đẻ của mình,” chú Luke nói. “Thậm chí là để trấn an Maryse. Cô ta phải hiểu điều đó.”
Clary chăm chú nhìn Jace, cố đọc cho ra vẻ mặt của anh. Gương mặt ấy giống một cuốn sách viết bằng thứ tiếng nước ngoài mà cô mới học được chóng vánh. “Bà ấy có thực sự nói là không bao giờ muốn anh quay về không?” Clary hỏi. “Hay anh chỉ đoán bà ấy có ý đó và vì thế anh đã bỏ đi?”
“Bà ấy đã nói với anh rằng tốt hơn hết anh nên đến ở tạm một nơi nào đó trong một thời gian,” Jace nói. “Bà ấy không nói nơi nào.”
“Cậu có cho cô ta cơ hội nói không?” chú Luke hỏi. “Nghe này, Jace. Tôi luôn chào đón cậu tới sống với tôi đến bao lâu cũng được. Tôi muốn cậu hiểu điều đó.”
Dạ dày Clary nhộn nhạo. Ý nghĩ Jace sống cùng nhà với cô, luôn ở gần, khiến cô vừa hân hoan vừa kinh sợ.
“Cảm ơn chú,” Jace nói. Giọng anh đều đều, nhưng ánh mắt ngay lập tức nhìn Clary một cách vô vọng, và cô có thể thấy trong đó những cung bậc cảm xúc đan xen lẫn lộn mà chính cô vừa cảm nhận được. Chú Luke ơi, cô nghĩ. Đôi lúc cháu ước chú đừng quá hào phóng thế kia. Hay chẳng tinh mắt tí nào.
“Nhưng,” chú Luke nói tiếp, “tôi nghĩ ít nhất cậu nên trở về Học Viện nói chuyện với Maryse để xem mọi chuyện thực hư thế nào. Nghe có vẻ như chuyện này còn nhiều căn nguyên hơn là những điều cô ta nói với cậu. Mà rất có thể, là còn nhiều hơn những điều cậu sẵn lòng muốn nghe nữa đấy.”
Jace dứt mắt khỏi Clary. “Được thôi.” Giọng anh thô lỗ. “Nhưng với một điều kiện. Cháu sẽ không đi một mình.”
“Em sẽ đi cùng anh,” Clary vội nói.
“Anh biết.” Jace hạ giọng. “Và anh muốn em đi. Nhưng cũng muốn chú Luke đi cùng.”
Chú Luke có vẻ giật mình. “Jace – chú đã sống ở đây mười lăm năm và chú chưa từng tới Học viện. Chưa từng một lần. Chú không nghĩ Maryse thích thú gì chú…”
“Làm ơn đi chú,” Jace nói, và dù giọng anh đều đều và anh nói khá nhỏ, nhưng Clary gần như có thể cảm nhận được, như thể cảm nhận một thứ hữu hình, lòng tự tôn mà anh đã phải gạt bỏ đi để nói ra bốn chữ đó.
“Được thôi.” Chú Luke gật đầu, theo kiểu một một con sói đầu đàn đã quen phải làm làm những chuyện cần làm, dù muốn hay không. “Vậy chú sẽ đi cùng cháu.”
Simon dựa người lên bức tường hành lang bên ngoài phòng Pete và cố để không thấy thương hại cho bản thân.
Ngày hôm nay khởi đầu khá tốt. Có khi còn quá tốt ấy chứ. Đầu tiên là một tập phim chẳng hay ho gì về Dracula khiến cậu thấy chóng mặt buồn nôn, gợi dậy lên bao cảm xúc, bao khát khao mà cậu bấy lâu nay đã cố đè nén, cố quên đi. Rồi không hiểu sao cảm giác mệt mỏi đó đã làm cậu bạo gan lên và cậu thấy mình đã hôn Clary theo cách bao nhiêu năm nay cậu hằng mong ước. Mọi người luôn nói rằng mọi thứ không bao giờ xảy ra theo hướng họ tưởng tượng. Họ sai hết.
Và Clary đã đáp lại cậu…
Nhưng giờ cô lại ở trong kia cùng Jace, còn Simon thì thấy dạ dày xoắn lại, như thể nuốt cả tô giun vào bụng. Đó là cảm giác nhờn nhợn cậu thường xuyên cảm thấy gần đây. Trước giờ có khi nào như vậy đâu, kể cả sau khi cậu nhận ra mình cảm thấy thế nào về Clary. Cậu chưa bao giờ thúc ép cô, chưa bao giờ lộ cảm xúc. Cậu luôn tin chắc rằng một ngày nào đó cô sẽ thức dậy khỏi giấc mơ của công chúa và anh hùng có võ công của cô mà nhận thức được điều đang rành rành trước mặt: rằng họ thuộc về nhau. Và nếu cô có vẻ không thích Simon, thì ít nhất cô hình như cũng không thích một ai khác.
Cho tới khi Jace xuất hiện. Cậu nhớ cái lần ngồi trên bậc tam cấp hàng hiên nhà chú Luke, nhìn Clary khi cô giải thích với cậu Jace là ai, anh ta làm gì trong khi Jace chăm chú ngắm nghía bộ móng tay và mặt vênh vênh vẻ trịch thượng. Simon hầu như chẳng nghe cô nói gì. Cậu đang bận quan sát cách cô nhìn anh chàng tóc vàng trên người đầy những hình xăm kỳ lạ và khuôn mặt góc cạnh đẹp đẽ. Quá đẹp đẽ, Simon đã nghĩ, nhưng rõ ràng Clary không nghĩ vậy: Cô nhìn anh ta như thể anh ta là một trong số các chàng anh hùng trong phim hoạt hình đã bước ra ngoài đời thực. Cậu chưa từng thấy cô nhìn ai theo kiểu đó, và luôn nghĩ nếu có, thì cái ánh nhìn đó phải là dành cho cậu. Nhưng không, và điều đó làm cậu đau đớn hơn hết thảy.
Phát hiện ra Jace là anh trai Clary giống như việc bạn vừa bị đưa ra trước một đội xử bắn rồi lại được miễn hoãn thi hành vào phút cuối. Đột nhiên thế giới dường như lại bừng lên đầy hứa hẹn.
Nhưng giờ thì cậu không chắc.
“Này đằng đó ơi.” Có ai đó đang đi dọc hành lang, một người không cao lắm đang cẩn thận tìm đường đi qua những vũng máu khô. “Cậu đang đợi gặp chú Luke hả? Chú ấy có trong đó không?”
“Không hẳn.” Simon tránh khỏi cánh cửa. “Ý tôi là, kiểu kiểu như thế. Chú ấy ở trong đấy với bạn của tôi.”
Cái người đang tiến tới chỗ cậu, dừng lại nhìn Simon chăm chú. Simon có thể thấy đấy là một cô gái khoảng mười sáu tuổi, với nước da nâu sáng mịn màng. Mái tóc màu nâu vàng được bện sát da đầu thành rất nhiều những bím tóc nhỏ xíu, và gương mặt cô ta gần giống hình trái tim. Cô ta có thân hình thon gọn, sở hữu đường hoàn hảo, hông rộng nở ra từ vòng eo nhỏ. “Vói cái người ở ngoài quán sao? Tay Thợ Săn Bóng Tối ấy hả?”
Simon nhún vai.
“Ừm, mình ghét phải nói với đằng đó điều này,” cô ta nói “ nhưng bạn đằng đó là một thằng khốn.”
“Anh ta không phải bạn tớ,” Simon nói. “Mà thực ra, tớ hoàn toàn nhất trí với cậu.”
“Nhưng tớ nghĩ đằng đó vừa bảo…”
“Tớ đang đợi em gái anh ta,” Simon nói. “Cô ấy là bạn thân của tớ.”
“Và giờ cô ấy ở trong đó với hắn à?” Cô gái xỉa ngón cái về phía cửa. Cô đeo nhẫn hết cả mười ngón tay, nhũng chiếc nhẫn làm từ đồng hoặc vàng trông thô thô. Quần bò đã bạc màu nhưng còn sạch sẽ và khi cô ta quay đầu, cậu thấy vết sẹo chạy dọc cổ, ngay trên cổ áo phông. “À,” cô ta nói một cách miễn cưỡng, “tớ hiểu quá rõ về những thằng anh khốn nạn. Tớ đoán không phải là lỗi của cô ấy.”
“Không,” Simon nói. “Nhưng cô ấy có thể là người duy nhất mà hắn nghe lời.”
“Theo tớ thấy hắn đâu phải loại biết lắng nghe nhỉ,” cô gái nói, và hai người liếc nhau. Sự vui vẻ bừng sáng trên khuôn mặt cô gái lạ mặt kia. “Cậu đang nhìn vết sẹo của tớ. Đó là chỗ tớ bị cắn đấy.”
“Bị cắn ư? Ý cậu là cậu là…”
“Một người sói,” cô gái đáp. “Giống như mọi người khác ở đây. Ngoại trừ cậu, cả tên khốn kia nữa. Và cô em gái của tên khốn kia.”
“Nhưng cậu không phải lúc nào cũng là người sói. Mình muốn nói, cậu không phải người sói bẩm sinh.”
“Hầu hết bọn tớ đều không phải,” cô gái nói. “Chính vì thế bọn tớ mới khác với những anh bạn Thợ Săn Bóng Tối kia của cậu.”
“Hả?”
Cô ta cười gọn lỏn. “Chúng tớ từng là người.”
Simon không nói gì. Sau một lúc cô gái chìa tay ra. “Tớ là Maia.”
“Simon.” Cậu bắt tay. Bàn tay Maia khô nhưng mềm mại. Cô nàng ngước lên nhìn qua hàng lông mi nâu vàng, giống màu bánh mì nướng phết bơ. “Sao cậu biết Jace là thằng khốn?” cậu hỏi. “Hay có lẽ tớ nên hỏi, sao cậu phát hiện ra?”
Cô ta rụt tay lại. “Hắn quậy tan tành quán ra. Đả bay anh bạn Bat của tớ. Thậm chí còn đánh bất tỉnh hai người trong đàn.”
“Và giờ họ ổn cả rồi chứ?” Simon hoảng hốt. Jace trông chừng như không có vẻ gì là đang bấn loạn cả, nhưng sau một thời gian quen biểt, Simon hiểu anh ta có thể giết chết vài người chỉ trong vòng một buổi sáng và sau đó sẵn sàng đi ra ngoài ăn bánh quế như thường. “Họ đi khám bác sĩ chưa thế?”
“Có pháp sư rồi,” cô gái nói. “Loài bọn tớ ấy à, không hợp với bác sĩ loài người lắm.”
“Cư dân Thế giới Ngầm á?”
Cô ta nhướn mày. “Hình như có người đã dạy cậu tất cả những biệt ngữ rồi nhỉ?”
Simon tự dưng thấy giận. “Sao cậu biết tớ không phải một ngưòi như họ chứ? Hay người như cậu thì sao? Hay biết đâu tớ lại là một Thợ Săn Bóng Tối, hoặc một loài khác trong Thế giới Ngầm, hay…”
Cô ta lắc đầu khiến những bím tóc lắc lư theo. “Nó cứ ngời ngời tỏa khắp người cậu kìa,” cô ta nói với chút cay đắng, “cái tính người của cậu ấy.”
Vẻ căng thẳng trong giọng nói cô gái khiến Simon suýt rùng mình. “Tớ có thể giúp cậu gõ cửa,” cậu đề nghị, đột nhiên cảm thấy lúng túng. “Nếu cậu muốn nói chuyện với chú Luke.”
Cô ta nhún vai. “Cứ nói với chú ấy là Magnus ở đây, kiểm tra hiện trường vụ án trong hẻm.” Chắc hẳn vì cậu giật mình, nên Maia đã nói thêm. “Magnus Bane. Ông ấy là pháp sư.”
Tớ biết, Simon muốn nói, nhưng im lặng. Toàn bộ cuộc nói chuyện đã kỳ quái lắm rồi. “Được thôi.”
Maia quay người như muốn đi, nhưng dừng lại giữa hành lang, đặt tay lên nắm đấm cửa. “Cậu nghĩ bạn cậu có thể nói lý lẽ với hắn ta sao?” cô ta hỏi. “Cô em gái hắn ấy?”
“Nếu hắn lắng nghe một ai đó, thì đó sẽ là cô ấy.”
“Dễ thương chưa,” Maia nói. “Kiểu như hắn mà lại yêu em gái mình đến thế.”
“Ừ,” Simon nói. “Quý hóa lắm đấy.”