Viên Nguyệt Loan Đao

Chương 28: Tử Vong Sơn Cốc


Bạn đang đọc Viên Nguyệt Loan Đao – Chương 28: Tử Vong Sơn Cốc

Đây là một sơn cốc rất âm u, dù mặt trời chói lọi giữa trưa, trong sơn cốc
vẫn mây mù che phủ dày đặc.
Sơn cốc rất hẹp, quanh năm vụ khí mù mịt, không rõ nông sâu, tự nhiên
chẳng ai dám liều lĩnh leo xuống.
Trong vụ khí bốc lên một khí vị đặc biệt, khi mặt trời chiếu xuống, hiện lên
ánh sáng bảy màu rực rỡ.
Đây gọi là chướng khí, hàm chứa chất độc; tiều phu lạc đường tình cờ thấy
mấy con chim nhỏ bay ngang phía trên vụ khí, không cẩn thận, bị nhiễm một
chút hơi độc, lập tức dãy chết nhào xuống dưới đáy sơn cốc vô tận.
Cũng có người không rõ, vô tình đi tới cạnh sơn cốc, hít nhằm chút vụ khí,
lập tức ngã xuống hôn mê bất tỉnh.
Đây là một sơn cốc đượm vẻ chết chóc. Tử vong sơn cốc.
Cách cửa sơn cốc hai dặm, có người dựng một tấm biển gỗ, khuyên người đi
đường chớ tới gần, vì trong cốc có nhiều hung hiểm.
Một nơi đầy khủng bố như vậy, tự nhiên có nhiều lời đồn quái dị; điểm quái
dị nhất là trong cốc có Ma thần.
Ma thần là một nữ nhân rất xinh đẹp; nghe nói, có một tiều phu từng nhìn
thấy nữ nhân Ma thần cỡi trên vân vụ là đà lưng chừng sơn cốc.
Ngày thứ nhất, tiều phu này xuống núi trước mọi người còn tán dương mỹ
mạo của nữ nhân Ma thần, nhưng đến ngày thứ hai, toàn thân hắn đã sưng phù,
biến thành màu đen, nằm chết trên giường; kiễm tra tử thi, nhận thấy hắn bị
trúng một loại độc chướng rất lệ hại. Thế rồi, các phụ lão trong thôn đồn đại,
trong cốc có thần chướng lệ.
Kế đó, có kẻ hiếu sự hơn, đã dựng lên một ngôi miếu Chướng thần nương
nương, tạc một pho tượng nữ thần thờ trong miếu.
Vì gã tiều phu trông thấy Nữ thần đã chết, nên hình tượng nữ thần chỉ tạc
theo luân quách đại khái do lời gã tiều phu kể lại; lại thêm thủ nghệ của thợ tạc
tượng không được cao minh lắm, nên pho tượng nữ thần trông giống như một phụ
nhân trung niên đẫy đà, chẳng có vẻ gì là mỹ miều.
Có điều, đèn hương trong miếu không lúc nào ngớt, do một lão bà bà trông
coi. Phàm người trúng chướng khí, đến miếu cầu xin một gói nhỏ tàn nhang đem
về uống, lập tức khỏi ngay, còn linh nghiệm hơn thầy thuốc cao minh.
Có người từng thử qua, đó là một du phương cử nhân, trúng độc chướng, ngụ
nơi khách sạn trong huyện thành, đã uống thuốc của mấy vị danh y trong vùng
cũng không khỏi bệnh. Thằng nhỏ theo hầu cử nhân đó, không rõ y nghe được
lời đồn từ đâu, đã đến miếu Chướng thần nương nương, cầu xin một bao tiên
phương, đem về cho chủ uống thấy kiến hiệu lập tức.
Rồi dần già, miếu chướng thần nương nương này đã có tiếng tăm. Vì vậy,
một hôm, có một đoàn xe rất hoa lệ tới, mọi người cũng chẳng lấy làm lạ, vì từ
mấy năm rồi, cũng thường có nhà giàu từ phương xa tới, cầu bái nương nương;
thậm chí, có người không trúng độc chướng, cũng đến cầu khấn xin thuốc.
Đoàn xe hào hoa này đến rất đột ngột, cũng khiến rất nhiều người chú ý;
khi tới, họ liền bao trọn một khách sạn lớn nhất trong trấn.
Bảy tám căn phòng đều được bao thuê. Khách trọ trong hai căn phòng từ
trước, cũng được họ mời dọn ra, vì lão quản gia tùy tùng chủ xe đã bỏ ra hai
mươi lạng bạc để mời họ dọn đi chỗ khác.
Tiền thuê trọ mỗi ngày chỉ có một tiền, bây giờ có người chịu bỏ ra hai mươi
lạng để xin họ dọn đi chỗ khác, hỏi có ai không nguyện ý?
Lão chủ khách sạn chỉ hận mình không đem hết người nhà vào trọ trong
khách sạn.
Lúc lão quản gia hỏi hắn có phòng trống cho thuê không, hắn đã luôn miệng
nói có, rồi ân cần dẫn đi coi từng căn phòng trống.
Lúc đó, lão sợ đối phương không vừa ý chịu thuê; mỗi khi coi xong một
phòng, lão khách quản gia gật đầu một lần, chẳng nói được hay không; nên hắn
nghĩ chắc vuột mất món khách bở này. Ai ngờ, đến cuối cùng, lão quản gia chịu
bao trọn khách sạn, mà còn đích thân thương lượng với hai người khách trọ
trước, bồi thường cho họ hai mươi lạng bạc, xin họ nhường phòng.
Hai mươi lạng bạc, đã đủ bao trọn khách sạn, lão quản gia lại dùng để xin
nhường chỉ một căn phòng.
Sớm biết thế, lão chủ khách sạn đã đưa cả lão bà, con trai, con gái, cả thằng
nhỏ làm việc vặt trong nhà, tống mỗi người vào một căn phòng.
Mỗi người hai mươi lạng, tính ra thật uổng hết một trăm lạng bạc.
May, lúc đó lão quản gia lại hỏi:
– Có phải người nhà của ông chủ cũng ngụ cả trong khách sạn không?
Đây chẳng phải cơ hội đã tới rồi sao? Lão chủ khách sạn vừa định lắc đầu,
nhưng lão quản gia thấy hắn có ý muốn lắc đầu, liền chép miệng than:
– Thật xui cho ông chủ quá, bằng không, ông chủ đã kiếm được một khoản
tiền lớn.
Lão chủ khách sạn vội nói:
– Người nhà tại hạ đều làm việc ở đây, lão bà tại hạ làm dưới bếp, mấy đứa
con đều giúp việc bận rộn, cả nhà đều phải làm việc không ai rảnh, cũng không
thuê người làm. Làm ăn buôn bán nhỏ, chúng tôi không đủ lợi tức để thuê mướn
thêm người.
Lão quản gia cười một tiếng, nói:
– Vậy thì hay quá, lão phu không muốn có người lạ lộn xộn trong khi phu
nhân chúng tôi trọ tại đây. Thế này nhé, nhà ông chủ có bao nhiêu người?
– Không nhiều, bốn người, à không, năm người; hai vợ chồng tại hạ, một
đứa con gái, hai đứa con trai, gồm tất cả năm người. Lão đã kể cả thằng nhỏ
giúp việc vặt thành con mình, vì lão biết đối phương tính theo nhân khẩu, tự
nhiên thêm một người, thêm phần tiền.
Lão quản gia nói:
– Giả như ông chủ có mướn phổ kỵ, xin hãy nói rõ, để lão phu tiện thu xếp.
– Không có, chúng tôi làm ăn kiểu gia đình.
– Tốt, chúng tôi bao trọn khách sạn này của ông chủ, trả ông năm trăm lạng
một ngày, có điều, gồm cả năm người toàn gia ông chủ, mỗi người tính năm
mươi lạng một ngày trong đó, ông chủ có thấy nhiều quá không?
– Không nhiều! Không nhiều! Tiền bạc ai chê nhiều?
Lão quản gia cười:
– Được, chúng ta đã thỏa thuận rồi; chúng tôi ở mấy ngày chưa nhất định, ở
ngày nào trả tiền trọ ngày nấy; đây là ngày thứ nhất, hai trăm năm mươi lạng,
trả trước cho ông chủ.
Lão chủ khách sạn nhận ngân phiếu, tay còn hơi run; có điều, lão ta chưa bị
vui quá thành hồ đồ, vẫn còn biết tính toán, nên hỏi:
– Lão quản gia nói tiền thuê năm trăm lạng một ngày kia mà?
– Đúng vậy, giá thuê cả khách sạn năm trăm lạng, nhưng trừ ra năm nhân
khẩu gia đình ông chủ, mỗi người năm mươi lạng một ngày, tổng cộng là hai
trăm năm mươi lạng…..
– Tại sao lại khấu trừ tiền bạc thuộc nhân khẩu chúng tôi?
– Thì là thế đó, phu nhân nhà lão phu thích yên tịnh sạch sẽ, không muốn
người khác hầu hạ; mọi việc đều do người của lão phu đưa đến phục dịch. Lão
phu đã thuê một khách sạn khác tại huyện bên cạnh, để cho gia đình ông chủ
đến ngụ tạm, tránh người nhà của ông chủ đụng đầu người nhà chúng tôi, còn
phải nuôi các vị ăn nữa. Cho nên, mỗi người khấu trừ năm mươi lạng đã là cao
giá lắm rồi phải không?
Lão chủ khách sạn thiếu điều muốn hộc máu; đương nhiên, lão chẳng thể
nói không phải. Sự thực, món lợi nhuận này cũng đã hậu hỉ đến độ không ai
ngờ.
Lão quản gia đưa tay vẫy gọi hai cỗ xe lại, có năm đại hán theo tới, mỗi đại
hán kèm một người gia đình lão chủ khách sạn đẩy lên xe. Lão chủ ngồi cùng
xe với thằng nhỏ làm việc vặt, lão thấy bộ mặt ngơ ngáo của thằng nhỏ, nó còn
hỏi tới hỏi lui, khiến lão muốn cho nó một nhát dao. Lão nghĩ bụng, vì thằng
chó đẻ mày mà mỗi ngày tao thất thiệt mất năm mươi lạng bạc; cho nên, khi
thằng nhỏ vừa hỏi câu thứ nhất, đã bị lão cho một tát tai nên thân.
o
Kim sư rất thận trọng, cung kính gõ cửa phòng; mới gõ tới tiếng thứ hai,
trong phòng đã có tiếng hỏi vọng ra:
– Ai đó?
– Bẩm thiếu cung chủ, là lão nô.
– Cửa không cài then, mời Kim lão bá vào.
Kim Sư đẩy cửa bước vào, bất giác đứng sững người.
Vì Tạ Tiểu Ngọc đang đứng chải tóc.
o
Chải tóc không có gì gây sợ hãi; hầu như mỗi nữ nhân đều chải tóc. Cả đến
lão thái bà đầu tóc đã rụng gần hết, chỉ còn lưa thưa ít sợi, cũng vẫn không bỏ
được thói quen chải tóc, mỗi ngày vẫn hao phí một khoảng thời gian khá dài,
cẩn thận nhẹ nhàng chải chuốt, sợ rằng bị rụng thêm mất vài sợi nữa.
Nhìn nữ nhân chải tóc là cái thú nhã tục cộng thưởng của nam nhân.
Nhưng phải là mỹ nhân trẻ tuổi, xinh đẹp mới có thể sản sinh mỹ cảm này.
Vì mỗi động tác của người đẹp chải tóc đều nhẹ nhàng, mềm mại, man diệu, mà
còn tán phát khí vị đặc biệt trong không khí. Nước thơm là một loại hương liệu
đặc biệt nấu trong nước sôi, tạo thành một dung dịch quang nhuận, cho nữ nhân
dùng làm trơn mềm đầu tóc. Nữ nhân hiện đại, có đủ loại dầu thơm và nước
làm nhuận tóc, hoàn toàn không rõ sự thiếu thốn hương liệu của các bậc cô dì họ
trước kia dùng để chải tóc. Có điều, nam nhân hiện đại cũng thiếu hẳn lạc thú
nhìn ngắm người đẹp chải tóc.
Nhưng nhìn Tạ Tiểu Ngọc chải tóc, lại là loại tình cảnh khác.
Lúc nàng buông soã đầu tóc trên vai, khuôn mặt nàng từ nét tươi trẻ đầy sức
dụ hoặc, đột nhiên biến thành trang nghiêm, trở thành một vị thần thánh bất khả
xâm phạm. Nhất là lúc nàng mặc bộ y phục bằng sa trắng, càng lộ vẻ thuần

chân, chẳng khác một pho tượng nữ thần.
Thần vốn không phân nam nữ, tuy rằng có nam nữ khác biệt; nhưng dù nam
thần cũng vậy, nữ thần cũng thế, đều được cung phụng trên thần tọa, lúc thiện
nam tín nữ đến bái vọng, sự quan hệ tính biệt này rất ít.
Quan Thế Âm là nữ bồ tát, nhưng khi người ta vào miếu cúng vái, niệm
Quan Thế Âm Bồ Tát, không ai niệm thêm chữ nữ vào câu niệm.
Nhưng Tạ Tiểu Ngọc cho người nhìn ảnh hưởng tuyệt đối là một pho nữ
thần.
Trong lớp sa mỏng mờ ảo, bộc lộ đặc trưng của nữ tính sỡ hữu, nhưng đó chỉ
đem lại một mỹ cảm, một loại mỹ cảm thần thánh trang nghiêm; hình như toàn
thân nàng đều phát xuất luồng quang mang thánh khiết, khiến người nhìn không
dám có ý nghĩ mạo phạm.
Kim Sư chỉ nhìn nàng một cái, tự trong đáy lòng đã khơi dậy ý niệm kiên
thành, nguyện ý cống hiến tất cả, hy sinh trước một vị thần.
Tạ Tiểu Ngọc nhỏ nhẹ cười:
– Mời Kim lão bá ngồi.
Kim Sư không ngồi mà quì xuống.
Tạ Tiểu Ngọc chưa quay đầu ra, Kim Sư chỉ thấy hình nàng trong tấm gương,
nhưng nét cười vô tà, giọng nói vô tà đó, khiến toàn thể con người ông ta đã
bước vào trạng thái không linh vô ngã.
Tạ Tiểu Ngọc không biết Kim Sư đang quỳ, vẫn cười, hỏi:
– Kim lão bá đã liên lạc rồi chưa?
– Dạ rồi, ngày mai cung chủ sẽ triệu kiến trước khi mặt trời mọc.
– Mẫu thân chịu gặp điệt nữ?
– Người vốn không chịu, nhưng sau khi nghe lão nô trình bày sự thể khẩn
cấp, cung chủ mới đáp ứng.
– Tại sao mẫu thân trốn tránh trong vùng hoang sơn u tịch này?
– Cung chủ muốn thanh tịnh, cách xa nhân thế.
– Chỗ này không thanh tịnh; nhất là người lại bày ra những chuyện thần kỳ
quái đản, sao còn có thể yên tịnh được?
– Cung chủ mượn danh Thần lệ chướng, khiến mọi người sợ hãi, không ai
dám đến nạp mạng; đó là một vị thần ai nấy đều kính nhi viễn chi.
– Đó cũng chỉ loè bịp được người thôn quê bình thường; nếu gặp người có võ
công, họ sẽ không tin lời đồn mê tín, mà còn tìm cách tra xét cho ra gốc ngọn, sự
thực.
– Mấy năm trước, đã có không ít loại người này, nhưng chúng đều nhiễm độc
khí lệ chướng, phơi thây trước cửa cốc, nên không còn ai dám đến nộp mạng
nữa.
Tạ Tiểu Ngọc cười một tiếng, nói:
– Đó chỉ là lũ phàm phu tục tử; gặp cao nhân chân chính thì độc khí lệ
chướng không thể làm gì được họ.
– Cung chủ ẩn cư tại đây, không tranh chấp với đời, cao nhân chân chính sẽ
không tới quấy nhiễu.
– Chưa chắc, may mà chưa gặp Đinh Bằng, lòng hiếu kỳ của con người này
rất nặng.
Kim Sư không biết trả lời sao, chỉ biết im lặng.
Tạ Tiểu Ngọc quay đầu ra, mới thấy Kim Sư đang quỳ, bất giác giật mình,
hỏi :
– Kim lão bá làm gì thế, xin mời mau đứng dậy?
– Lão nô thấy bảo tướng trang nghiêm của Thiếu cung chủ, không dám mạo
phạm.
– Hả? Điệt nữ có ma lực như thế sao? Có thể khiến một vị trưởng lão Ma
giáo như Kim lão bá phải thần phục sát đất như thế sao?
– Phải, đó không phải là ma lực, mà là một loại thần lực. Bảo tướng thánh
khiết lẫm liệt của Thiếu cung chủ, đủ khiến bất cứ ai đều phải khuất tất (quỳ
gối).
– Gồm cả nữ nhân sao?
– Theo lão nô nghĩ, bất luận già trẻ nam nữ đều như thế.
– Nói vậy, điệt nữ nên dùng tư thái này để xuất hiện.
– Phải, chỉ tiếc trước kia lão nô chưa thấy. Nếu thiếu cung chủ dùng diện
mạo này xuất hiện trần thế, thiên hạ đã nằm trong tay rồi.
Tạ Tiểu Ngọc cười một tiếng:
– Điệt nữ đã biết điểm này rất lâu trước kia.
– Ủa! Tại sao thiếu cung chủ phát hiện được?
– Từ lúc điệt nữ còn mang thân phận Ngọc Vô Hà làm lão đại của Liên Vân
Thập Tứ Sát; có lần, vì một chuyện khẩn cấp, đã gọi tất cả bọn họ vào, trong lúc
điệt nữ đang chải tóc, kết quả bọn họ đều quỳ xuống.
– Thiếu cung chủ đã phát hiện năng lực thiên phú của mình như thế, nên cố
vận dụng thêm mới phải.
Tạ Tiểu Ngọc cười, lắc đầu:
– Điệt nữ đã có tính làm như vậy, nhưng sau bỏ qua.
– Tại sao?
– Vì từ sau lần đó, trong bọn Liên Vân Thập Tứ Sát, ai thấy điệt nữ cũng đều
sợ hãi cung kính, cả thở mạnh cũng không dám.
– Đó là loại cảm giác tôn kính phát xuất từ nội tâm. Hiện giờ chính lão nô
cũng vẫn chưa dám thở mạnh.
– Nhưng điệt nữ không muốn làm thế.
– Vì sao? Mục đích của thiếu cung chủ là chinh phục thiên hạ; đó là phương
pháp rất dễ thành công.
– Điệt nữ muốn thu phục thiên hạ, không muốn bắt thiên hạ khuất tất.
– Thiếu cung chủ có mệnh lệnh gì, lão nô nhất định vạn tử bất từ.
– Hả? Nếu điệt nữ muốn lão bá đứng dậy ôm lấy điệt nữ.
– Chuyện này lão nô không dám.
– Nếu có người kê đao vào cổ, bắt buộc lão bá?
– Lão nô đành chịu lãnh một đao, chứ không dám mạo phạm thiếu cung chủ.
Tạ Tiểu Ngọc cười một tiếng, nói:
– Đó là nguyên nhân điệt nữ không muốn làm; điệt nữ không muốn làm một
người ngồi trên cao chót vót, giống như mẫu thân điệt nữ.
Kim Sư bất giác ngạc nhiên:
– Thiếu cung chủ chưa gặp qua cung chủ?
– Chưa, bắt đầu khi ba tuổi, các vị đã đem điệt nữ ra khỏi vòng tay mẫu thân;
mãi đến bây giờ chưa gặp mẫu thân lần nào.
– Tại sao thiếu cung chủ biết giống như cung chủ?
– Là do các vị nói, từ nhỏ đã nghe các vị nói điệt nữ giống hệt mẫu thân; cả
phụ thân điệt nữ nữa.
– Tạ đại hiệp cũng nói thiếu cung chủ giống cung chủ?
– Phải, cho nên ông ta không thích điệt nữ, lãnh đạm với điệt nữ, không coi
điệt nữ là con gái ông ta.
– Cung chủ và thiếu cung chủ đều không phải người phàm tục, vì vậy mới có
cảnh ngộ phi phàm, nhất thiết không thể đòi hỏi giống thường nhân.
Trước kia, Tạ Tiểu Ngọc đã không biết bao nhiêu lần nghe luận điệu này;
mỗi lần nàng tỏ vẻ oán hờn, đều có người khuyên nàng như vậy.
Mỗi lần nghe nói như thế, đều khiến nàng tạm quên tất cả, khơi dậy hùng
tâm. Hôm nay, lại nghe Kim Sư trưởng lão kể lại một lượt những lời như vậy,
hậu quả thâu được ngoài ý tưởng của Kim Sư.
Vì Tạ Tiểu Ngọc đã không còn là tiểu hài tử nữa, không bị cổ hoặc giống
trước, nàng tự mình đã có cảm xúc ái, ố, hỷ, nộ; mà vì sinh hoạt của nàng còn
phức tạp gấp trăm ngàn lần người khác; thì mức cảm thụ này cũng sâu hơn gấp
trăm ngàn lần nữa.
Lúc nói lại những chuyện như lão sinh thường đàm, Kim Sư tự mình không
tin, mà cũng không mong Tạ Tiểu Ngọc tin tưởng. Chỉ trong lúc cần thiết, ông ta
nói vài câu lấy lệ mà thôi.
Không dè lần này, trong ánh mắt Tạ Tiểu Ngọc bỗng lộ vẻ khác lạ, giống
như một đứa trẻ bỗng dưng tìm lại được món đồ đánh mất từ lâu.
– Điệt nữ thực có khác người thường sao?
– Phải, thiếu cung chủ dị bẩm trời sanh, thật chẳng phải người thường có thể
sánh kịp.
– Dị bẩm trời sanh, loại dị bẩm gì?
Kim Sư ngẩn người, ông ta chỉ tùy tiện nói một câu, chẳng phải cố ý phô
diễn. Lúc Tạ Tiểu Ngọc còn nhỏ, đã có biểu hiện rất đặc biệt như thế; có điều,
điểm đặc biệt này rất khó dùng lời nói ra cho người khác hiểu.
Thí dụ như, lúc nàng bảy tám tuổi, đã có ma lực nữ tính; tình cờ nhoẻn
miệng cười một tiếng, đã khiến một đại nam nhân mê si. Mê si giống một nam
nhân mê si một nữ nhân thực thụ.
“Ngươi giống hệt mẫu thân ngươi, vưu vật trời sanh, là yêu nữ mê chết đàn
ông, là hồ ly tinh trời sanh”.
Những lời này Kim Sư chỉ nghĩ trong bụng, chớ không dám nói ra, nhưng ông
ta vẫn cần phải có câu trả lời.
Mỗi lần Tạ Tiểu Ngọc hỏi, nhất định phải trả lời, mà trả lời cần phải cho
nàng vừa ý mới được.
Đây cũng là do tự họ quá chiều chuộng nàng tạo thành. Kim Sư với Ngân
Long, cũng như rất nhiều người xuất thân như họ, đều đã cam tâm tình nguyện
để mẹ con nàng xỏ mũi dắt đi, không màng tất cả, làm ra những chuyện mà
chính họ cũng không dám tưởng tượng. Tại sao vậy?
Kim Sư đã từng nhiều lần tự hỏi mình, nhưng chưa bao giờ tìm được câu trả
lời.
– Lão nô cũng không biết cắt nghĩa dị bẩm là gì? Đây là câu trả lời rất
thông thường.
Hai mẹ con Tạ Tiểu Ngọc, nếu như có dị bẩm trời sanh gì, đại khái là một

loại ma lực; ma lực có thể sai khiến người ta đi làm chuyện ” mạc danh kỳ diệu”
(không gọi ra tên).
o
Thiếu cung chủ trời sanh có một khí chất oai nghiêm, khiến người khác
không dám ngước mặt nhìn thẳng, tâm duyệt thành phục, cúi đầu nghe lệnh.
Đây là câu trả lời của Kim Sư sau khi đã suy nghĩ cẩn thận; một câu trả lời
rất khéo léo.
– Mẫu thân điệt nữ từ nhỏ cũng có năng lực như vậy?
– Phải, Cung chủ từ nhỏ đã có năng lực khiến thiên hạ thần phục quy hóa.
Người nào gặp cung chủ, cũng đều bất giác tự thần phục dưới chân cung chủ.
– Nhưng bà vẫn chưa nắm được thiên hạ trong tay?
– Đó là vì cung chủ đã quen biết một nam nhân không đáng quen biết, đánh
mất lòng tin của mình.
– Nam nhân đó là phụ thân điệt nữ?
– Phải, Tạ đại hiệp là nhất đại kiếm thần, mà cũng là một nam nhân không
nữ nhân nào chinh phục được.
– Giống như Đinh Bằng?
Kim Sư đáp rất lẹ:
– Phải, cả hai đều cùng một loại người; vì vậy, tốt nhất, thiếu cung chủ nên
tránh xa hắn.
– Có thể được không? Khi chúng ta muốn làm gì, hắn đều tìm đến.
– Vậy chỉ còn cách hủy diệt hắn.
Tạ Tiểu Ngọc than một hơi:
– Kim lão bá chẳng phải là người thứ nhất khuyên điệt nữ làm như thế; điệt
nữ đã từng thử qua, trong đầu luôn tính toán tìm cách; điệt nữ không giống mẫu
thân, quả đoán nhẹ dạ; điều này lão bá đã nhận thấy.
– Phải, thiếu cung chủ có phách lực hơn cung chủ năm xưa.
– Nhưng điệt nữ không hủy diệt được Đinh Bằng, chẳng phải không nỡ lòng
hạ thủ, mà là không hủy được.
Lặng lẽ một chập, Kim Sư biết câu nói của Tạ Tiểu Ngọc là sự thực, chứ
không phải nàng thối thác; sau khi thấy một chiêu đao của Đinh Bằng, lão đã
đem lòng rất hãi sợ đối với chàng trẻ tuổi này.
– Mẫu thân điệt nữ ẩn cư thâm sơn lâu năm, có phải luyện võ công?
– Phải, cung chủ phát hiện tự mình không thể chinh phục được Tạ Hiểu
Phong, nên đã thề sẽ thắng ông ta bằng võ công.
– Có khả năng được như thế không?
– Đã nhiều năm cung chủ chưa va chạm thế sự, chỉ lấy tình trạng Tạ Hiểu
Phong lúc trước làm tiêu chuẩn; hoặc giả có khả năng vượt quá ông ta. Nhưng
trong những năm vừa rồi, Tạ Hiểu Phong cũng trong sự tiến bộ; cứ xem tình
hình lúc ông ta gặp gỡ Đinh Bằng, thì công lực ông ta đã tiến tới cảnh giới cao
siêu khác, cung chủ tuyệt chẳng thể theo kịp.
– Thế tại sao các vị không cho bà hay?
Kim Sư lại lặng lẽ một lát mới trả lời:
– Từ nào tới giờ, cung chủ không chịu nghe ai khuyến cáo, chỉ nhìn thế giới
bằng con mắt của chính mình.
– Theo cách đó có thể thành sự không?
Kim Sư nghĩ một chút mới đáp:
– Không thể, cho nên, chúng lão nô mới kỳ vọng vào thiếu cung chủ.
– Các vị cho rằng điệt nữ có nhiều hy vọng hơn mẫu thân?
– Thiếu cung chủ lúc bắt đầu đã tiếp xúc tình đời rộng lớn, tự nhiên cách
nhìn cũng sâu xa hơn cung chủ; thêm nữa, Thiếu cung chủ còn có Thần Kiếm
sơn trang, thế gia nổi tiếng trợ thế, quả thực có cơ hội tốt đẹp hơn cung chủ
nhiều.
– Giả như điệt nữ dùng thân phận Tạ gia đại tiểu thư mà còn hữu dụng, thì
không thể để mẫu thân tìm cách hủy diệt phụ thân điệt nữ, có phải không?
– Chuyện này…… chỉ có đích thân thiếu cung chủ nói với cung chủ, còn lão
nô không dám xen lời. Có điều, thiếu cung chủ cũng có thể yên tâm, vì mức
thành tựu của Tạ đại hiệp lúc này, đã không thể có bất cứ người nào hủy diệt
được.
o
Rạng sáng, mặt trời chưa mọc, phía đông một vầng ráng đỏ rực rỡ.
Đây là lúc chướng khí trong núi bốc lên rất lệ hại; trong tử vong cốc tối om,
phía trên vụ khí bốc lên nghi ngút hiện nhiều màu sắc chói lòa.
Cảnh tượng chẳng khác một khung cửa lớn địa ngục; trời đất như phủ trùm
một tầng ma ý.
Tạ Tiểu Ngọc ăn mặc sang trọng như một thiếu phụ đại gia, dẫn Kim Sư
theo sau khúm núm.
Trước cửa miếu chướng thần nương nương, đã có rất nhiều dân quê hiếu kỳ
tụ tập; họ ẩn núp tại những nơi kín đáo, để coi xem một vị thiếu phụ xinh đẹp
đến cầu đảo xin thuốc cho trượng phu nhiễm bệnh độc chướng lâu ngày chưa
khỏi. Phải chăng có được Chướng thần nương nương đáp ứng giúp chữa hay
không?
Ba lần quỳ gối, chín lần khấu đầu, tiến nhang, hiến lễ vật, đúng theo nghi
thức.
Chấp lễ là một lão bà tỳ khí quái dị, nét mặt lầm lì, không vì khách đến cầu
đảo thuộc loại đặc biệt mà có chút thay đổi.
Khấu bái xong, đúng như tiền lệ, một trương giấy rơi xuống trước thần án.
Trương giấy trắng như tuyết, trên mặt không có chữ; sau khi hơ trên lửa mới
hiện ra nét chữ.
Thông thường đều là toa thuốc chướng thần cho người cầu đảo biết phải
uống thuốc gì.
Nhưng hôm nay, thần thị trên trương giấy hình như không phải toa thuốc.
Sau khi xem xong thần thị, thiếu phụ rảo bước đi ra bờ vực sơn cốc. Lúc
này, lão quản gia mới bước tới coi qua trương giấy đã được hơ qua trên lửa, lão
vội vàng đuổi theo thiếu phụ, lớn tiếng kêu:
– Thiếu phu nhân, thiếu phu nhân, không được…..
Lúc lão theo đến bờ vực, thiếu phụ đã tung mình nhảy xuống sơn cốc, khuất
dạng vào lớp sương mù dày đặc sâu thẳm.
Những người núp trong bóng tối có người nhắm mắt, còn dám nhìn đều thốt
lên tiếng kêu hoảng sợ.
Lão quản gia chạy theo tới bờ vực, với tay định túm vạt áo thiếu phụ kéo lại
nhưng không kịp. Lão đứng bên bờ vực, ngơ ngác thất thần, rồi run giọng thổn
thức:
– Thiếu phu nhân, hãy đem lão nô đi theo với, bằng không, lão nô trở về,
biết ăn nói ra sao với thiếu chủ.
Thế rồi, lão cũng lao đầu xuống sơn cốc; lần này, một số người núp trong
bóng tối đã hiện thân vàcùng thốt tiếng la hoảng. Họ không thể ngăn cản được
tấn bi kịch xảy ra; chỉ biết đứng nhìn hai mạng người sống cùng nhảy xuống tử
vong cốc.
Họ xúm nhau trước thần án Chướng thần nương nương, đọc hàng chữ trên
tấm giấy trắng.
o
” Chồng ngươi đắc tội chướng thần, đáng lý nhiễm bệnh đến chết; ngươi chỉ
có cách xả thân làm thị nữ dưới tòa bổn thần y mới được thoát chết”.
Cho nên, họ đã nhảy xuống vực thẳm sơn cốc.
o
Một thiếu phụ kiên thành, vì muốn cứu sinh mệnh trượng phu, đã xả thân
nhảy xuống tử vong cốc.
Một lão bộc trung nghĩa, cũng theo chủ nhân nhảy xuống tử vong cốc.
Từ nay, tử vong cốc lại thêm một chuyện thần thoại, tăng gia không ít tính
chất cảm động lòng người.
Người chồng thiếu phụ bị nhiễm độc chướng có khỏi bệnh hay không?
Không ai rõ, vì đám bộc nhân tùy tùng đều đã lén bỏ đi, không rõ họ đi đâu
nên không biết hỏi ai cho ra manh mối. Có điều, chẳng ai nghi ngờ, vì năm đó
chính là thời kỳ mọi người đều tin tưởng cực đoan về chuyện quỷ thần.
o
Lời thần thị trên trương giấy trắng được loan truyền qua lại, cuối cùng, trang
giấy đã thần bí thất tung, đưa đến một nơi. Trước mặt một lão nhân.
Lão nhân cùng một lão phụ, ngồi coi trang giấy có hàng chữ thần thị, lão
nhân nhếch mép cười lạnh một tiếng:
– Thì ra nó trốn tại chỗ đó, trách nào, nhiều năm ta không tìm được tung tích
của nó.
Lão phụ bèn nói:
– Chúa công, nó đã ẩn trú, xa lánh thế gian, thôi bỏ qua đi, hà tất phải bận
tâm đến nó nữa?
– Không bận tâm sao được, cả một cơ nghiệp của ta bị bại hoại trên tay nó,
ta quyết không thể tha nó.
Lão phụ trầm mặc giây lát, mới nói:
– Chúa công cũng không nên trách tất cả cho nó, tự bản thân chúng ta cũng
có sai lầm.
– Sai lầm lớn nhất của ta, làta đã thu dung và cho nó sống; nếu ta sớm biết

đó là họa thủy…..
Lão phụ ngắt lời:
– Chúa công nhẫn tâm được không? Chúa công có thể quên được câu thơ
khắc trên đao ” Đêm xuân lầu vắng nghe mưa rơi” chăng? Nó là con gái của bà
ấy, không chừng cũng là con gái của chúa công?
Sát khí dữ dằn trong ánh mắt lão nhân tiêu tan, thay vào là một niềm ngậm
ngùi, ông ta thở dài một tiếng, nói:
– Ta thực khó tin, một nữ nhân thánh khiết như bà ta, lại sanh hạ được đứa
con gái như thế.
Lão phụ cũng khẻ than:
– Thánh với Ma chỉ sai biệt đường tơ kẻ tóc; chúa công đã phụ rẫy mẫu thân
nó trước.
– Ta…..hừ…hừ, phu nhân không rõ…..
– Chúa công, lão thân không rõ giữa hai người xảy ra chuyện gì, chúa công
không chịu nói; những người biết chuyện cũng không chịu nói. Có điều, lão
thân biết rõ, khi con nhỏ đó đến, là một đứa bé rất khả ái, ai thấy cũng thương;
sở dĩ nó biến thành như vậy, cũng là do chúng ta không khéo dạy dỗ nó.
Lão nhân bỗng đứng dậy, vỗ bàn, giọng rất kiên quyết:
– Không được, ta không thể dung túng cho nó náo loạn nữa; nó hủy ta đủ
rồi, không thể để nó hủy Đinh Bằng nữa.
– Làm sao nó hủy được Đinh Bằng?
– Nếu phu nhân biết người nhảy xuống vực sơn cốc là ai, phu nhân sẽ biết
người đó ảnh hưởng tới Đinh Bằng như thế nào.
– Là người nào?
– Là Kim Sư và Tạ Tiểu Ngọc.
– Tạ Tiểu Ngọc? Chẳng phải con gái Tạ Hiểu Phong sao? Tại sao lại dính
líu tới Kim Sư?
– Ta không rõ lắm, nhưng tất nhiên giữa chúng có quan hệ rất mật thiết.
Đinh Bằng từng tại vùng phụ cận Thần Kiếm sơn trang chém chết Ngân Long.
Lão phụ trầm mặc giây lát, mới nói:
– Tuy lão thân không tán thành ý kiến chúa công, nhưng từ nhiều năm nay,
lão thân luôn phục tùng mỗi chỉ thị của chúa công; lão thân tin, mỗi chỉ thị của
chúa công đều chính xác. Bây giờ chúa công muốn lão thân làm gì?
– Tại sao phu nhân biết ta muốn phu nhân đi làm công chuyện?
Lão phụ cười một tiếng, nói:
– Chuyện rất dễ đoán hiểu; mấy năm rồi, chúa công rất ít bàn bạc công
chuyện với lão thân; nhưng hôm nay chúa công gọi lão thân đến, cùng coi trang
giấy, đó là có chuyện muốn lão thân đi làm.
Lão nhân ngưng một chút, mới than:
– Đúng vậy phu nhân, chuyện này nhất định phải cần phu nhân và Đồng Đà
đi một chuyến mới xong; công lực của ta đã chuyển di đại bộ phận cho Đinh
Bằng, không còn đủ sức giải quyết chuyện này nữa.
– Chúa công muốn Đồng Đà cùng đi với lão thân?
– Phải, chẳng những hai người cùng đi, mà còn dẫn tất cả hảo thủ bên cạnh
chúng ta đi theo nữa.
– Như vậy sao được. Bên cạnh chúa công chẳng thể không có ai bảo vệ.
– Ta cần người bên cạnh làm gì? Hiện tại, ta đã là một lão nhân vô dụng,
chẳng còn ai để ý ta nữa.
– Không phải chúa công tính chuyện trò đùa chứ?
– Không, ta không tính chuyện trò đùa. Ngân Long và Thiết Yến tuy đã
chết, nhưng họ còn có Kim Sư, Đồng Đà có thể miễn cưỡng chống cự được. Còn
con tiện nhân đó, chỉ phu nhân mới có thể ứng phó. Bên cạnh chúng còn có
người khác nữa, cho nên, phu nhân cần phải đem theo tất cả hảo thủ đi.
– Chúng ta tính liều mạng?
Sắc mặt lão nhân trở nên rất trang trọng:
– Phải, giết sạch không tha một tên; đây cũng là một lần thanh lý môn hộ.
Lão phụ như còn muốn nói gì thêm, nhưng lão nhân đã xua tay:
– Phu nhân không cần nói nữa, chuyện này ta đã suy nghĩ chín chắn ba bốn
lần mới hạ quyết định, tuyệt chẳng phải làm chuyện nông nổi. Dù Ma giáo bị
hủy diệt, cũng chẳng thể từ trong tay ta để lại một chút họa hại.
Lão phụ lặng thinh suy nghĩ giây lát mới nói:
– Thôi được! Nếu chúa công đã quyết định, lão thân nhất định sẽ tuân theo.
Lão thân biết chúa công chẳng phải người khinh suất hạ quyết định.
– Cảm tạ phu nhân đã tín nhiệm ta.
Lão phụ nhìn lão nhân, hiển lộ thâm tình trong ánh mắt; tuy họ đã kết nghĩa
gần sáu mươi năm, nhưng thâm tình chưa hề sút giảm.
Có điều, lão phụ chợt có cảm giác bi ai, bà ta phát hiện vị trượng phu vĩnh
viễn trẻ trung của bà, bỗng có vẻ già nua.
Các ngươi yên tâm ra đi, nơi đây rất vắng vẻ, không ai tìm tới đâu; ta sẽ
đích thân xuống bếp nấu mấy món ăn đãi các người, chúc các người thắng lợi
thành công trở về.
Lão nhân đứng ngoài cửa cốc vui vẻ tiễn đoàn người ra đi, khiến đoàn người
được tiễn đưa đều rất hứng khởi.
Giọng Đồng Đà rất cao hứng:
– Hình như tâm tình chúa công lần này rất vui vẻ cởi mở. Ba mươi năm rồi,
thuộc hạ chưa lần nào thấy chúa công cao hứng như hôm nay.
– Phải, đây là một quyết định lớn nhất trong đời chúa công, phát xuất mệnh
lệnh truy sát Thiên Mỹ.
– Đáng lẽ chúa công nên phát xuất mệnh lệnh này đối với con tiện nhân đó
từ sớm, thuộc hạ đã chờ mệnh lệnh này lâu lắm, cuối cùng hôm nay cũng đã tới.
– Đồng Đà, ngươi không rõ tâm tình của chúa công.
– Thuộc hạ biết, các vị vẫn cho rằng Thiên Mỹ là con gái chúa công, nên
không nhẫn tâm đối phó nó.
– Chẳng lẻ không phải sao? Tính theo tuổi của nó, cũng không sai mấy.
– Thuộc hạ biết tuyệt đối không phải.
– Sao? Tại sao ngươi biết?
– Thuộc hạ biết, mọi người đều cho rằng Nhược Liễu phu nhân là vị thánh nữ
trinh tiết; ngoài chủ nhân ra, không có người đàn ông thứ hai nào khác; chỉ có
thuộc hạ biết rõ bà ta là một dâm phụ.
– Đồng Đà, tại sao ngươi dám nói thế?
– Thuộc hạ dám nói, vì thuộc hạ có chứng cớ.
– Chứng cớ gì?
– Bà ta đã có lần cám dỗ thuộc hạ.
– Cám dỗ ngươi ? Lúc đó ngươi bao lớn ?
– Thuộc hạ mới mười bốn tuổi, căn bản chưa biết chuyện đời; nhưng bà ta
mỗi ngày đều không thể thiếu đàn ông. Hôm đó, các nam nhân đã vắng hết,
nên bà ta tìm tới thuộc hạ, dùng đủ cách dẫn dụ thuộc hạ lên giường; may thuộc
hạ chưa thực sự đụng tới bà ta thì chúa công về tới.
– Hả! Tại sao ta không biết chuyện này?
– Đó là điểm nhân từ của chúa công; trước sau chúa công luôn che dấu
khuyết điểm cho người khác. Thuộc hạ còn nhớ hôm đó, chúa công vừa bước
vào cửa, bà ta liền nhảy dựng lên, khóc lóc kể lể với chúa công là thuộc hạ đã
vô lễ toan làm bậy với bà.
– Chúa công làm sao?
– Chúa công chỉ cười một tiếng, nói thuộc hạ vốn còn là đứa trẻ, huyết khí
đang thịnh, mà bà lại xinh đẹp như vậy, tự nhiên nó không tránh khỏi xung động.
Rồi chúa công kêu thuộc hạ xin lỗi bà ta, cam đoan sẽ không tái phạm; và mọi
người nên quên chuyện này đi.
– Như vậy, chúa công vẫn tin ngươi chủ động muốn làm bậy với bà ta?
Đồng Đà cúi đầu nói:
– Sự thực, tình cảnh thuộc hạ hôm đó cũng khó thể tự biện bạch, vì thủ đoạn
dụ dỗ đàn ông của Nhược Liễu phu nhân rất cao minh, bà ta đã trong lúc hữu ý
vô ý, khơi dậy lửa tình của đàn ông, khiến đàn ông tự cắn câu, như con thiêu
thân lao vào ngọn lửa sáng.
– Chúa công có biết cá tính đó của bà ta không?
– Sau này thuộc hạ không rõ, nhưng hôm đó, hình như chúa công không rõ.
– Chúa công đã rất rộng lượng tha thứ cho ngươi.
– Phải, cho nên, thuộc hạ cảm kích, trọn đời trung trinh với chúa công.
– Chắc bọn Kim Sư cũng khó tránh khỏi bị dụ hoặc, vì tuổi tác của họ lớn
hơn ngươi.
Đồng Đà trầm tư một lúc mới nói:
– Thuộc hạ nghĩ chắc khó tránh; cho nên, bọn họ đã trung tâm bảo vệ giúp
đỡ Thiên Mỹ, đều là vì điểm quan hệ này.
– Tại sao ngươi lại có thể khẳng định Thiên Mỹ không phải con gái chúa
công?
– Vì bàn tay phải Thiên Mỹ có sáu ngón.
– Đây lại kể là chứng cớ gì?
– Ngón tay dư là di truyền, chúa công không có ngón tay dư.
– Người trong Ma cung đều không ai có; hoặc giả đây là di truyền cách từ
mấy đời trước.
– Thuộc hạ biết một người có ngón tay dư này, nhưng y không phải người
trong Ma cung, người đó là thúc thúc của thuộc hạ, có đến thăm thuộc hạ một
lần.
– Người đó thì sao?
– Ít lâu sau, Nhược Liễu phu nhân đã thần bí thất tung, chúng thuộc hạ khắp
nơi tìm kiếm không thấy tung tích của bà ta. Mãi đến bốn năm sau, mới có
người bồng Thiên Mỹ tới.
Chuyện đó làm sao chứng minh; lúc bấy giờ Thiên Mỹ cũng đã hơn ba tuổi,
nếu lúc bấy giờ bà ta mang thai, thì chính cũng hợp với tuổi lớn của Thiên Mỹ.
Đồng Đà lắc đầu, nói:
– Thuộc hạ thấy Thiên Mỹ có ngón tay dư, trong lòng nghi ngờ, thuộc hạ đã
tìm dịp trở về làng cũ một chuyến, dò xét tin tức, kết quả được biết, Nhược Liễu
phu nhân đã tư bôn theo thúc thúc thuộc hạ đến tiềm cư tại gia hương thuộc hạ.
– Thúc thúc ngươi cũng rất có thủ đoạn.
– Ông ta vốn là một mỹ nam tử, lại khéo ăn nói, biết cách chiều chuộng đàn
bà. Nhược Liễu phu nhân tư bôn theo ông ta, chuyện chẳng có gì đặc biệt;
nhưng thuộc hạ dò biết hai người đã sanh được một đứa con gái.
– Tức là Thiên Mỹ?
– Phải, đứa bé gái đó vừa sinh ra đã lớn hơn mọi đứa khác; lúc đưa đến Ma
cung nói là hơn ba tuổi, nhưng thực tế chỉ mới hơn hai tuổi.
– Nói vậy, Thiên Mỹ là con gái của thúc thúc ngươi, cũng là đường muội của
ngươi; lúc nó được đưa đến Ma cung chỉ mới hơn hai tuổi, thì đích xác không
phải cốt nhục của chúa công.
Đồng Đà mặc nhiên, lão phụ lại hỏi:
– Tại sao họ lại đưa con gái họ đến cho chúng ta thu dưỡng?
– Thúc thúc thuộc hạ nguyên là một người phong lưu tuyệt đỉnh, sau khi ông
ta dụ Nhược Liễu tư bôn đi theo sống chung, tự nhiên phải một lòng một dạ, tuân
theo quy củ, không dám ra ngoài bê tha. Hai năm đầu không xảy ra chuyện gì,
sau thúc thúc thuộc hạ vì muốn luyện một loại võ công đã có phần lạnh nhạt vợ
con, nên bà ta lại không an phận ở mãi trong nhà.
– Một người đàn bà như bà ta vốn rất khó chịu được cảnh tịch mịch.

– Thúc thúc thuộc hạ không khoan hồng đại lượng như chúa công, nên khi
bắt được gian tình của bà, ông ta đã một đao chém chết hai người, rồi cũng tự
sát.
Lão phụ lặng lẽ một lúc, mới khẽ than:
– Nhược Liễu cũng quá tự phụ khinh thường, bà ta cho rằng, không có đàn
ông nào nhẫn tâm giết bà ta; kết quả, chỉ cần gặp một người dám vung tay là bà
lãnh đủ.
– Hình như chúa mẫu đã sớm biết con người của Nhược Liễu?
Lão phụ cười một tiếng:
– Chớ quên ta là nữ nhân; nữ nhân đối với nữ nhân, rất dễ hiểu nhau.
– Tại sao chúa mẫu không cho chúa công hay?
– Chỉ có nữ nhân tối ngu xuẩn, mới công kích nữ nhân khác trước mặt trượng
phu mình; nhiều năm nay, chúa công rất tôn kính ta, chính là vì ta biết làm sao
cho tròn bổn phận của một nữ nhân.
Lần này, đến lượt Đồng Đà trầm mặc, ông ta cũng tôn kính phi thường đối
với vị chúa mẫu này; mà cũng còn vì bà ta là thê tử của chúa công lão ta.
Bản thân bà ta không có gì đặc biệt hơn người.
Tướng mạo trung bình, không thông minh lắm, cũng không quá ngu đần.
Không thích lắm lời, cũng ít khi biểu thị ý kiến, không có điểm gì đặc xuất; hình
như là một người nếu có cũng được, mà không có cũng chẳng sao. Nhưng chúa
công vẫn rất khách khí, rất tôn kính đối với bà ta. Điểm này khiến Đồng Đà
nghĩ không thấu. Có rất nhiều lúc, hắn thường lấy làm tiếc cho chúa công. Một
vị anh vũ thiên tài như chúa công, đáng lẽ phải có được một phối ngẫu xinh đẹp
tuyệt trần mới đúng.
Mãi đến hôm nay, hắn mới thấy rõ điểm đáng kính của vị chúa mẫu này.
Đó là trí tuệ, lòng dạ, độ lương, hiền thục cùng các loại mỹ đức của bà; tất cả
cái đẹp nội tại của một nữ nhân, bà đều có đủ.
Nam nhân gặp được loại nữ nhân này, thực là hạnh phúc trọn đời; chỉ tiếc
loại nữ nhân này rất hiếm.
Lão phụ lại hỏi Đồng Đà sang một vấn đề khác:
– Đồng Đà, ngươi có hiểu câu thơ “Đêm xuân lầu vắng nghe mưa rơi”, là
chuyện như thế nào không?
– Đó chỉ là lúc chúa công gặp Nhược Liễu phu nhân lần thứ nhất, do câu thơ
này hấp dẫn. Lần đó, chúa công cùng bọn thuộc hạ đi qua một nông thôn vùng
Giang Nam, thấy một căn thảo xá bên cạnh khe suối nhỏ, bên trong vọng ra
giọng ngâm bài thơ này rất mỹ diệu, đã hấp dẫn chúa công và bọn thuộc hạtìm
vào thảo xá thăm viếng, thì gặp Nhược Liễu phu nhân. Lúc đó, bà ta mới chỉ là
một thôn nử, quần thô áo vải; con gái một vị tiên sinh dạy học, nhưng đã có vẻ
đẹp quốc sắc thiên hương; mà bà ta hình như cũng bị hấp dẫn bởi phong thái uy
nghi của chúa công, nên chỉ nói chuyện mấy câu, bà ta đã nguyện ý đi theo chúa
công, bỏ mặc người cha già ở lại.
– Sau này, bà ta có về lại quê cũ lần nào không?
– Không, hình như bà ta đã quên hẳn người cha; nhưng chúa công vẫn nhớ
đã hai lần chúa công sai thuộc hạđi thăm. Lần thứ nhất, gặp đúng lúc lão phụ
của bà ta đang hồi túng quẫn, thuộc hạ để lại tặng một số kim ngân lớn. Lần thứ
hai đến thăm, thấy ông ta đã xử dụng số tiền bạc được tặng, mua tậu điền sản,
xây cất nhà mới, còn tục huyền với một phụ nữ, có cuộc sống rất khá giả; nên
chúa công không sai người đến thăm nữa.
– Tại sao vậy?
– Vì hoàn cảnh Ma giáo chúng ta lúc đó, đang hưng thịnh như mặt trời giữa
trưa, nếu một gia đình bách tính tầm thường có dính líu quan hệ với chúng ta,
không phải chuyện tốt cho họ.
Lão phụ than nhẹ:
– Chúa công là loại người luôn luôn nghĩ tới kẻ khác; người như vậy không
thích hợp đảm nhiệm chức vị Giáo chủ.
– Lúc chúa công xử lý giáo vụ, không chút cẩu thả.
– Cần phải như thế mới được, nói cho ngay, sở dĩ Ma giáo bị người trong võ
lâm coi là tà giáo bàng môn, cũng có lý do của họ, vì bản thân giáo lý có rất
nhiều diều lệ, cùng phương pháp luyện công đều thuộc loại tà ác. Chúa công
muốn cải cách ma giáo, để thay đổi quan niệm của người khác về bổn giáo, nên
chúa công mới đăït ra nhiều điều lệ nghiêm ngặt, để ước thúc đệ tử trong giáo;
cũng vì điểm này, mới đưa đến tình trạng nhiều người bất mãn, rồi trở thành chia
rẻ phản bội, khiến môn phái tan rã.
– Cũng không thể nói như vậy; hiện tại, chúa công vẫn còn rất nhiều bộ
thuộc trung tâm phục vụ.
– Đó chỉ một số rất ít, những người này đều vì ngưỡng mộ võ thuật thần kỳ
của bổn giáo mới đầu thân nhập giáo, hy vọng được truyền thụ võ học bổn giáo.
Đồng Đà lặng thinh, lão phụ lại hỏi:
– Tại sao chúa công lại khắc câu thơ đó trên đao?
– Điều này thuộc hạ không rõ. Sau khi Nhược Liễu phu nhân thất tung, có
một lúc, chúa công trở nên rất nóng nảy, đã giết khá nhiều người.
– Đó là một vưu vật trời sanh, khiến người khó quên; đừng nói gì chúa công,
ngay cả ta cũng cảm thấy bùi ngùi mất mát…
Đồng Đà ra chiều suy nghĩ, nói:
– Tuy chúa công vì mất Nhược Liễu phu nhân mà phẫn nộ, hình như chúa
công cũng nghĩ vì chuyện đó mà trút giận lên đầu kẻ khác là không đúng, nên
chúa công mới khắc câu thơ đó lên thân đao, tức là để đè nén tỳ khí của mình.
Có mấy lần, thuộc hạ thấy lúc chúa công đang giận dữ, liền rút cây đao ra khỏi
bao, nhìn câu thơ khắc trên đao, lập tức cơn giận hạ xuống.
– Đại khái là nguyên nhân đó không sai! Cho nên, về sau, đao pháp của
chúa công đã bước vào một cảnh giới mới; một đao xuất thủ, uy mãnh tuyệt
luân; khiến thanh danh bổn giáo cũng lớn mạnh hơn, nhưng cũng vì đó mà chúa
công bị hại.
– Đúng vậy, khoảng thời gian đó, Ma giáo phát triển quá nhanh, đã vượt hẳn
các tôn phái võ lâm đương thời, khiến họ đều cảm thấy bất an. Cũng vì phát
triển quá nhanh, chúa công không thể đích thân kiểm soát hết mọi sự kiện, mới
giao cho bọn Kim Sư, mỗi người phụ trách một phương; rồi bọn họ đều gây rất
nhiều cường địch cho bổn giáo.
Lão phụ than nhẹ:
– Đúng vậy, sau khi kiểm tra sự việc hơn thiệt, chúa công không trách người,
mà nhận do lỗi lầm của mình.
– Đây chẳng thể trách chúa công, người nhất tâm cầu hòa……
– Đồng Đà, ngươi chưa hiểu rõ chúa công bằng ta đâu! Không phải chúa
công muốn lấy lòng bộ thuộc, mà vì là giáo chủ, đương nhiên phải lãnh tất cả
trách nhiệm thất bại. Còn một nguyên nhân khác nữa, đó là chúa công có tính
tự thị rất cao, luôn tự coi là thiên hạ vô địch; nhưng một ngày cuối cùng đó,
chúa công đã thực sự thất bại dưới kiếm của Tạ Hiểu Phong.
Đồng Đà mặc nhận, không nói gì. Lão phụ nói tiếp:
– Chúa công bị hạn chế bởi tư chất, biết mình kiếp này không tiến triển được
hơn nữa. Đao chiêu tuy mãnh liệt nhưng vẫn thua kém Tạ Hiểu Phong. Đ ây
mới là nguyên nhân chúa công đã nguội lạnh, không màng thế sự, không muốn
khôi phục Ma giáo. Trầm uất lâu năm, cuối cùng, chúa công đã tìm được Đinh
Bằng. Tư chất gã tuổi trẻ này, ngàn năm khó gặp, nên chúa công mới đặt tất cả
hy vọng trên mình hắn.
– Gã tuổi trẻ đó có thể kể là đặc xuất; nghe nói, mức tiến bộ của hắn đã
vượt hơn chúa công năm xưa. Ngân Long, Thiết Yến đều chỉ dưới một đao của
hắn, bị chẻ thây chặt tay.
Lão phụ gật đầu:
– Chúa công cũng đã phân tách qua. Ngân Long bị chẻ thây, không lấy làm
kỳ; Thiết Yến bị chặt đứt bàn tay, mới thực sự đáng kể; vì hắn đã có thể khống
chế được đao, thu phát tùy ý; cũng có thể nói, đao hắn sử dụng đã thoát ra
ngoài phạm trừ Ma, mà tiến vào cảnh giới Thánh.
– Chúa công vẫn chưa thể khống chế được đao?
– Chưa, trọn cuộc sống, chúa công chỉ có thể phát huy oai lực tối mãnh liệt
của đao, mà chưa khống chế được, vẫn còn trong phạm vi của Ma.
– Bổn giáo trong tay Đinh Bằng có thể hưng khởi được chăng?
– Đó là hy vọng của chúa công.
– Vậy tại sao chúa công vẫn chưa trao tất cả giáo vụ cho hắn?
– Không gấp, chúa công cũng vì phải quản lý giáo vụ mà phân tâm, mới bị
hạn chế mức phát triển công lực của mình. Võ công của bổn giáo, học chóng
thành, nhưng khó tiến bộ, càng về sau càng khó hơn; càng cần phải dùng toàn
lực tu luyện, không thể phân tâm một chút. C ho nên, chúa công mới để Đinh
Bằng được tự do phát triển, không muốn hắn bị phân tâm chút nào.
– Chúa mẫu, lần này chúng ta tiến phát tiêu diệt Thiên Mỹ, cũng là vì Đinh
Bằng?
Lão phụ trầm tư giây lát, mới nói:
– Tuy chúa công nói thế, nhưng ta tin không phải.
– Không phải?
– Theo ta biết, cảnh giới thành tựu của Đinh Bằng hiện thời, không có bất cứ
người nào hãm hại được hắn. Sở dĩ chúa công muốn làm như vậy, mục đích là
để tiêu trừ triệt để những tà ác tàn dư của Ma giáo còn lại trên đời; để sau này
trao cho Đinh Bằng môn hộ sạch sẽ thiện lương.
– Chúa công quả thực là một người đáng kể.
– Đúng vậy, chúa công đích xác là nhân vật đáng kể.
o
Sau khi tiễn đoàn người đi, lão nhân trở vào trong cốc, bỗng cảm thấy niềm
vắng vẻ không hư chưa từng có.
Nhân vật trọng yếu trong cốc đều đi hết, chỉ còn lại mấy đệ tử mới nhập
môn, làm công việc vặt; nếu quả thực một sớm bị người mò tới, sẽ không có
một chút lực lượng chống cự. Tuy ông ta có nói, đây là nơi rất kín đáo, không ai
có thể tìm tới được, nhưng ông ta cũng tự biết câu nói này chẳng thể y cứ.
Một tổ hợp rất đông người, tuyệt đối không thể che dấu được phi thường kín
đáo. Huống chi, kẻ thù của ông ta, đều có lỗ mũi linh mẫn còn hơn chó săn.
Nhiều năm nay, sở dĩ ông ta có thể tự bảo vệ được an toàn, chủ yếu là nhờ
có thực lực hùng hậu.
Mấy ngàn tên cao thủ tuyệt đỉnh, bảo vệ môn hộ, lớp trong lớp ngoài, một
toán nhỏ địch nhân, tuyệt đối không thể xâm nhập. Một đoàn địch nhân đông
đảo, mới tới từ xa đã phát hiện, lập tức trốn lánh. Nhưng bây giờ, những cao thủ
lực lượng đều đã đi hết.
Việc phòng thủ trong cốc, đã coi như hoàn toàn không có. Hiện tại chỉ cần
một cao thủ nhị lưu, là có thể dễ dàng tiến vào cốc.
Người duy nhất có thể bảo hộ, chính là bản thân ông ta.
Vì để thành toàn Đinh Bằng, ông ta đã đem tất sinh công lực tu vi của mình,
chuyển cấp toàn bộ cho gã tuổi trẻ đó.
Sau, ông ta nhờ một số tâm quyết luyện công thần kỳ, cùng một số linh dược
phụ trợ, đã cố gắng tu luyện, khôi phục được ba thành công lực.
Ba thành công lực, đủ đối phó xâm hại ngoại lai chăng? Câu này lập tức
được khảo nghiệm, vì ông ta đã nhìn thấy ba người; ba người không phải người
trong cốc . Hai nữ một nam.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.