Đọc truyện Việc Máu – Chương 15
Sau khi ăn trưa ở Musso và Frank’s, một nơi McCaleb thích nhưng đã hai năm nay không trở lại, họ giong xe lên đồi, từ Hollywood đến Thung lũng rồi đến chỗ tòa nhà nơi tọa lạc Deltona Clocks lúc một giờ bốn lăm. McCaleb đã gọi cho doanh nghiệp này trước khi họ khởi hành từ chỗ vũng neo thuyền và biết được rằng Mikail Bolotov vẫn đang làm việc theo ca từ hai giờ chiều đến mười giờ đêm.
Deltona Clocks là một công trình lớn kiểu nhà kho nằm sau một showroom và hiệu bán lẻ nhỏ nằm ở mặt tiền. Sau khi Lockridge đỗ chiếc Taurus phía trước hiệu bán lẻ, McCaleb thò tay vào cái túi da đặt trên sàn xe trước mặt để lấy khẩu súng. Nó đã nằm sẵn trong bao súng bằng vải bạt, ông cứ thế giắt vào thắt lưng.
“Này, anh chờ gặp gì ở đó thế?” Lockridge nói khi nhìn thấy khẩu súng.
“Chẳng gì cả. Chỉ là cho vững tinh thần thôi.”
Đoạn McCaleb rút ra một chồng dày hai phân rưỡi các hồ sơ điều tra của Sở Cảnh sát trưởng để xem cho chắc có phải nằm trên cùng chồng đó là bản báo cáo về cuộc thẩm vấn Bolotov và chủ của y, một người được nhận diện là Arnold Toliver. Ông đã sẵn sàng. Ông nhìn sang Lockridge.
“OK, ngồi cho chắc.”
Khi chui ra khỏi xe, ông để ý rằng lần này Buddy không đề nghị đi theo ông. Ông nghĩ có khi ông nên thường xuyên mang súng theo hơn.
Trong hiệu bán lẻ chẳng có vị khách nào. Những cái đồng hồ rẻ tiền hầu như đủ cỡ bày nhan nhản. Hầu hết trông có vẻ công nghiệp, như thể người ta chỉ có thể gặp chúng trong một lớp học hay cửa hàng phụ kiện ô tô chứ không phải ở nhà riêng ai đó. Trên tường sau quầy, nơi phần hậu của cửa hiệu, có treo một bộ tám cái đồng hồ giống nhau chỉ giờ ở tám thành phố trên khắp thế giới. Có một phụ nữ trẻ ngồi trên chiếc ghế gấp phía sau quầy. McCaleb thoáng nghĩ, cứ phải ngồi giữa đống đồng hồ thế kia mà khách khứa không một mống thì chắc hẳn đối với cô nàng thời gian trôi chậm lắm.
“Làm sao tôi gặp được ông Toliver?” ông hỏi khi đã tiến đến sát quầy.
“Arnold hay Randy?”
“Arnold.”
“Tôi phải gọi điện đã. Ông ở bên nào tới?”
“Tôi đến đây không phải để mua đồng hồ. Tôi đang theo dõi cuộc thẩm vấn của Sở Cảnh sát trưởng hôm mồng ba tháng Hai.”
Ông buông chồng giấy tờ xuống quầy để cô ta thấy toàn là hồ sơ tài liệu của nhà nước cả. Đoạn ông nhấc hai tay lên đặt hai bên hông, cẩn thận làm sao cho cái áo khoác thể thao phanh ra để lộ khẩu súng. Ông quan sát mắt cô ta khi cô ta nhận ra khẩu súng. Cô ta nhấc điện thoại trên quầy rồi bấm ba số.
“Arnie này, Wendy đây. Có một ông ở Sở Cảnh sát trưởng tới về vụ điều tra hay gì gì ấy.”
McCaleb không cải chính cô ta. Ông đã không nói dối cô ta mà cũng sẽ không nói dối về chuyện ông là ai và làm việc cho ai. Nhưng nếu cô ta muốn đoán già đoán non không chính xác thì ông cũng chẳng cải chính. Sau khi nghe điện thoại một lát, Wendy nhìn lên McCaleb.
“Điều tra gì vậy?”
McCaleb gật đầu về phía điện thoại rồi giơ tay lên. Cô gái ngần ngừ nhưng rồi cũng chìa ống nghe cho ông.
“Ông Toliver à?” ông nói vào điện thoại. “Terry McCaleb đây. Cách đây chừng hai tháng ông có nói chuyện với hai thám tử của cảnh sát trưởng tên là Ritenbaugh và Aguilar về một nhân viên tên Mikail Bolotov. Ông nhớ không?”
Sau một hồi do dự Toliver thừa nhận là có.
“Rồi, giờ thì tôi điều tra vụ đó. Ritenbaugh và Aguilar bận làm việc khác. Tôi cần hỏi ông thêm vài câu về chuyện đó. Tôi quay lại được không?”
Lại do dự.
“Ừm… ở đây chúng tôi bận kinh khủng. Tôi…”
“Không lâu đâu ông à. Nên nhớ, đây là điều tra án mạng, nên tôi hy vọng ông sẽ tiếp tục giúp chúng tôi làm rõ ngọn ngành.”
“Ông cho là sao?”
“Ừ, cứ đến đi. Cô ấy sẽ cho ông hay khi nào tôi rảnh.”
Ba phút sau McCaleb đi khắp chiều dài tòa nhà, ngang qua mấy dãy bàn thợ dùng để lắp ráp và đóng gói, để đến một văn phòng nằm ở đoạn hậu bên cạnh một bến bốc dỡ hàng. Có một đoạn cầu thang ngắn dẫn lên văn phòng. Cạnh cửa ra vào là một cửa sổ cho phép Toliver nhìn ra khắp các bàn thợ cũng như bến giao nhận hàng. Trong khi đi ngang qua mấy dãy bàn thợ để đến văn phòng, McCaleb nghe lỏm được những mẩu trò chuyện giữa các công nhân với nhau. Có đến ba lần ông nghe thấy một thứ tiếng mà ông tin là tiếng Nga.
Khi McCaleb mở cửa văn phòng, người mà ông đồ là Toliver gác điện thoại rồi vẫy tay bảo ông vào. Ông ta là một người xương xẩu độ tuổi sáu mươi, có làn da nâu thô ráp và mớ tóc bạc lơ thơ viền quanh mép đầu. Ông ta có một miếng đệm bằng nhựa nơi túi áo sơ mi, nhét đầy một lố bút đủ loại.
“Chuyện này cần phải xong sớm,” ông ta nói. “Tôi còn phải kiểm tra chúng nó chất hàng lên xe để xuất đi nữa.”
“Được.” McCaleb nhìn xuống bản báo cáo nằm trên cùng chồng giấy mang theo. “Hai tháng trước ông có nói với các thám tử Ritenbaugh và Aguilar rằng hôm hai mươi hai tháng Giêng Mikail Bolotov làm ca đêm.”
“Đúng thế. Tôi nhớ mà. Có thay đổi đâu.”
“Ông có chắc không, ông Toliver?”
“Ý ông là thế nào, tôi có chắc không à? Có, tôi chắc. Tôi đã kiểm tra lại cho hai người kia mà. Có ghi trong sổ hẳn hoi. Tôi có lấy bảng chấm công ra.”
“Ông nói là ông dựa trên cơ sở những gì ông thấy trong bảng chấm công, hay là ông thực sự thấy Bolotov làm việc đêm đó?”
“Anh ta có đây. Tôi nhớ mà. Mikail chả bao giờ nghỉ ngày nào cả.”
“Và ông nhớ là anh ta làm việc suốt đến mười giờ.”
“Thẻ bấm giờ của anh ta cho thấy là…”
“Tôi không nói về thẻ bấm giờ. Tôi đang nói chuyện ông có nhớ anh ta đã ở lại làm đến mười giờ hay không.”
Toliver không đáp. McCaleb liếc ra cửa sổ nhìn các dãy bàn thợ.
“Ông có khá nhiều người làm việc cho ông, ông Toliver. Bao nhiêu người làm ca từ hai đến mười giờ?”
“Hiện là tám mươi tám.”
“Còn khi đó?”
“Cũng khoảng thế. Nhưng có gì quan trọng?”
“Quan trọng là ở chỗ ông đã cho anh ta bằng chứng ngoại phạm dựa trên một tấm thẻ bấm giờ. Ông có nghĩ rằng cũng có thể Bolotov đã ra về sớm hơn mà không ai nhận thấy, rồi nhờ một người bạn bấm lỗ hộ khi đến giờ không?”
Toliver không đáp.
“Quên chuyện Bolotov đi một chút, trước nay ông đã có khi nào gặp chuyện đó chưa? Có người bấm lỗ hộ ai đó, là một cách để lừa gạt công ty, ông biết mà?”
“Chúng tôi làm ăn ở đây đã mười sáu năm rồi, chuyện đó có.”
“OK,” McCaleb gật đầu.
“Vậy thì chuyện đó có thể xảy ra với Bolotov không? Hay là đêm nào ông cũng đứng suốt ở chỗ đồng hồ bấm giờ để bảo đảm là không ai bấm hai thẻ.”
“Chuyện gì cũng có thể. Chúng tôi không đứng ở chỗ đồng hồ. Hầu như đêm nào con tôi cũng đến công ty để đóng cửa. Tôi thì đã về nhà rồi. Nó để mắt trông coi mọi việc.”
McCaleb nín thở một nhịp, cảm thấy nỗi phấn khích ông vẫn mang trong lòng đang tăng lên. Câu trả lời của Toliver, nếu được đưa ra trước tòa, sẽ là đủ để xé toang bằng chứng ngoại phạm của Bolotov.
“Con ông là Randy phải không?”
“Ừ, Randy.”
“Tôi nói chuyện với anh ấy được không?”
“Nó đang ở Mexico. Chúng tôi có một nhà máy khác ở Mexicali. Mỗi tháng nó ở đó một tuần. Tuần sau nó về.”
“Chúng ta gọi anh ta được không?”
“Tôi có thể thử xem, nhưng có lẽ nó xuống xưởng rồi. Vì thế mà nó mới xuống đấy. Để bảo đảm là dây chuyền hoạt động. Với lại, làm sao nó nhớ được một đêm nào đó cách đây ba tháng cơ chứ? Chúng tôi làm đồng hồ kia mà, ông thám tử. Đêm nào chúng tôi cũng làm những cái đồng hồ y như nhau. Ngày nào chúng tôi cũng xuất hàng đi. Đêm này chả có gì khác đêm kia hết.”
McCaleb quay mặt khỏi ông ta, lại nhìn ra cửa sổ.
Ông nhận thấy vài công nhân đang rời khỏi chỗ khi có các công nhân mới bước vào thay. Ông quan sát cảnh thay ca cho đến khi nhìn thấy người mà ông tin là Bolotov. Không hề có bức ảnh nào trong hồ sơ mà chỉ có một mô tả sơ sài. Nhưng người mà McCaleb đang quan sát đang mặc áo phông đen, tay áo duỗi thẳng quanh hai cánh tay đầy sức lực và ken chặt hình xăm. Các hình xăm chỉ có một màu – màu xanh dương của nhà tù. Đó ắt là Bolotov.
“Hắn kia phải không?”
Ông hất đầu về phía người vừa ngồi vào chỗ nơi một bàn thợ. McCaleb chợt nghĩ: việc của Bolotov chính là lắp mấy cái vỏ nhựa quanh bộ máy đồng hồ hoàn chỉnh rồi xếp cả lên một chiếc xe đẩy bốn bánh.
“Người nào?”
Toliver phải lại gần McCaleb cạnh cửa sổ.
“Có hình xăm ấy.”
“Đúng.”
McCaleb gật đầu rồi nghĩ một thoáng.
“Ông có nói với Ritenbaugh và Aguilar rằng bằng chứng ngoại phạm ông đưa ra cho người đó là dựa trên những gì ông thấy nơi thẻ chấm công và bảng bấm giờ, chứ không phải những gì con ông thực sự nhìn thấy đêm đó?”
“Phải, tôi nói với họ thế. Họ bảo: tốt. Họ bỏ đi, rồi thì thôi. Giờ lại tới lượt ông đến đây hỏi mấy câu hỏi mới này. Tại sao mấy người không biết phối hợp với nhau cho ra hồn? Nếu như chỉ sau hai ba tuần chứ không phải ba tháng thì có phải thằng con tôi dễ nhớ ra hơn bao nhiêu không.”
McCaleb im lặng ngẫm nghĩ về Ritenbaugh và Aguilar. Có lẽ họ có danh sách hai mươi lăm cái tên mà họ phải thẩm vấn trong vòng một tuần lễ họ được giao làm vụ này. Đúng là làm ăn lôi thôi thật, nhưng ông hiểu chuyện đó có thể xảy ra.
“Này, tôi phải ra ngoài bến đây,” Toliver nói. “Ông muốn đợi đến khi tôi quay về hay thế nào?”
“Tôi bảo này, sao ông không bảo Bolotov vào đây trên đường đi ra. Tôi cần nói chuyện với hắn.”
“Ở đây á?”
“Nếu ông không phiền, ông Toliver. Tôi tin chắc ông muốn giúp chúng tôi và tiếp tục cộng tác, đúng không nào?”
Ông nhìn chòng chọc vào Toliver như là biện pháp cuối cùng để chấm dứt sự phản đối không nói ra của ông ta.
“Sao cũng được,” Toliver vừa nói vừa vung hai tay lên tỏ vẻ bực bội rồi quày quả đi ra cửa. “Có điều đừng hết cả ngày đấy.”
“Ô này, ông Toliver.”
Toliver dừng lại nơi cửa ngoái lại nhìn ông.
“Tôi nghe nhiều người nói tiếng Nga ngoài kia. Ông kiếm đâu ra mấy người Nga ấy thế?”
“Họ là công nhân giỏi, mà lại chẳng phàn nàn kêu ca gì. Có trả lương bèo bọt họ cũng chả nề hà. Mỗi khi quảng cáo tìm người, chúng tôi đều đăng ở tờ báo tiếng Nga ở vùng này.”
Đoạn ông ta đi ra ngoài, để ngỏ cửa sau lưng mình. McCaleb kéo hai chiếc ghế phía trước bàn ra, xoay lại, sao cho hai ghế đối diện nhau cách chừng một mét rưỡi. Ông ngồi xuống ghế gần cửa nhất rồi đợi. Ông thoáng nghĩ xem mình sẽ tiến hành cuộc thẩm vấn như thế nào, và quyết định sẽ mạnh tay với Bolotov. Ông muốn khơi dậy một sự đáp trả, một thứ phản ứng nào đó để ông có thể nhận rõ cảm giác của chính mình đối với con người này.
Ông cảm thấy có người ở trong phòng, liền nhìn ra cửa. Người mà ông đoán là Bolotov đứng đó. Y cao chừng 1,78 mét, tóc đen, da tai tái. Nhưng hai cánh tay cuồn cuộn bắp và các hình xăm – một con rắn cuộn quanh tay này, một mạng nhện phủ kín tay kia – khiến cho hai cánh tay y là tâm điểm của hình dong y. McCaleb chỉ chiếc ghế trống.
“Ngồi đi.”
Bolotov tiến lại chiếc ghế, ngồi xuống ngay không ngần ngừ. McCaleb thấy rõ là cái mạng nhện vẫn kéo dài xuống bên dưới áo sơ mi, rồi bò lên cả hai bên cổ gã người Nga. Một con nhện đen nằm trong mạng nhện ngay dưới tai phải y.
“Thế này là thế nào?”
“Như trước thôi, Bolotov. Tên tôi là McCaleb. Đêm hai mươi hai tháng Giêng. Nói cho tôi nghe về cái đêm đó.”
“Tôi kể với họ rồi. Đêm đó tôi làm việc ở đây. Ông tìm sai người rồi.”
“Là anh nói đấy nhé. Nhưng lần này khác. Giờ thì chúng tôi đã biết những gì lần trước chưa biết.”
McCaleb đứng dậy khóa cửa rồi lại ngồi vào chỗ. Chỉ là một màn diễn nhỏ, để nhấn mạnh rằng ở đây ông là người cầm trịch. Đôi điều để Bolotov suy nghĩ.
“Gì nào?” y hỏi lại.
“Như là vụ trộm căn nhà trên mạn Mason, cách đây chỉ vài khối nhà. Anh nhớ chứ, vụ cây thông Giáng sinh với tất tật các món quà ấy. Anh lấy được khẩu súng là từ chỗ đó, đúng không nào, Bolotov?”
“Không, về mấy chuyện đó tôi vô can.”
“Nhảm nhí. Chính anh đột nhập vào đó và chính anh chôm khẩu súng mới toanh láng coóng ấy. Rồi thì anh quyết định dùng nó. Anh dùng nó trong vụ ở Lancaster rồi lại dùng ở dưới chợ, chỗ từ đây rẽ sang. Anh là tên giết người, Bolotov. Giết người.”
Tay người Nga vẫn ngồi yên nhưng McCaleb có thể thấy hai bắp tay y căng lên, làm những hình vẽ trên tay y nổi rõ hơn. Ông dấn tới.
“Còn ngày mồng bảy tháng Hai, đêm đó anh cũng có bằng chứng ngoại phạm chứ?”
“Đêm đó tôi không biết. Tôi phải…”
“Đêm đó anh đã bước vào Siêu thị Sherman và giết hai người. Anh phải biết chứ.”
Bolotov bất thần đứng dậy.
“Ông là ai? Ông không phải cớm.”
McCaleb nhìn lên y, vẫn ngồi, hy vọng không để lộ rằng mình đang ngạc nhiên.
“Cớm bao giờ cũng đi hai người. Ông là ai?”
“Tôi là người sẽ quật ngã anh. Anh đã làm chuyện đó, Bolotov, và tôi sẽ chứng minh được.”
“Cá…”
Có một cú đấm đầy giận dữ nện vào cửa, và theo bản năng McCaleb quay lại nhìn. Đó là một sai lầm nhỏ nhưng Bolotov chỉ cần có thế. McCaleb thấy đám mờ màu đen không rõ nét tiến lại gần, trong tầm nhìn ngoại biên của ông. Theo bản năng ông dợm nhấc tay lên để bảo vệ ngực. Ông không đủ nhanh. Đột ngột ông lãnh trọn tác động của trọng lượng gã đàn ông kia và rồi ghế ông ngồi bị lật nhào trong khi ông vẫn ngồi trên đó.
Bolotov quật ông xuống sàn, giữa lúc Toliver hay ai đó ngoài kia vẫn tiếp tục giận dữ nện thình thình lên cửa. Gã đàn ông to hơn, khỏe hơn vừa ghì chặt McCaleb xuống vừa thọc tay vào các túi của ông. Tay y chạm phải khẩu súng, liền dứt nó ra khỏi thắt lưng ném sang bên kia phòng. Cuối cùng y tìm thấy ví của McCaleb nơi túi trong áo khoác thể thao. Y giật cái ví ra làm túi rách toạc, rồi mở ví.
“Không có thẻ. Thấy chưa, đếch phải cớm.”
Y đọc to cái tên ghi trên tấm bằng lái xe nằm sau một ô cửa sổ bằng nhựa bên trong ví.
“Terr-ell-Mack-Cow-leeb.”
Đoạn Bolotov đọc to địa chỉ lên. McCaleb thấy nhẹ nhõm bởi vì đó thực ra là địa chỉ của văn phòng chủ bến tàu, ông có hộp thư ở đó.
“Hôm nào đấy tôi đến thăm ông được chứ, hả?”
McCaleb không đáp cũng không động cựa. Ông biết mình chẳng mong gì chọi lại được gã này. Trong khi ông nghiền ngẫm tình thế của mình, Bolotov buông cái ví xuống ngực ông rồi nhảy bật dậy. Y giật chiếc ghế từ dưới hông McCaleb, nhấc cao lên quá đầu. McCaleb giơ hai tay lên để bảo vệ mặt và đầu, ngay lúc đó ông nhận ra rằng ngực mình bị phô ra không có gì che chở.
Ông nghe thấy tiếng kính vỡ, liền nhìn qua giữa hai tay mình thì thấy chiếc ghế đập vỡ toang cửa sổ văn phòng. Rồi ông thấy Bolotov theo sau chiếc ghế, phóng qua khoảng vỡ dễ dàng như không rồi buông mình xuống sàn xưởng thợ. Đoạn y biến mất.
McCaleb lăn qua một bên, xếp hai tay ngang ngực rồi co hai đầu gối lên. Ông xòe một bàn tay đặt lên ngực, cố nghe ra nhịp tim. Ông hít hai hơi sâu rồi chầm chậm quỳ lên, gượng ngồi dậy. Tiếng nện cửa rầm rầm vẫn tiếp diễn, lần này kèm theo giọng Toliver cuống cuồng đòi McCaleb mở ra.
McCaleb rướn người tới mở khóa cửa. Ngay khi đó ông cảm thấy chóng mặt. Như thể ông đang trượt xuống vùng lõm gần bốn mét của một con sóng để rơi tõm vào chỗ sâu nhất của nó. Toliver xông vào phòng mà la lối om sòm nhưng McCaleb không hiểu ông ta nói gì. McCaleb xòe hai tay chống xuống sàn, nhắm mắt, cố định thần lại.
“Chó chết,” ông chỉ thì thầm được có thế.
Buddy Lockridge nhảy ra khỏi chiếc Taurus khi thấy McCaleb lại gần. Anh ta chạy vòng quanh đầu xe, đến cạnh McCaleb.
“Chúa ơi, chuyện gì vậy?”
“Chả có gì. Tôi phạm sai lầm, thế thôi.”
“Trông anh chả ra làm sao cả.”
“Tôi không sao. Đi thôi.”
Lockridge mở cửa cho ông rồi đi vòng qua phía người lái để chui vào xe.
“Anh chắc là không sao chứ?”
“Thôi nào, đi thôi.”
“Đi đâu?”
“Tìm điện thoại.”
“Ngay kia có một cái.”
Anh ta trỏ về phía nhà hàng Jack in the Box ngay bên cạnh. Có một điện thoại công cộng trên bức tường gần một trong mấy cánh cửa. McCaleb ra khỏi xe rồi chầm chậm đi về phía điện thoại. Ông cẩn thận để mắt đến nền đường trước mặt, ông không muốn lại bị trượt vào một cơn chóng mặt nữa.
Ông gọi đường dây trực tiếp của Jaye Winston, cứ đinh ninh sẽ phải để lại tin nhắn, nhưng chị nhấc máy ngay tức thì.
“Terry đây. Chắc là hôm nay ở tòa căng lắm.”
“Đang căng đây, nhưng hiện giờ nghỉ ăn trưa. Hai giờ tôi phải quay lại. Tôi cũng đang định gọi anh đây.”
“Tại sao?”
“Vì chúng tôi sắp làm chuyện ấy rồi.”
“Làm gì?”
“Thôi miên ông Noone. Đội trưởng ký giấy rồi và tôi gọi cho ông Noone rồi. Ông ta nói là được. Ông ta chỉ muốn chúng ta làm tối nay vì ông ta sắp ra khỏi thành phố, quay lại Vegas, chắc vậy. Ông ta sẽ tới đây lúc sáu giờ. Anh đến được chứ?”
“Tôi sẽ đến.”
“Vậy là thu xếp xong nhé. Sao anh lại gọi?”
McCaleb ngần ngừ. Điều ông phải nói với chị có thể làm thay đổi kế hoạch tối nay, nhưng ông biết mình không thể trì hoãn.
“Chị có thể lấy một bức ảnh Bolotov trước tối nay không?”
“Tôi có đây rồi. Anh muốn cho Noone xem á?”
“Ừ. Tôi vừa mới thăm Bolotov một tí và phản ứng của hắn chả hay ho lắm.”
“Chuyện gì xảy ra vậy?”
“Tôi chưa kịp hỏi hắn ba câu thì hắn đã quăng tôi xuống đất rồi chạy.”
“Anh đùa tôi đấy à?”
“Giá mà tôi đùa được.”
“Còn bằng chứng ngoại phạm của hắn?”
“Chắc như ổ bánh mì là cùng.”
McCaleb thuật ngắn gọn cuộc thẩm vấn Toliver rồi sau đó Bolotov. Ông bảo Winston chị nên phát thông báo truy nã Bolotov.
“Vì cái gì, anh hay Toliver đã trình báo cảnh sát chưa?”
“Tôi thì chưa nhưng Toliver nói ông ta sẽ trình báo về vụ cái cửa sổ.”
“Được rồi, tôi sẽ phát lệnh bắt. Anh có sao không? Giọng anh nghe như sắp gục tới nơi ấy.”
“Tôi không sao. Chuyện này có làm thay đổi vụ việc không? Hay tối nay ta vẫn tiến hành?”
“Về phần tôi thì vẫn.”
“OK. Hẹn gặp chị khi đó.”
“Này Terry, đừng đặt cược quá nhiều vào Bolotov được chứ?”
“Tôi nghĩ dám chắc là gã này lắm.”
“Tôi không biết. Lancaster cách khá xa chỗ Bolotov ở. Anh phải nhớ gã đó là kẻ từng bị kết án. Hắn có thể và chắc hẳn sẽ làm những gì như đã làm với anh cho dù hắn có dính vào vụ này hay không. Bởi nếu không làm vụ này thì hắn cũng đã làm một chuyện gì khác.”
“Có thể. Nhưng tôi vẫn không ưa thằng này.”
“Ừ thì có thể Noone sẽ cho chúng ta vui khi chỉ vào chính hắn trong một nhóm sáu người.”
“Lần này là chị nói đấy nhé.”
Gác máy xong, McCaleb quay lại chiếc Taurus không khó khăn gì. Vào xe rồi, ông lục tìm bộ đồ lữ hành mà ông luôn mang theo trong cái cặp da để trên sàn. Trong đó có lượng thuốc đủ cho một ngày và chừng một tá nhiệt kế dùng một lần rồi vứt gọi là Temp-Strip. Ông lột bỏ giấy gói một cái rồi cho vào miệng. Trong khi đợi, ông ra dấu bảo Lockridge khởi động xe. Khi động cơ đã nổ, McCaleb vươn tay về phía bộ nút điều khiển máy điều hòa, bật lên.
“Anh muốn không khí không?” Lockridge hỏi.
McCaleb gật, Lockridge liền bật cho quạt quay mạnh hơn.
Sau ba phút McCaleb lấy nhiệt kế ra kiểm tra. Ông cảm thấy một nỗi sợ sâu hoắm xuyên vào mình trong khi nhìn cái vạch mảnh màu đỏ trải dài vượt quá điểm một trăm độ.
“Về nhà thôi.”
“Chắc không?”
“Chắc, về vũng thuyền.”
Trong khi Lockridge lái xe về phía Nam trực chỉ xa lộ 101, McCaleb bật quạt gió bên phía mình để dòng khí mát phả ngay vào mặt ông. Ông bóc thêm một cái Temp-Strip rồi kẹp vào dưới lưỡi. Ông cố trấn tĩnh bằng cách bật kênh KFWB trên radio và nhìn cảnh đường phố lướt qua hai bên. Hai phút sau số đo nhiệt độ thứ nhì có đỡ hơn số đầu tiên, nhưng ông vẫn đang hâm hấp sốt. Nỗi sợ của ông dịu đi một chút, họng cũng đỡ nghẹn. Ông đập hai lòng bàn tay vào bảng đồng hồ mà lắc đầu, cứ tự thuyết phục mình rằng cơn sốt này chỉ là đột xuất thôi. Cho đến giờ ông vẫn hoàn toàn khỏe kia mà. Chẳng có lý do gì để ông bị thế này ngoại trừ chuyện ông đã bị nóng người lên quá mức trong khi giằng co với Bolotov.
Ông quyết định quay về thuyền uống một viên aspirin và ngủ một giấc dài trước khi chuẩn bị buổi làm việc tối với James Noone. Có một cách khác là gọi cho Bonnie Fox. Và ông biết nếu gọi như vậy thì rồi ông sẽ phải nằm viện vài hôm để xét nghiệm và theo dõi. Fox luôn thấu đáo trong việc chị làm cũng như McCaleb thích nghĩ mình luôn thấu đáo trong việc mình làm. Chị sẽ chẳng ngần ngại gì bắt ông vào viện. Ông sẽ mất đứt một tuần nằm giường ở Cedars. Chắc chắn là ông sẽ mất cơ hội với Noone và rồi cũng mất nốt cái động lực vốn là thứ duy nhất khác mà ông có bên mình khi dấn vào cuộc điều tra này.