Đọc truyện Vị thần cuối cùng – Chương 4: Phần 1
3. Cận kề cái chết
Nếu bạn muốn trở nên nổi tiếng ở Trại Con Lai, không nên quay trở về từ nhiệm vụ cùng với những tin xấu.
Tin tức tôi về đến trại lan đi nhanh chóng ngay khi tôi bước lên từ đại dương. Bãi biển của chúng tôi nằm ở Bờ Bắc của Long Island, và nó bị làm phép nên phần lớn mọi người thường không thể nhìn thấy. Không một người thường nào xuất hiện ở bãi biển trừ khi họ là các á thần hay các thần hoặc là những người đưa bánh pizza thật sự bị lạc đường. (Chuyện đó đã xảy ra – nhưng đó là một câu chuyện khác.)
Dù sao thì, chiều hôm đó, nhiệm vụ canh chừng thuộc về Connor Stoll của nhà thần Hermes. Khi nhìn thấy tôi, cậu ta phấn khích đến nỗi ngã từ cây xuống. Cậu ta thổi tù và bằng ốc xà cừ báo tin cho trại rồi chạy đến chào đón tôi.
Kiểu cười mỉm rất hóm của Connor hợp với khiếu hài hước hóm hỉnh của cậu ta. Cậu ta là một anh chàng khá dễ thương, nhưng bạn nên luôn giữ chặt ví mình khi cậu ta ở gần và không được, trong bất cứ tình huống nào, tạo cơ hội cho cậu ta đến gần kem cạo râu trừ phi bạn muốn tìm thấy túi ngủ của mình chứa đầy nó. Cậu ta có mái tóc màu nâu quăn tít và thấp hơn một chút so với anh trai Travis của mình, đó cũng là cách duy nhất tôi có thể phân biệt được hai người họ. Cả hai đều chẳng giống kẻ thù cũ Luke của tôi tẹo nào, thật khó tin khi họ đều là các cậu con trai của thần Hermes.
“Percy!” cậu ta hét lớn. “Chuyện gì đã xảy ra thế? Anh Beckendorf đâu?”
Khi cậu ta nhìn thấy vẻ mặt của tôi, nụ cười trên mặt cậu ta dần biến mất. “Ôi, không. Tội nghiệp Silena. Thần Zeus thiêng liêng, khi cô ấy mà biết chuyện thì…”
Hai đứa tôi cùng nhau leo qua các đụn cát. Vài trăm mét phía trước, mọi người đang di chuyển về phía chúng tôi, mỉm cười và đầy phấn khích. Percy đã quay lại, họ chắc chắn đang nghĩ như thế. Cậu ấy đã giành được chiến thắng! Thể nào cậu ấy cũng mang quà lưu niệm về!
Tôi ngừng lại ở khu nhà ăn và chờ họ. Tôi chẳng có tâm trạng nào để mà vội vã chạy đến đó để nói cho họ nghe tôi là một kẻ tồi tệ thế nào.
Tôi nhìn chằm chằm khắp thung lũng và cố nhớ Trại Con Lai trông như thế nào đầu tiên tôi nhìn thấy nó. Ngày hôm đó như thể đã cách đây hàng tỷ tỷ năm vậy.
Từ khu vực nhà ăn, bạn có thể thấy được toàn bộ mọi thứ. Những ngọn đồi vây quanh thung lũng. Trên ngọn đồi cao nhất, Đồi Con Lai, cây thông Thalia đứng sừng sững với Bộ Lông Cừu Vàng được treo trên các cành của nó, có sức mạnh thần bí bảo vệ trại khỏi các kẻ thù. Con rồng làm nhiệm vụ bảo vệ Peleus quá lớn đến nỗi giờ đứng ở đây tôi cũng có thể nhìn thấy nó – cuộn mình quanh thân cây, thở ra khói khi nó ngáy.
Ở phía bên phải tôi là các cánh rừng trải dài. Bên trái, hồ xuồng sáng lấp lánh và bức tường leo nóng rực vì dung nham đang chảy xuống từ vách tường. Mười hai ngôi nhà – mỗi một ngôi nhà thuộc về một vị thần trên đỉnh Olympus – tạo thành hình móng ngựa bao quanh khoảnh sân chung. Xa hơn về hướng nam là các ruộng dâu tây, kho vũ khí và căn Nhà Lớn cao bốn tầng được sơn màu xanh da trời và chong chóng gió đại bàng bằng đồng.
Ở mặt nào đó, trại không có gì thay đổi. Nhưng bạn không thể nhìn thấy chiến tranh bằng cách nhìn vào các công trình xây dựng hay các cánh đồng. Bạn có thể nhìn thấy nó trên khuôn mặt của các á thần và các thần rừng cùng các nữ thần cây đang đi lên đồi.
Chẳng có nhiều trại viên so với bốn mùa hè trước. Một số đã rời đi và không bao giờ quay lại. Có người hy sinh trong các trận chiến. Những người khác – chúng tôi cố không nói về họ – đã về phe với kẻ thù.
Những người vẫn còn ở trại đều là những người dày dạn kinh nghiệm và mệt mỏi. Hồi này trong trại ít hẳn tiếng cười. Nhà thần Hermes cũng bày không quá nhiều trò chơi khăm. Cũng khó mà thưởng thức những trò chơi khăm vui vẻ khi toàn bộ cuộc đời bạn cảm thấy như gần kết thúc.
Bác Chiron là người đầu tiên phi nhanh lên khu nhà ăn, chuyện đó thật dễ dàng với bác ấy vì bác ấy là một con ngựa trắng từ thắt lưng trở xuống. Bộ râu của bác ấy mọc tua tủa qua một mùa hè. Bác ấy mặc một chiếc áo phông màu xanh lục với dòng chữ “Chiếc xe khác của tôi là một con nhân mã” và một cái cung được đeo trên lưng bác ấy.
“Percy!” bác ấy nói. “Tạ ơn các thần. Nhưng còn…”
Annabeth chạy vào ngay sau bác ấy, và tôi phải thừa nhận rằng trái tim tôi đã thực hiện một cú chạy sức nhỏ trong lồng ngực khi nhìn thấy cô ấy. Chẳng phải là do cô ấy cố tỏ ra chải chuốt. Gần đây chúng tôi phải thực hiện quá nhiều nhiệm vụ chiến đấu đến nỗi cô ấy hiếm khi chải mái tóc vàng uốn cong. Cô ấy cũng không buồn quan tâm đến trang phục đang mặc – thường là cùng chiếc áo phông màu cam cũ của trại và quần jeans, đôi khi là bộ áo giáp bằng đồng. Đôi mắt cô ấy có màu xám bão. Phần lớn thời gian, chúng tôi không thể hoàn tất một cuộc hội thoại mà không cố bóp cổ lẫn nhau. Tuy nhiên, chỉ nhìn thấy cô ấy thôi cũng đã khiến đầu óc tôi đờ đẫn đi. Hè năm ngoái, trước khi Luke biến thành Kronos và mọi thứ trở nên xấu đi, đã có đôi lần tôi chợt nghĩ có thể… ừm, chúng tôi có thể vượt qua được giai đoạn “bóp cổ lẫn nhau” đó.
“Chuyện gì đã xảy ra?” Cô ấy chộp lấy cánh tay tôi. “Có phải Luke…”
“Con tàu nổ tung,” tôi nói. “Anh ta vẫn không bị tiêu diệt. Tớ không biết…”
Silena Beauregard đẩy đám đông bước lên. Tóc cô ấy đã không được chải và cô ấy thậm chí còn không trang điểm, điều đó chẳng giống Silena chút nào.
“Charlie đâu?” cô ấy hỏi, nhìn quanh quất như thể anh ấy đang trốn ở đâu đấy.
Tôi nhìn bác Chiron cầu cứu.
Người nhân mã già hắng giọng. “Silena, cháu yêu, chúng ta sẽ nói về chuyện đó ở Nhà Lớn…”
“Không,” cô ấy lẩm bẩm. “Không. Không.”
Cô ấy bật khóc, và tất cả chúng tôi đứng yên, sững sờ không thốt lên lời. Chúng tôi đã mất rất nhiều người trong cả mùa hè, nhưng đây là tổn thất lớn nhất. Với cái chết của anh Beckendorf, mọi người đều có cảm giác như thể ai đó đã cướp đi chỗ dựa tin cậy của cả trại vậy.
Cuối cùng, Clarisse từ nhà thần Ares bước lên trước. Cô ta vòng tay ôm Silena. Tình bạn của họ lạ lùng nhất trần đời: con gái của thần chiến tranh và con gái của nữ thần tình yêu. Nhưng kể từ khi Silena đưa cho Clarisse lời khuyên về người bạn trai đầu tiên của cô ta vào hè năm ngoái, Clarisse đã quyết định cô ta sẽ là vệ sĩ riêng của Silena.
Clarisse đang mặc bộ áo giáp trận màu đỏ tươi, mái tóc nâu ẩn dưới một chiếc khăn rằn. Cô tao con và lực lưỡng như một cầu thủ bóng bầu dục với vẻ mặt cáu kỉnh thường trực, nhưng cô ta thật nhẹ nhàng khi nói chuyện với Silena.
“Đi nào, cô gái,” cô ta nói. “Chúng ta đến nhà lớn nhé. Tớ sẽ pha cho cậu một ít sôcôla nóng.”
Mọi người quay người lại, thơ thẩn từng hai ba người một, quay về lại khu nhà ở. Giờ thì chẳng có ai hào hứng gặp tôi nữa. Không ai muốn nghe về con tàu bị nổ tung đó nữa.
Chỉ Annabeth và bác Chiron còn ở lại.
Annabeth lau nước mắt vương trên má. “Tớ mừng là cậu không chết, Óc Tảo Biển.”
“Cảm ơn,” tôi nói. “Tớ cũng vậy.”
Bác Chiron đặt tay lên vai tôi. “Bác chắc cháu đã làm mọi điều cháu có thể, Percy. Cháu sẽ nói cho chúng ta nghe về chuyện gì đã xảy ra chứ?”
Tôi không muốn lại trải qua chuyện đó lần nữa, nhưng tôi đã kể cho họ toàn bộ câu chuyện, gồm cả giấc mơ về các thần Titan. Tôi bỏ qua chi tiết về Nico. Nico đã bắt tôi hứa không được hé môi với ai về kế hoạch của cậu bé cho đến khi tôi đưa ra quyết định. Ngoài ra kế hoạch ấy quá kinh khiếp vì thế tôi không phiền gì trong việc giữ bí mật.
Bác Chiron đăm đăm nhìn xuống thung lũng. “Chúng ta phải triệu tập hội đồng chiến tranh ngay lập tức, để thảo luận về chuyện gián điệp này, và cả những vấn đề khác nữa.”
“Thần Poseidon đề cập đến một sự đe dọa khác,” tôi nói thêm, “thứ gì đó thậm chí còn lớn cả con tàu Công chúa Andromeda. Cháu nghĩ nó có thể là thử thách mà thần Titan đã đề cập đến trong giấc mơ của cháu.”
Bác Chiron và Annabeth nhìn nhau, như thể họ biết được điều gì tôi không biết. Tôi ghét họ làm như thế.
“Chúng ta cũng sẽ thảo luận về điều đó,” bác Chiron hứa.
“Thêm một điều nữa.” Tôi hít sâu. “Khi cháu nói chuyện với cha cháu, ông nói cháu nói với bác rằng đã đến lúc. Cháu cần biết toàn bộ lời tiên tri.”
ác Chiron rũ xuống, nhưng bác ấy không hề ngạc nhiên. “Bác đã sợ hãi về ngày hôm nay. Tốt thôi. Annabeth, chúng ta sẽ cho Percy biết sự thật – tất cả sự thật. Cả hai đứa đi lên gác xép đi.”
Tôi đã ba lần leo lên gác xép của nhà lớn trước đây, cả ba lần đó mang lại nhiều điều hơn cả tôi mong đợi.
Một cái thang được dựng lên từ đỉnh của cầu thang gác. Tôi phân vân không biết bác Chiron lên đó bằng cách nào, khi có cơ thể nửa người nửa ngựa như thế, nhưng bác ấy không định làm thế.
“Cháu biết nó ở đâu mà,” bác ấy bảo Annabeth. “Cháu mang nó xuống nhé.”
Annabeth gật đầu. “Đi thôi, Percy.”
Bên ngoài, hoàng hôn đang dần buông xuống. Vì thế gác xép thậm chí còn tối và sởn gai ốc hơn mọi khi. Các chiến lợi phẩm của các anh hùng cũ ở khắp nơi: những cái khiên mẻ, đầu của đủ loại quái vật được ngâm trong các lọ, một đôi xúc xắc mờ xỉn nằm trên một tấm bản đồng với dòng chữ: Được trộm từ chiếc Honda Civic của Chrysaor, bởi Gus, con trai của thần Hermes, năm 1988.
Tôi cầm lên một thanh kiếm đồng bị uốn cong thành hình chữ M. Tôi vẫn có thể nhìn thấy các vết màu xanh lục trên lưỡi kiếm, đó là chất độc ma thuật đã được dùng để bọc bên ngoài lưỡi kiếm. Thẻ buộc thân kiếm ghi hè năm ngoái. Nó được viết: Thanh mã tấu của Kampê, đã bị tiêu diệt ở Cuộc chiến chốn Mê Cung.
“Cậu có nhớ anh Briares đã ném những tảng đá đó không?” tôi hỏi.
Annabeth cười miễn cưỡng. “Còn Grover thì tạo ra Sự Hoảng sợ?”
Mắt chúng tôi giao nhau. Tôi nghĩ về một khoảng thời gian khác vào mùa hè năm ngoái, bên dưới núi St. Helens, vì Annabeth nghĩ rằng tôi sẽ chết, cô ấy đã hôn tôi.
Cô ấy đằng hắng và nhìn ra chỗ khác. “Lời tiên tri.”
“Đúng rồi.” Tôi đặt thanh mã tấu xuống. “Lời tiên tri.”
Chúng tôi bước về phía cửa sổ. Ngồi trên chiếc ghế đẩu ba chân là Oracle – một xác ướp teo tóp của một phụ nữ trong bộ áo đầm nhuộm màu oang lổ. Các túm tóc đen của bà ta dính lủng lẳng vào xương sọ. Hai con mắt đờ đẫn nhìn chòng chọc trên khuôn mặt nhăn nhúm. Chỉ nhìn thấy bà ta thôi cũng khiến tôi sởn cả gai ốc.
Nếu bạn muốn rời trại trong mùa hè, thường thì bạn phải đến đây để có được một cuộc tìm kiếm. Mùa hè này, điều luật đó đã bị quẳng đi tận đẩu tận đâu. Các trại viên rời trại bất cứ khi nào khi thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu. Chúng tôi không có lựa chọn nếu muốn ngăn Kronos lại.
Dù thế, tôi vẫn nhớ cực rõ về màn sương màu xanh lục kỳ lạ – linh hồn của Oracle – sống bên trong xác ướp. Giờ bà ta giống một cái xác, nhưng bất cứ khi nào bà ta nói lời tiên tri, bà ta sẽ di chuyển. Đôi khi sương phun ra từ miệng bà ta và tạo thành các hình thù quái dị. Có lần, bà ta rời gác xép, đi vào rừng để truyền thông điệp. Tôi không chắc bà ta sẽ làm gì với “Lời Đại Tiên Tri”. Tôi hơi mong bà ta sẽ bắt đầu nhảy điệu clacket hay làm điều gì đó.
Nhưng bà ta chỉ ngồi đó như thể bà ta đã chết – mà đúng là bà ta đã chết.
“Tớ không bao giờ hiểu được điều này,” tôi thì thào.
“Điều gì?”
“Tại sao nó lại là một xác ướp.”
“Percy này, bà ta vốn không phải là xác ướp. Trong hàng ngàn năm, linh hồn của Oracle đã sống trong cơ thể một thiếu nữ đồng trinh xinh đẹp. Linh hồn sẽ được truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác. Bác Chiron nói với tớ rằng bà ta giống như thế năm mươi năm trước đây.” Annabeth chỉ về phía xác ướp. “Nhưng bà ta là người cuối cùng.”
“Chuyện gì đã xảy ra?”
Annabeth rõ ràng định nói điều gì đó nhưng hình như đã đổi ý. “Hãy làm xong việc của chúng ta và ra khỏi đây.”
Tôi sợ hãi nhìn khuôn mặt nhăn nhúm của Oracle. “Vậy giờ phải làm sao?”
Annabeth đến bên xác ướp và ngửa hai lòng bàn tay cô ấy ra. “Ôi Oracle, thời khắc đã điểm. Tôi muốn có Lời Đại Tiên Tri.”
Tôi cố hết sức, nhưng xác ướp đã không di chuyển. Thay vào đó, Annabeth tiến đến và tháo một trong các hạt ở chiếc vòng cổ của bà ta. Tôi chưa bao giờ quá chú ý đến đồ trang sức của bà ta trước đây. Tôi chỉ nghĩ nó chỉ là chuỗi hạt tình yêu và đại loại như thế. Nhưng khi Annabeth quay về phía tôi, cô ấy đang cầm trong tay một túi da nhỏ – như một túi thuốc của người da đỏ với một sợi dây thừng nhỏ được kết với những chiếc lông vũ. Cô ấy mở túi và lấy ra một cuộn giấy da chẳng lớn hơn bao nhiêu so với ngón tay út của cô ấy.
“Không phải chứ,” tôi nói. “Ý cậu là trong cả mấy năm nay, tớ hỏi về lời tiên tri ngớ ngẩn này, và nó nằm ở đây quanh cổ của bà ta ư?”
“Chưa tới thời điểm thôi,” Annabeth nói. “Hãy tin tớ, Percy, tớ đã đọc được nó khi tớ được mười tuổi, và đến giờ tớ vẫn còn gặp ác mộng vì nó.”
“Tuyệt nhỉ,” tôi nói. “Giờ tớ có thể đọc nó chưa?”
“Dưới lầu, ở hội đồng chiến tranh,” Annabeth nói. “Không phải trước… cậu biết mà.”
Tôi nhìn vào cặp mắt đờ đẫn của Oracle, và tôi quyết định không cãi lại cô ấy. Chúng tôi đi xuống lầu để gia nhập với mọi người. Vào lúc đó tôi đã không biết, nhưng đó sẽ là lần cuối cùng tôi đến thăm căn gác xép.
Những người đứng đầu các nhà đã tập trung quanh bàn đánh bóng bàn. Đừng hỏi tôi về lý do, nhưng phòng giải trí đã trở thành cơ quan chỉ huy không chính thức của trại dành cho hội đồng chiến tranh. Nhưng khi Annabeth, bác Chiron và tôi bước vào, nó giống với cuộc thi “hét với nhau” hơn.
Clarisse vẫn trong trạng thái vũ trang đầy đủ. Cây giáo điện được cột phía sau lưng cô ta (thực ra đó là cây giáo điện thứ hai, vì tôi đã bẻ gãy cây thứ nhất. Cô ta đã gọi nó cây giáo là ‘Bé Thương’. Sau lưng cô ta, mọi người lại gọi nó là ‘Bé Què’.) Chiếc nón sắt hình lợn lòi ở bên dưới một cánh tay và một con dao được dắt ngang thắt lưng.
Cô ta đang hét vào mặt Michael Yew, người đứng đầu mới của nhà thần Apollo, cậu ta trông khá buồn cười vì Clarisse cao hơn cậu ta đến chín mươi centimet. Michael đã tiếp quản nhà thần Apollo sau khi Lee Fletcher hy sinh trong trận chiến vào mùa hè năm ngoái. Michael cao một mét ba bảy cùng sáu mươi centimet dáng điệu. Cậu ấy gợi cho tôi về hình ảnh của con chồn sương, với một cái mũi nhọn hoắt và venhăn nhó. Chắc có lẽ bởi Michael đã cau có quá nhiều hoặc vì cậu ta đã dành phần lớn thời gian nhìn xuống đầu nhọn của mũi tên.
“Đây là của cải của chúng ta!” cậu ta hét lên, kiễng chân lên để có thể nhìn được vào mặt Clarisse. “Nếu cô không thích nó, cô có thể hôn ống tên của tôi!”
Đang ngồi quanh bàn, mọi người đang cố để không cười phá lên – anh em nhà Stoll, Pollux nhà thần Dionysus, Katie Gardner đến từ nhà nữ thần Demeter. Ngay cả Jake Mason, người vừa được vội vàng chỉ định làm người đứng đầu nhà thần Hephaestus, cũng nở một nụ cười yếu ớt. Chỉ duy nhất Silena Beauregard không chú ý đến. Cô ngồi bên cạnh Clarisse và nhìn lơ đãng vào tấm lưới bóng bàn. Hai mắt cô đỏ và sưng húp. Một tách sôcôla nóng không được đụng đến được đặt trước mặt. Dường như không công bằng lắm khi cô ấy buộc phải có mặt ở đây. Tôi không thể tin là Clarisse và Michael lại ở trước mặt cô ấy, tranh cãi về điều ngớ ngẩn như của cải trong khi cô vừa mới mất anh Beckendorf.!”
“Thôi đi.” tôi hét lớn. “Hai người đang làm gì thế?”
Clarisse trừng mắt nhìn tôi. “Nói Michael đừng trở thành gã ích kỷ như thế.”
“Ồ, điều đó thật chính xác, là do cô mà thôi,” Michael vặc lại.
“Lý do duy nhất tôi có mặt ở đây là để cổ vũ Silena!” Clarisse gào lớn. “Nếu không, tôi sẽ quay về lại nhà của mình.”
“Các cậu đang nói về cái gì?” tôi gặng hỏi.