Vật chủ

Chương 14 - Phần 2


Bạn đang đọc Vật chủ – Chương 14 – Phần 2

Tôi lảo đảo đứng lên. Tôi không cảm nhận được hai chân mình tốt lắm – chúng nhoi nhói như kim châm khi máu chảy xuống. Có một tiếng xùy không bằng lòng ở sau lưng ông. Nó tới từ nhiều hơn một cái miệng.
“Okay, bất kể cô là gì,” ông nói với tôi, giọng vẫn tử tế. “Hãy ra khỏi đây trước khi trời nóng lên.”
Người chắc hẳn phải là anh em trai của Kyle đặt một tay lên cánh tay Jeb.
“Bác không thể cứ chỉ cho nó thấy chỗ chúng ta sống, Jeb.” “Ta thì cho việc đó chẳng có gì quan trọng,” Maggie gay gắt nói. “Nó sẽ không có cơ hội để kể chuyện đâu.”
Jeb thở dài và rút ra một cái khăn rằn – hoàn toàn bị bộ râu của ông che phủ – từ cổ mình.
“Thế này thật ngớ ngẩn,” ông ấy lầm bầm, nhưng ông vẫn quấn cái mớ giẻ bẩn thỉu, cứng lại vì mồ hôi khô, thành một cái bịt mắt.
Tôi đứng yên hoàn toàn khi ông buộc nó quanh mắt tôi, đấu tranh với nỗi sợ hãi đang tăng lên vì tôi không thể nhìn thấy kẻ thù của mình.
Tôi không thể nhìn được, nhưng tôi vẫn biết đó là Jeb khi ông đặt một bàn tay lên lưng và dẫn đường cho tôi; không ai khác có thể nhẹ nhàng đến thế. Chúng tôi bắt đầu đi về phía trước, về hướng bắc, tôi nghĩ vậy. Lúc đầu không ai nói gì – chỉ có tiếng cát bị nghiến dưới rất nhiều bàn chân. Mặt đất bằng phẳng, nhưng tôi vấp ngã trên hai chân tê cứng của tôi hết lần này đến lần khác. Jeb rất kiên nhẫn; bàn tay dẫn đường của ông gần như là hào hiệp.
Tôi cảm thấy mặt trời lên cao khi chúng tôi bước đi. Vài bước chân nhanh hơn những bước chân khác. Họ di chuyển lên trước chúng tôi cho đến khi khó mà nghe được tiếng họ. Có vẻ như là chỉ còn thiểu số ở lại với Jeb và tôi. Chắc hẳn trông tôi không có vẻ cần nhiều lính gác – tôi đã ngất xỉu vì đói, và tôi lảo đảo trên từng bước chân; đầu tôi quay cuồng và trống rỗng.
“Ông không định nói với nó, phải không?”
Đó là giọng của Maggie; nó tới từ phía sau tôi vài feet, và nó nghe có vẻ trách cứ.
“Nó có quyền được biết,” Jeb trả lời. Âm điệu bướng bỉnh đã trở lại trong giọng nói của ông.
“Ông đang làm một việc không tốt lành gì hết, Jebediah.”

“Cuộc sống không tốt lành gì,  Magnolia.”
Thật khó để quyết định ai là người đáng sợ hơn trong hai người ấy. Có phải là Jeb, người dường như rất kiên quyết giữ mạng sống của chúng tôi? Hay là Maggie, người đã gợi ý bác sĩ ngay từ đầu – một danh xưng đã làm tôi sợ hãi, khó chịu một cách bản năng – nhưng dường như có vẻ lo lắng về sự tàn nhẫn hơn là em trai bà ấy?
Chúng tôi bước đi trong im lặng thêm vài giờ nữa. Khi đôi chân của tôi khịu xuống, Jeb để tôi ngồi trên đất và đưa cái bi đông vào miệng tôi như ông đã làm trong đêm.
“Hãy nói ta biết khi cô đã sẵn sàng,” Jeb bảo tôi. Giọng ông nghe có vẻ tốt bụng, mặc dù tôi biết rằng đó là một cách hiểu sai lầm.
Ai đó thở dài sốt ruột.
“Tại sao bác lại làm chuyện này, Jeb?” Một người đàn ông hỏi. Tôi đã nghe thấy giọng nói này trước đó; đó là của một trong hai anh em. “Vì Doc (cách gọi tắt của bác sĩ) à? Bác chỉ cần phải nói thế với Kyle. Bác không cần phải chĩa súng vào anh ấy.”
“Kyle cần có một khẩu súng chĩa vào nó nhiều hơn,” Jeb lầm bầm.
“Xin hãy nói với cháu đây không phải là vì lòng thương hại chứ,” người đàn ông tiếp tục nói. “Sau tất cả những gì mà bác đã thấy…”
“Sau tất cả những gì mà ta đã thấy, nếu ta vẫn không học được lòng trắc ẩn, thì ta là đồ vô giá trị. Nhưng không, đây không phải chuyện về lòng trắc ẩn. Nếu ta có đủ lòng trắc ẩn cho cái sinh vật tội nghiệp này, ta phải để nó chết rồi mới phải.”
 Tôi rùng mình trong cái nóng như lò nung.
“Vậy thì, vì cái gì?” em trai của Kyle hỏi.
Có một khoảng lặng dài, rồi bàn tay Jeb chạm vào tay tôi. Tôi nắm lấy nó, cần sự giúp đỡ để đứng lên. Bàn tay kia của ông chạm vào lưng tôi, và tôi lại bắt đầu đi lên phía trước.
“Tò mò,” Jeb nói bằng giọng trầm.

Không ai trả lời.
Khi chúng tôi đi, tôi xem xét vài nhân tố chắc chắn. Một, tôi không phải là linh thể đầu tiên họ đã bắt giữ. Đã có một cách làm mặc định ở đây. Ông “Doc” này đã cố tìm kiếm câu trả lời từ vài người khác trước tôi.
Hai, ông ta đã không thành công. Nếu bất kì một linh thể nào không tự tử mà bị ngã gục trước sự tra tấn của loài người, thì giờ họ sẽ không cần tôi. Cái chết của tôi sẽ là một cái chết nhanh chóng khoan dung.
Kì lạ là, cho dù thế tôi không thể để mình hi vọng một kết thúc nhanh chóng, hay là cố gắng tác động đến cái kết cục ấy được. Việc đó sẽ rất dễ dàng, thậm chí không cần phải tự mình làm. Tôi chỉ phải bịa ra cho họ một lời nói dối – giả vờ tôi là một Người truy tìm, kể với họ những đồng nghiệp của tôi bây giờ đang theo dấu tôi, giả vờ quát tháo và đe dọa ầm ĩ. Hay nói với họ sự thật – rằng Melanie vẫn sống bên trong tôi, và rằng cô ấy đã mang tôi tới đây.
Họ sẽ nhìn nó thành một lời nói dối khác, một lời nói dối mà từ góc nhìn của họ là vô cùng khó cưỡng lại – cái ý tưởng rằng con người có thể sống sót sau vụ cấy ghép – quá quyến rũ, quá quỷ quyệt đến nỗi họ sẽ tin chắc rằng tôi là một Người truy tìm còn hơn cả tôi tự khẳng định. Họ sẽ cho đó là một cái bẫy, nhanh chóng vứt bỏ tôi, và tìm một nơi mới để trốn, xa khỏi đây.
Có lẽ cô nói đúng,  Melanie đồng ý. Đó là những gì tôi sẽ làm.
Nhưng tôi vẫn chưa phải chịu cơn đau nào, và vì thế khó mà nghĩ ra được cách tự sát nào cả; bản năng sống còn của tôi dính chặt miệng tôi. Kí ức về lần tham vấn cuối cùng của tôi với Người khuyên giải – một khoảng thời gian quá văn minh đến nỗi dường như nó thuộc về một hành tinh khác – thoáng qua óc tôi. Melanie đang thách thức tôi vứt bỏ cô ấy, một cơn bốc đồng muốn chết, nhưng chỉ là một lời thách thức. Tôi nhớ đã nghĩ thật khó mà suy tính cái chết khi đang ngồi trên một chiếc ghế êm ái.
Đêm qua Melanie và tôi đã ước được chết, nhưng lúc đó cái chết chỉ cách chúng tôi có vài phân. Giờ đây nó rất khác khi tôi lại đứng được trên chân mình.
Tôi cũng không muốn chết, Melanie thì thầm. Nhưng có lẽ cô sai rồi. Có lẽ đó không phải là lý do họ giữ chúng ta sống. Tôi không hiểu tại sao họ lại làm thế… Cô ấy không muốn tưởng tượng những thứ họ có thể làm với chúng tôi – tôi chắc chắn cô ấy sẽ nghĩ đến nhiều thứ tồi tệ hơn tôi. Cô có câu trả lời nào mà họ muốn đến mức ấy?
Tôi sẽ không bao giờ nói. Không phải với cô, không phải với bất kì con người nào.
Một tuyên bố táo bạo. Nhưng mà, tôi vẫn chưa chịu cơn đau nào hết…
Một giờ nữa trôi qua – mặt trời đã ở thẳng trên đỉnh đầu, cái nóng của nó như một vương miện bằng lửa trên tóc tôi – khi âm thanh thay đổi. Những bước chân ken két mà tôi hầu như không nghe thấy nữa giờ vang lên ngay phía trước tôi. Bàn chân của Jeb vẫn lạo xạo trên cát như của tôi, nhưng ai đó phía trước chúng tôi đã bước vào một vùng địa hình khác.

“Cẩn thận nào,” Jeb cảnh báo tôi. “Coi chừng cái đầu cô.”
Tôi do dự, không chắc phải coi chừng cái gì, hay làm sao để coi chừng khi tôi không nhìn được. Bàn tay của ông rời khỏi lưng tôi và ấn xuống đầu tôi, bảo tôi cúi mình. Tôi cúi xuống. Cổ tôi cứng ngắc.
Ông lại dẫn tôi lên trước, và tôi nghe thấy tiếng bước chân chúng tôi tạo ra những âm thanh vang vang tương tự. Mặt đất không tạo cảm giác như cát, cũng không giống đá. Nó bằng phẳng và cứng rắn dưới chân tôi.
Mặt trời đã rời khỏi – tôi không còn cảm thấy nó đốt cháy da thịt tôi hay nung nóng tóc tôi nữa. Tôi bước thêm một bước, và luồng không khí mới chạm vào mặt tôi. Nó không phải là một làn gió. Nó là hơi nước – tôi bước vào trong nó. Làn gió khô nóng của hoang mạc biến mất. Luồng không khí này yên ả hơn và mát hơn. Có một chút xíu dấu vết hơi ẩm trong nó, một mùi ẩm mốc mà tôi vừa ngửi lại vừa nếm được.
Có quá nhiều câu hỏi trong đầu tôi, và trong đầu Melanie. Cô ấy muốn hỏi những câu hỏi của mình, nhưng tôi giữ im lặng. Bây giờ không có điều gì mà cả hai chúng tôi nói có thể giúp được chúng tôi.
“Okay, cô có thể thẳng người lên,” Jeb bảo tôi.
Tôi chầm chậm ngẩng đầu lên.
Thậm chí cả trong cái bịt mắt, tôi vẫn có thể nói được là chẳng có chút ánh sáng nào. Xung quanh mép của cái khăn rằn hoàn toàn là một màu đen. Tôi có thể nghe thấy những người khác ở đằng sau tôi, lê bước chân một cách sốt ruột, chờ chúng tôi đi về phía trước.
“Đường này,” Jeb nói, và ông lại dẫn đường cho tôi. Những bước chân của chúng tôi vọng lại từ khoảng cách gần – chúng tôi chắc hẳn đang ở trong một không gian khá chật hẹp. Tôi thấy mình cúi đầu xuống một cách bản năng. Chúng tôi bước thêm vài bước nữa, rồi quẹo quanh một khúc cua ngoặt có vẻ như khiến chúng tôi vòng trở lại đường vừa vào. Mặt đất bắt đầu dốc xuống. Mỗi bước lại càng dốc hơn, và Jeb dùng bàn tay thô ráp của ông để giữ tôi khỏi ngã. Tôi không biết tôi đã trượt và ngã qua bóng tối bao lâu. Cuộc đi bộ có thể gây cảm giác dài hơn thực tế bởi mỗi phút tôi chậm lại vì sợ hãi.
Chúng tôi rẽ một lần nữa, và rồi mặt đất bắt đầu dốc lên. Chân tôi tê và cứng đến nỗi khi con đường dốc hơn, Jeb phải vừa đi vừa kéo tôi lên. Chúng tôi càng đi thì không khí càng ẩm và mốc hơn, nhưng bóng tối thì không thay đổi. Âm thanh duy nhất là những bước chân của chúng tôi và tiếng vọng lại của chúng.
Con đường bằng phẳng hơn và bắt đầu ngoặt và vòng như rắn.
Cuối cùng, cuối cùng, cũng có chút ánh sáng ở quanh đường viền trên và dưới của cái bịt mắt. Tôi ước nó bị trượt xuống, vì tôi quá sợ không dám kéo nó xuống khỏi mắt. Với tôi có vẻ như là tôi sẽ không sợ đến thế nếu tôi có thể nhìn được mình đang ở nơi nào và ai ở cùng tôi.
Đến cùng với ánh sáng là âm thanh. Âm thanh kì lạ, một tập hợp những tiếng lầm rầm. Nó nghe gần giống như một thác nước.
Tiếng rì rào to hơn khi chúng tôi tiến lên phía trước, và càng đến gần thì nó lại càng ít giống tiếng nước hơn. Nó quá khác nhau, âm độ trầm và cao trộn lẫn và vọng lại. Nếu nó không quá trái ngược nhau, có thể nó sẽ giống như một phiên bản xấu xí của thứ âm nhạc không dứt tôi đã nghe và hát trên Thế giới Hát. Bóng tối của tấm bịt mắt phù hợp với kí ức ấy, kí ức của sự mù lòa. Melanie hiểu cái tạp âm ấy trước khi tôi hiểu. Tôi chưa bao giờ nghe thấy âm thanh ấy bởi vì tôi chưa từng ở với con người trước đó.
Đó là một trận cãi vã, cô ấy nhận ra. Nghe như là rất nhiều người đang cãi nhau.

Cô ấy bị lôi kéo bởi âm thanh. Vậy là có nhiều người hơn nữa ở đây ư? Chỉ mới có tám người cũng làm cả hai chúng tôi ngạc nhiên rồi. Chỗ này là chỗ nào thế? Những bàn tay chạm vào gáy tôi, và tôi tránh ra khỏi chúng.
“Yên nào,” Jeb nói. Ông kéo cái khăn bịt mắt ra khỏi mắt tôi.
Tôi chậm chạp chớp mắt, và những cái bóng quanh tôi tập hợp lại thành các hình dạng tôi có thể hiểu được: những bức tường thô ráp, gồ ghề; một cái trần lỗ chỗ; một sàn nhà mòn vẹt, bụi bặm. Chúng tôi đang ở nơi nào đó dưới mặt đất trong một cái hang tự nhiên. Chúng tôi không thể nào ở sâu đến thế được. Tôi đã tưởng chúng tôi trèo lên nhiều hơn là đi xuống.
Những bức tường và trần nhà bằng đá có màu nâu tím sẫm, và chúng lỗ chỗ những cái hố nông như là pho mát Thụy Sĩ. Rìa của những cái lỗ dưới thấp đã bị bào mòn đi, nhưng ở trên đầu tôi những đường tròn rõ hơn và rìa của chúng trông có vẻ sắc cạnh.
Ánh sáng tới từ một cái lỗ tròn trên đầu chúng tôi, hình dáng của nó không phải không giống những cái lỗ rải rác trong hang nhưng lớn hơn. Đây là lối vào, một lối vào tới một nơi sáng sủa hơn. Melanie rất háo hức, mê mải với ý nghĩ có nhiều con người hơn. Tôi lùi lại, đột nhiên lo lắng rằng có lẽ không thấy gì lại tốt hơn là có thấy.
Jeb thở dài. “Xin lỗi,” ông lầm rầm, rất thấp đến nỗi chắc chắn tôi là người duy nhất nghe thấy.
Tôi có nuốt nước bọt nhưng không thể. Đầu tôi bắt đầu quay vòng vòng, nhưng cái đó có thể là do đói. Bàn tay tôi run rẩy như như những cái lá trước một cơn gió mạnh khi Jeb thúc tôi đi qua cái lỗ lớn.
Đường hầm mở vào trong một căn phòng lớn đến nỗi đầu tiên tôi không thể chấp nhận cái mà mắt tôi chỉ cho tôi. Trần nhà quá sáng và quá cao – nó giống như một bầu trời nhân tạo. Tôi cố gắng nhìn xem cái gì đã thắp sáng nó, nhưng nó bắn xuống những ngọn giáo ánh sáng sắc nhọn làm đau mắt tôi. Tôi đã trông chờ âm thanh rì rào sẽ to hơn, nhưng cái hang rộng lớn đột nhiên im lặng như chết.
Sàn hang mờ tối nếu so với cái trần quá sáng ở tít trên cao. Phải mất một lúc mắt tôi mới nhìn được hết các hình dạng.
Một đám đông. Không có từ nào khác cho nó – có một đám con người đang đứng im lìm và lặng lẽ, tất cả đều nhìn chằm chằm vào tôi với cùng những biểu hiện hừng hực căm ghét, tràn đầy thù hận mà tôi đã nhìn thấy lúc bình minh.
Melanie quá choáng không làm được gì khác ngoài việc nhẩm đếm. Mười, mười lăm, hai mươi… hai mươi lăm, hai mươi sáu, hai mươi bảy…
Tôi không quan tâm có bao nhiêu người ở đó. Tôi cố nói với cô ấy việc đó không quan trọng như thế nào. Không cần phải có đến hai mươi người mới giết được tôi. Giết được chúng tôi. Tôi cố khiến cho cô ấy nhìn thấy tình trạng ngặt nghèo của chúng tôi, nhưng lúc này cô ấy không biết gì đến những lời cảnh báo của tôi, hoàn toàn đắm chìm trong cái thế giới con người mà cô ấy chưa từng mơ tưởng tới này.
Một người đàn ông bước lên trước đám đông, và đôi mắt tôi trước hết lao về phía bàn tay anh ta, tìm kiếm loại vũ khí có thể anh ta đang cầm. Bàn tay anh ta nắm lại thành hai nắm đấm nhưng không có bất kì mối đe dọa vũ khí nào. Mắt tôi, đã điều chỉnh được với ánh sáng chói lọi, bắt được sắc thái rám nắng trên làn da anh ta rồi nhận ra nó.
Nghẹn lời vì niềm hi vọng đột ngột khiến tôi choáng váng, tôi ngước mắt lên nhìn khuôn mặt của người đàn ông đó.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.