Đọc truyện UAAG – Đội Điều Tra Tai Nạn Hàng Không – Chương 23
UAAG – Đội điều tra tai nạn hàng không
Tác giả: Mạc Thần Hoan
Chuyển ngữ: Dú
Quyển 2: Hoàng tử nhỏ
Chương 23: “Đêm tới, khi anh nhìn lên bầu trời, em sẽ là một trong bao vì sao kia.”
Trong quá trình điều tra tai nạn máy bay, không phải chưa từng có việc nhân viên điều tra ráp lại máy bay mà là không nhiều lắm.
Đa số trong các vụ tai nạn, máy bay không rơi nát bét như vậy, thậm chí nhiều lúc người ta vẫn giữ gìn được hình dạng trọn vẹn của máy bay nên muốn ráp nó lại không khó lắm. Song, với cái kiểu đâm vào núi bằng tốc độ cao và tan xác như Marsha 123 thì mức độ khó khi muốn ráp nó lớn đến nỗi có thể thấy rõ.
Nhưng Trác Hoàn chẳng hề nói đùa.
Ngày hôm sau, đội điều tra bắt đầu dựng lại mô hình khung xương máy bay.
Máy bay không dùng các mảnh ghép nhỏ để lắp từng cái một như trò chơi ghép hình được. Nó là một hình lập thể 3D. Muốn ráp lại thành một cái máy bay hoàn chỉnh thì trước hết phải dựng khung sắt đầy đủ cho nó, hệt như xây nhà thì phải xây móng trước vậy. Đội điều tra tìm suốt ba ngày ròng rã, hao hết tâm huyết của hơn ba mươi nhân viên điều tra và thợ thì mới dựng được khung sắt máy bay.
Nhân viên kĩ thuật của công ty ATR giờ đây cũng đã chạy tới Schaffhausen đặng hỗ trợ kĩ thuật cho đội điều tra: Không một ai hiểu rõ máy bay hãng của họ hơn họ cả.
Kế hoạch ráp máy bay đồ sộ đã dần dần triển khai, chắc chắn không thể một lần là xong.
Bên khác, Lina cũng tìm được hơn một trăm hành khách từng ngồi trên chuyến bay Marsha 123 thông qua sân bay và công ty hàng không. Cô liên lạc với những người này qua mạng, đồng thời chịu chi trả toàn bộ chi phí đi lại. Cuối cùng, có hơn ba mươi người đồng ý đến Schaffhausen một chuyến, nhận lời mời thẩm vấn của đội điều tra.
Trong kho kẹo, từng mảnh xác máy bay bày đầy đất giờ đây đã bị gom hết sang một bên, thứ thế chỗ chúng là khung sắt máy bay khổng lồ. Nó dài đến hơn nửa kho hàng, hùng hồn chiếm hết vị trí trung tâm nhất của kho hàng. Hàng chục nhân viên điều tra và nhân viên kĩ thuật của công ty ATR cầm mảnh xác hí hoáy với khung xương máy bay, cuối cùng cũng xác nhận mà ráp lên.
Lina đi vào kho, cô tìm thấy Phục Thành trong đám người bèn vẫy tay với anh.
Phục Thành bước ra cửa kho, Lina nói: “Đã có năm hành khách đến. Phục à, tôi muốn mời anh tiến hành thẩm vấn với tôi.”
Phục Thành nghĩ đoạn: “Không gọi thầy Trác à?”
Lina sửng sốt hỏi ngược lại: “Anh cho rằng Reid thích hợp với những việc như thế?”
Câu này có lý quá, Phục Thành hết đường phản bác. Anh buông công việc trong tay xuống, đoạn đi đến kí túc xá của nhà máy kẹo với Lina.
Từ sau khi Lina mua đứt lại cả cái nhà máy kẹo này thì nơi đây hiển nhiên trở thành trụ sở điều tra chính. Hai người đi lên tầng bốn, ngoài hành lang có năm người đang ngồi, có nam có nữ, có già có trẻ. Lina bước lên trước chuyện trò đôi câu bằng tiếng Đức, tiếp đó cô dẫn một cô gái còn trẻ đi vào văn phòng.
Cửa chính nhẹ nhàng khép lại, cô gái ngồi đối diện, Phục Thành và Lina ngồi ở bên còn lại.
Sau khi vào nhà, cô gái nọ hay láo liên nhìn xung quanh bằng ánh mắt tò mò. Không phải ai cũng đi máy bay, thậm chí đa số họ cả đời không hề dính líu đến vụ tai nạn máy bay nào, lại càng không tiếp xúc với đội điều tra tai nạn máy bay bao giờ.
Đó là một văn phòng rộng thoáng đặt các loại tài liệu và dụng cụ một cách bừa bộn. Bên trong phòng có một chiếc bảng trắng chi chít những hàng chữ viết bằng bút lông đỏ và đen, có tên người, có tên hãng hàng không Marsha, và cả Marsha 123 nữa; mà ở bên cạnh các dòng chữ đó là bức hình của hai phi công.
Lina bật bút ghi âm: “Chào cô, xin hỏi cô ngồi trên chuyến bay Marsha 380 vào khi nào?”
Cô gái lập tức dời mắt, cô ngồi thẳng tắp: “Ừm, khụ, một tháng trước tôi đã ngồi trên cái máy bay này để đi từ Berlin đến London.”
Sáng nay có thêm mười mấy người lục tục kéo tới.
Hệt như khách vãng lai trên thế gian: Họ đi qua cánh cửa văn phòng kia, để lại một vài ấn tượng mỏng manh và duy nhất của mình đối với Marsha 380 rồi hối hả đi mất.
Đến chạng vạng, họ đã thẩm vấn xong ba mươi sáu người. Phục Thành sửa sang lại tài liệu thẩm vấn, bên tai chợt vang lên tiếng soàn soạt của chân ghế, anh quay đầu nhìn thì bắt gặp Lina đứng trước bảng trắng, ngửa đầu nhìn chàng trai tóc vàng đang cười rạng rỡ.
Tay cô cầm chặt bút ghi âm, đôi mắt tập trung dõi theo nụ cười vô ưu vô lự của người bạn thân. Hàng nước mắt nóng hổi đong đầy vành mắt cuối cùng cũng tuôn trào. Cô giơ tay bụm miệng để tiếng khóc không bật ra thành tiếng qua kẽ tay.
Môi Phục Thành mấp máy, anh đang định mở miệng an ủi thì Lina thốt lên: “Cứ để tôi một mình đi Phục.”
Phục Thành im lặng: “Lina à, hãy nén đau buồn nhé.”
Nhìn đăm đăm vào người bạn thân trên bảng trắng, Lina cất giọng khản đặc: “Cậu ấy chưa kể tôi nghe bao giờ, rằng công việc cậu ấy lại vất vả đến mức đó. Cậu ấy chưa kể tôi nghe bao giờ…” Rồi tiếng khóc chẳng tài nào kiềm được, chúng bật ra khỏi cổ họng.
Lina bật khóc thành tiếng, Phục Thành cầm tài liệu thẩm vấn đi ra khỏi văn phòng, để lại không gian yên tĩnh cho cô.
Bên trong cánh cửa là tiếng khóc nghẹn ngào tan vỡ đầy tuyệt vọng của một cô gái, ngoài cửa lại là cảnh vắng lặng ngột ngạt.
Phục Thành đóng cửa, xoay người lại, chợt sững sờ.
Mãi sau anh mới nhẹ giọng hỏi: “Thầy Trác, ngài đã đến đây từ lúc nào?”
Ánh tà dương rọi qua khung cửa sổ cuối hành lang, vẩy chếch hạt nắng vào trong. Chúng đáp chân xuống nền đất xi măng, lan tỏa vẻ đẹp chói lọi nửa ấm nửa lạnh. Người đàn ông mặc áo khoác mỏng manh đứng dựa vào tường, hai tay đút túi, đầu hơi gục xuống. Hình như hắn đang nhai kẹo cao su, môi hắn lên xuống theo động tác nhai nuốt.
“Mới đến được năm phút thôi.” Dừng đoạn, Trác Hoàn nhìn anh: “Thẩm vấn sao rồi?”
Phục Thành lặng thinh một lát, đoạn duỗi tay đưa tài liệu cho hắn.
Trác Hoàn nhận lấy rồi nhìn sơ mấy lượt. Hắn khịt mũi cười khẩy rồi trả tài liệu lại cho Phục Thành và xoay người đi: “Đi thôi, về ráp máy bay nào.”
Phục Thành chần chờ một chốc, song vẫn cất bước đi theo.
Dưới ánh sáng nhá nhem, hai người sóng vai nhau mà đi, đi ra khỏi hành lang tĩnh lặng.
Tập tài liệu bị Phục Thành đặt trong kho dữ liệu của trụ sở điều tra, đợi khi nào sự thật đã rõ ràng thì chúng sẽ được đưa vào lúc viết báo cáo điều tra.
Sáu tiếng trước, trong văn phòng, một cô gái đã nói bằng tiếng Anh như thế này.
“Lúc tôi lên máy bay là đã hơi muộn rồi, vừa mới yên vị thì cơ phó đi vào khoang hành khách để dạy cách dùng dây đai an toàn. Đây là một hãng giá rẻ nên đương nhiên không có màn hình chiếu như các hãng máy bay lớn khác, cho nên phải có người dạy bằng miệng về các thao tác an toàn này. Song đây là lần đầu tiên tôi thấy phi công phải làm chuyện đó nên có ấn tượng rất sâu sắc.”
Một cụ già đã nói bằng tiếng Đức như thế này.
“Tôi là người đầu tiên lên máy bay, chắc là lên sớm quá nên tôi thấy cơ trưởng đang sửa ghế dựa. Cậu nhóc đó thấy tôi thì ngạc nhiên lắm, lật đật giải thích với tôi là cái ghế đó không có vấn đề gì, chỉ là có một cái ốc bị lỏng nên cậu ta mới phải vặn lại.”
Một cậu nhóc vừa nhớ lại vừa kể.
“Vì quên lấy đồ nên tôi quay lại máy bay. Tôi đã bắt gặp cơ trưởng và cơ phó đang dỡ ghế. Tôi hết sức kinh ngạc, họ đã giúp tôi tìm cái túi tôi làm mất. Lúc tôi đi còn ngoái đầu nhìn nên thấy họ cầm tua vít và vẫn đang dỡ ghế. Vì sao phải dỡ ghế nhỉ, do ghế cũ quá nên phải thay à?”
Trong văn phòng lặng như tờ, Phục Thành nhìn cậu nhóc đang thấy khó hiểu.
“… Phải, là vì cái ghế đó cũ quá nên phải thay.”
Vì sao phải dỡ ghế?
Vì sau khi tiễn lớp hành khách cuối cùng thì họ phải sửa lại máy bay thành máy bay vận tải để chở hàng hóa.
Thế nên họ phải cố bằng mọi giá dỡ hết ghế thì mới chừa ra nhiều không gian hơn để chở hàng hóa nhằm tăng lợi nhuận vận chuyển. Đó là yêu cầu của công ty hàng không. Mỗi ngày, sau khi tiễn bước khách đi, họ phải dỡ hết tất cả bốn mươi ghế rồi chuyển đến khoang hành lí. Sáng tinh mơ ngày hôm sau, họ lại phải lắp từng cái ghế một trong vòng hai tiếng đồng hồ.
Ngày qua ngày, lặp đi lặp lại một chuyện.
Đó là công việc hằng ngày của Leon Lorraine và Gerard Truffaut.
Tám giờ tối, mọi người vẫn đang tiếp tục ráp máy bay trong kho. Lina mang đôi mắt hoe đỏ đi vào, cô gọi Cao Vân lại nói gì đó. Đến khi Cao Vân về, Phục Thành hỏi gã: “Lina nói gì với anh thế?”
Sắc mặt Cao Vân chẳng khá khẩm lắm, gã thở dài: “Lina nói tôi nghe là trụ sở chính của EASA đã đưa ra kết luận, đó là cảnh cáo và xử phạt ở mức độ nhất định với hãng Marsha. Nhưng Phục à, không có thêm bất cứ một hình phạt nào nữa cả. Nếu công ty Marsha có thể hợp tác với công ty ma và vô cớ bịa ra một chuyến bay Marsha 123 thì ắt hẳn đã qua cố vấn pháp luật rồi. Hành vi của bọn họ là hoàn toàn hợp pháp, không ai có thể chế tài họ cả. Nên ban nãy Lina hỏi tôi pháp luật hàng không của châu Âu chỉ thế thôi sao… Tôi đáp lại cô ấy là, đúng thế, tôi rất lấy làm tiếc, đó chính là kết cục.”
Nói đến đây, Cao Vân cười khổ: “Sau khi tôi di cư, có lúc tôi thấy chế độ phương Tây rất tốt, có lúc lại thấy nó vô lý khôn kể. Pháp luật luôn phục vụ cho tầng lớp công chức, mà cái tầng lớp này là rãnh trời mà cả đời này chúng ta không tài nào với tay được. Nếu vụ này mà xảy ra trong nước thì ít ra hãng Marsha sẽ không bình chân như vại đến nỗi không thể tìm được dù chỉ là một người chịu trách nhiệm thế này đâu.”
Tất nhiên Phục Thành không thể tiếp lời cho câu trả lời này rồi.
Hai ngày sau, Tô Phi ôm hộp đen đã sửa về Schaffhausen.
“Lúc máy bay đâm phải núi thì hộp đen đã chịu hỏng hóc một chút nhưng không nghiêm trọng lắm nên về cơ bản là đã sửa xong. Khi ở trụ sở chính của ATR ở Pháp, tôi đã tách dữ liệu chuyến bay và ghi âm buồng lái ra rồi, cũng chia thành năm soundtrack. Chúng ta xem dữ liệu chuyến bay trước hay nghe ghi âm buồng lái trước?”
Tô Phi không biết Trác Hoàn đã phủ định nguyên nhân phi công mắc lỗi gây tai nạn. Nó có thể là nguyên nhân đấy, nhưng nó tuyệt đối không phải là nguyên nhân chính.
Trác Hoàn đứng bên màn hình: “Xem dữ liệu chuyến bay.”
Tô Phi: “Ok!”
Ngón tay cậu chàng Punk gõ lạch cạch trên bàn phím, rất nhanh sau, đồ thị dữ liệu chuyến bay đã được chiếu lên màn hình.
Đồ thị dữ liệu chuyến bay thuộc hộp đen máy bay bao gồm thế bay chúc ngóc(1), thế bay liệng(2), thế bay hướng(3) và nhiều thông số kĩ thuật khác. ATR-72 là một loại máy bay cũ sản xuất vào những năm 80 của thế kỉ trước nên hộp đen của nó chỉ ghi lại rất ít tham số, chỉ có 11 bản ghi.
Nếu là trong phim thì chắc hẳn nhân viên điều tra sẽ bắt đầu kiểm tra cẩn thận từ giây đầu tiên trong bản ghi của hộp đen để xem có xảy ra điều gì bất thường hay không, còn đây là ngoài đời.
Gần như vào giây phút khi đồ thị dữ liệu chuyến bay được chiếu trên màn hình thì bốn, năm giọng nói đồng thời cất lên.
“Thế bay liệng?!”
Phục Thành đứng dậy bước tới trước màn hình rồi nhìn kĩ số liệu thế bay liệng. Lát sau, anh xoay người nhìn Trác Hoàn: “Tôi chưa bao giờ trông thấy số liệu bay liệng nào như thế này cả. Trên thực tế, kể cả lúc máy bay chiến đấu dùng cho quân đội tiến hành diễn tập cũng rất hiếm khi làm động tác liệng nguy hiểm cao đến mức đó. Với máy bay dân dụng thì tuyệt nhiên sẽ không có chuyện con người làm ra được chuyển động xoáy thế này.”
Cao Vân tức thì phát hiện ra vấn đề: “Hôm qua tôi và các nhân viên điều tra đã kiểm tra hết các động cơ rồi, chúng tôi chắc chắn rằng động cơ bên phải không hề có gì khác. Bây giờ dữ liệu hộp đen đã thể hiện quá rõ, đây không phải vấn đề của động cơ, cho đến tận khi máy bay rơi thì động cơ vẫn bình thường. Vậy thế bay liệng kì quặc này là sao?”
Trác Hoàn vuốt hàm dưới, giọng hắn thấp xuống: “Hệ thống thủy lực có vấn đề?”
ATR-72 sử dụng hệ thống thủy lực truyền thống.
Phi công kiểm soát máy bay qua hệ thống thủy lực. Hệ thống thủy lực cũng tương đương như mạch máu của máy bay, nó vận chuyển máu (tức lệnh của phi công) đến từng tế bào của máy bay. Nếu hệ thống thủy lực có vấn đề thì phi công sẽ không thể khống chế máy bay được nữa, và rơi máy bay là kết cục không thể tránh khỏi.
Phục Thành sực nghĩ ra, “Có khi là do hệ thống gió mạnh gần mặt đất(4) đặc biệt không? Căn cứ theo khí tượng vào ngày Marsha 123 rơi, cách sân bay Zurich 20 km về phía Đông có mây dông. Tuy rằng tuyến đường bay của Marsha 123 không đi qua cụm mây dông kia nhưng có lẽ có nguyên do đặc biệt nào đó đã ảnh hưởng đến chuyến bay?”
Cao Vân ngẫm theo lời Phục Thành: “Ý anh là một khi hệ thống gió mạnh gần mặt đất ảnh hưởng đến thế bay liệng của máy bay thì sẽ xảy ra lật nghiêng? Vậy thì thứ nhất, do máy bay vừa mới cất cánh, vẫn chưa đủ độ cao nên phi công không kịp điều chỉnh; thứ hai, hai phi công này còn rất trẻ, kinh nghiệm không đủ, kĩ thuật lái bình thường; chưa kể làm việc tất bật trong thời gian dài khiến họ mệt nên không thể ứng đối tốt, luống cuống tay chân nên mới làm máy bay đâm phải núi?”
Phục Thành quay đầu nhìn Trác Hoàn: “Thầy Trác, ngài thấy sao?”
Trác Hoàn đứng trước màn hình lớn, đôi mắt hắn nhìn chòng chọc vào đồ thị dữ liệu thế bay liệng của máy bay.
Mãi sau hắn mới đáp: “Xác suất là rất cao. Phục Thành, cậu đi tìm đọc tài liệu khí tượng thời tiết ngày hôm đó, nhất định phải xác định xem mây dông ngày hôm đó có sinh ra hiện tượng hệ thống gió mạnh gần mặt đất và có thể ảnh hưởng đến máy bay bay ngoài 20 km không.”
Phục Thành gật đầu: “Được.”
“Còn những người khác…”
Cao Vân nhất thời căng thẳng.
Trác Hoàn: “Cứ ráp lại máy bay cái đã.”
Mọi người: “…”
Như không cảm nhận được những luồng nhìn đầy oán thán gần như ngưng tụ thành thực thể đằng sau lưng, đại gia Trác vẫn rất chi là bình tĩnh, hắn nói với Tô Phi: “Nghe ghi âm buồng lái đi.”
Văn phòng vốn hơi láo nháo đã im phăng phắc lại vì câu nói này.
Ai nấy đều ngừng thở đợi để nghe xem trước khi máy bay rơi, hai phi công đã nói gì và cái máy bay này đã cảnh báo gì.
Mười mấy phút sau, Trác Hoàn nhắm mắt, cất giọng bình tĩnh tuyên bố: “Ghi âm buồng lái không có tính tham khảo nào, tạm thời không cần cho là tài liệu điều tra.”
Chẳng ai nghi ngờ lời hắn, bởi vì đúng là trong suốt mười ba phút, hai phi công hầu như không thốt ra bất cứ câu nói có nghĩa nào. Ngoài tiếng hét gần như tuyệt vọng vào giây phút cuối cùng, điên cuồng muốn chỉnh thế bay về trạng thái bình thường và tiếng gào bất lực ra thì còn còn mỗi tiếng “No”.
Không, không, không.
Câu nói cuối cùng của những kẻ gặp nạn trong các vụ tai nạn máy bay giống nhau đến lạ.
Không nhớ lại những chuyện đã qua trong đời, cũng chẳng phân tích nguyên do sự cố bằng lí trí. Lúc mây mù bị xé tan, lúc họ trông thấy vách núi gần trong gang tấc, thứ họ có thể nghĩ tới, thứ họ có thể thốt ra chỉ vỏn vẹn một tiếng “Không” này mà thôi.
Đó là sự thật.
Một sự thật thảm khốc.
***
Ngày 18 tháng 10 năm 2020, di thể của Gerard Truffaut được vận chuyển bằng máy bay về Toulouse nước Pháp để tiến hành an táng.
Đã mười sáu ngày trôi qua kể từ vụ tai nạn.
Trí nhớ trên Internet chỉ là nhất thời. Khi sự cố vừa xảy ra, khi cư dân mạng biết cơ phó trong chiếc máy bay gặp nạn là người thừa kế của tập đoàn Truffaut thì biết bao nhiêu mạng xã hội đã rúng động. Hôm đó, hashtag hot nhất Twitter là “Truffaut”. Song, bẵng đi một thời gian, mọi người dần dà không nhớ đến vụ tai nạn hàng không này nữa.
Cho tới ngày hôm nay – vào mười sáu ngày sau, vào lễ tang của Gerard Truffaut, họ mới sực nhớ ra.
Trên mạng có vô số người đăng “R.I.P” tỏ nỗi tiếc thương đối với người đã khuất xấu số.
Ở kênh đào Canal du Midi thuộc Toulouse, hàng người mặc lễ phục màu đen đứng lặng trong nghĩa trang chứng kiến quan tài đen bị bốn thanh niên nâng đến giữa đất mộ và nhẹ nhàng đặt xuống. Họ đã từng là bạn của Gerard – Khi cậu ta chưa bị đuổi khỏi gia tộc Truffaut, họ thường hay tụ tập chơi bóng với nhau.
Không phải phu nhân Truffaut chưa từng nghĩ tới chuyện tìm bạn bè hiện giờ của con trai để nâng quan tài cho cậu ta, nhưng đến khi bà đi tìm mới phát hiện ra đứa con trai bà yêu chiều suốt hơn hai mươi năm trời lại vì bận tối tăm mặt mũi mà không có thì giờ kết bạn mới. Người bạn duy nhất của cậu ta là Leon Lorraine, mà bây giờ cả hai đã xuống mồ cùng nhau rồi.
Mục sư khẽ đọc điếu văn tế linh hồn chết trẻ và cô đơn này.
Dưới ánh mặt trời sáng chói, mọi người đều nhắm mắt lắng nghe sự thương tiếc ẩn chứa trong giọng đọc kia.
Lúc tất cả đã kết thúc, bốn người bạn cầm xẻng sắt lấp từng mảnh đất lên quan tài. Khi bùn đất che khuất khoảng màu cuối cùng của quan tài, phu nhân Truffaut không kiềm lòng được nữa mà bật khóc nức nở đầy tuyệt vọng ngay tại chỗ. Bà tựa vào lòng chồng mình, lạc giọng hẳn đi.
Lina mặc cái váy liền đen đứng giữa đám người và dõi theo từ một nơi không xa cũng chẳng gần.
“Mong rằng cậu sẽ an nghỉ trên thiên đường.”
“A-men.”
Mọi người nhắm mắt cầu nguyện người đã mất yên nghỉ theo lời mục sư: “A-men.”
Lễ tang được giao cho quản gia phụ trách. Quản gia gia tộc Truffaut mắt đỏ au tiễn những vị khách này đi thay phu nhân Truffaut đang quá đỗi xé lòng và ngài Truffaut đang an ủi vợ.
Lina bước tới trước mặt hai vợ chồng đương đau buồn này, ngài Truffaut vẫn trưng biểu cảm như thường ngày. Trong mắt ông đong đầy nước mắt, song ông không để một giọt nào tuôn rơi. Ông ngẩng đầu nhìn cô gái trẻ tóc vàng trước mặt mình, đoạn cất giọng trầm lắng: “Stephanie.”
“Chú Truffaut.” Lina đáp.
Gia tộc Truffaut và gia tộc Comte đã thân nhau suốt mấy đời, hoặc có thể nói rằng cho tới năm năm trước, mối quan hệ giữa họ vẫn rất tốt. Mãi đến khi người thừa kế gia tộc Truffaut – Gerard – đột nhiên nói muốn làm phi công, không muốn vào tập đoàn của gia tộc thì quan hệ của hai nhà đã rạn nứt.
Ngài Truffaut lạnh lùng nói: “Ta còn nhớ năm năm trước Gerard có nhắc đến cháu với ta. Là cháu đã làm nó thích máy bay. Ta chưa bao giờ nghĩ rằng do hồi hai đứa còn bé có chơi máy bay mô hình với nhau nên nó mới bước trên con đường làm phi công này. Và sự thật đã chứng tỏ rằng nó không hề có tư chất để làm phi công.”
Lina không nhịn được mà cắt lời ông, cô thốt lên bằng vẻ không dám tin: “Gerard đã mất rồi, chú đừng tàn nhẫn như thế được không!”
“Ồ? Ta nói sai gì à. Câu này là câu thằng nhóc Patrick kia đã nói, chẳng lẽ không đúng hay sao? Ta nghe chính miệng nó bảo Gerard không phải một phi công xuất sắc, lúc máy bay rơi nó đã không đưa ra lựa chọn hợp lí nhất và chính xác nhất, tất cả những gì nó làm chỉ là hốt hoảng mà thôi.”
Lina: “Trong tình huống đó, cậu ấy là một phi công hãy còn trẻ thì có thể làm được những gì hả chú? Lẽ nào chú có thể bình tĩnh nhìn thẳng vào cái chết, sau đó thành công điều khiển được cái máy bay đột ngột mất khống chế?”
“Stephanie, cháu…”
“Cháu không đến để đôi co với chú.” Lina bất lịch sự cắt ngang lời ngài Truffaut làm sắc mặt ông sầm xuống, song cô chẳng hề bận tâm: “Cháu đến đây là vì muốn tặng ghi âm buồng lái cho chú dì.” Dứt lời, cô lấy một chiếc USB từ trong túi ra, “Nếu chú dì không muốn cũng chẳng sao, đây là những lời nói trước khi lâm chung của Gerard. Chú yên tâm đi, cậu ấy chả nhắc đến hai người lấy một lần, cậu ấy không thừa hơi để đoái hoài đến chuyện khác ngoài lái máy bay. Đằng nào thì cũng đúng như lời chú thôi, cậu ấy là một phi công không có tư chất, rác rưởi và kém cỏi. Thậm chí chỉ lái máy bay thôi mà cậu ấy cũng chẳng lo xong thì sao có thì giờ làm những chuyện khác, nghĩ những chuyện khác được.”
Ngài Truffaut mặt tái mét, ông lạnh lùng “Hừ” một tiếng, không hề đưa tay ra nhận USB.
Phu nhân Truffaut thì lại nhận lấy nó: “Cảm ơn cháu nhé Lina.”
Nghe phu nhân Truffaut gọi nickname của mình, nét mặt cố chấp và phẫn nộ của cô dần dịu đi. Cô gật đầu khẽ với vợ chồng Truffaut rồi xoay người đi mất. Đi được nửa chừng, cô bỗng quay người lại hỏi ngài Truffaut: “Chú có thấy con cừu trong chiếc hộp(5) không?”
Ngài Truffaut tức thì sửng sốt, ông ngẩng đầu nhìn Lina với vẻ khó hiểu.
Lina nhìn biểu cảm ông là biết đáp án. Cô cắn chặt răng, cuối cùng cũng kìm lòng không đậu mà nói: “Có một chuyện chú đã nói sai mất rồi. Gerard thích máy bay chưa bao giờ là bởi vì cháu. Đúng, cháu đã tặng rất nhiều máy bay mô hình cho cậu ấy, hồi bé cháu còn dẫn cậu ấy đến thăm nhà máy của Mạch Phi và trông thấy rất nhiều máy bay nữa cơ. Nhưng đó là bởi cậu ấy thích máy bay nên cháu mới dẫn cậu ấy đi. Cháu vẫn luôn đối xử với cậu ấy như em trai ruột của mình vậy, cậu ấy cất giấu một chú cừu trong hộp, còn cháu thì thật sự đau lòng cho cậu ấy. Đã nhiều năm nay, con cừu đó vẫn chưa được người ta ngó ngàng tới.”
Lina lại nhìn sang phu nhân Truffaut đang thảng thốt: “Dì đã thấy chưa? Dì cũng chưa thấy.”
Nói xong, cô bỏ lại hai vợ chồng Truffaut, nhắm mắt rảo bước đi.
Quay về xe, cô lấy khăn tay lau nước mắt.
“Lại khóc vì cậu nữa rồi. Mascara hôm nay không chống nước đâu đó, nếu cậu mà thấy đôi mắt đẫm nước này của tớ thì chắc sẽ lại bảo tớ là đồ thích khóc thôi.”
“Gerard…” Giọng cô ngưng bặt.
Lina bụm miệng ngồi khóc thành tiếng ở ghế sau.
Về Schaffhausen, lúc xuống xe, Lina đã lau khô nước mắt. Trước khi bước vào trụ sở điều tra, cô rút điện thoại tìm “Gerard” trong danh bạ. Lặng người nhìn cái tên này, cô dần nhoẻn miệng cười, gửi một tin nhắn đi.
“Ánh nắng nay rực rỡ như mái tóc em.”
“Chẳng có làn mây mù.”
“Là một ngày nắng trong tuyệt đẹp.”
“Ngủ ngon nhé, hoàng tử nhỏ.”
***
“Đêm tới, khi anh nhìn lên bầu trời, em sẽ là một trong bao vì sao kia. Nếu em đứng nhoẻn cười giữa chúng, thì rồi đối với anh, anh sẽ tưởng chừng như tất cả vì sao đều đang cười, thế là những vì sao anh trông thấy sẽ là những vì sao biết cười.”
—— “Hoàng tử nhỏ”
*Chú thích:
(5) Con cừu trong chiếc hộp là một chi tiết đắt giá trong truyện “Hoàng tử bé” – cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của nhà văn và phi công người Pháp Antoine de Saint-Exupéry. Câu chuyện kể về một phi công phải hạ cánh khẩn cấp trong sa mạc. Anh gặp một cậu bé, người hóa ra là một hoàng tử từ hành tinh khác đến. Hoàng tử kể về những cuộc phiêu lưu của em trên Trái Đất và về bông hồng quí giá trên hành tinh của em. Em thất vọng khi phát hiện ra hoa hồng là loài bình thường như bao loài khác trên Trái Đất. Một con cáo sa mạc khuyên em nên yêu thương chính bông hồng của em và hãy tìm kiếm trong đó ý nghĩa của cuộc đời mình. Nhận ra điều ấy, hoàng tử quay trở về hành tinh của em.
Trong truyện, hoàng tử bé đã gặp anh phi công và đề nghị anh ta vẽ một con cừu. Vì không biết vẽ con cừu như thế nào, anh ta đã vẽ theo những gì anh biết. Anh phi công đã cố gắng vẽ một vài bức tranh khác nhưng hoàng tử bé đều không vừa lòng. Cuối cùng, anh ta vẽ một cái hộp duy nhất, và giải thích rằng, có con cừu ở trong đó. Hoàng tử bé đã rất vui và chấp nhận bức tranh này. Ngụ ý của con cừu là sự quan sát ngây ngô nhìn sự vật của trẻ nhỏ rất phong phú và giàu trí tưởng tượng. “Và con cừu trong chiếc hộp mới chính là cái mà người lớn của chúng ta khó có thể đồng cảm được với trẻ nhỏ. Có những việc dù người lớn không hiểu và cho đó là trò vô bổ của trẻ nhỏ, nhưng đối với chúng, đấy là tất cả những cảm nhận, quan sát bằng cả trái tim và tâm hồn thơ ngây của mình.”
(1)(2)(3):
Thế bay liệng: Roll; thế bay hướng: Yaw; thế bay chúc ngóc: Pitch.
Một máy bay có thể thực hiện 3 kiểu chuyển động. Nó có thể chúc ngóc, hướng và liệng.
Chúc ngóc là kiểu chuyển động khi mũi của máy bay chúc lên trên hoặc chúi xuống dưới. Chuyển động chúc ngóc diễn ra xung quanh trục ngang của máy bay.
Liệng là kiểu chuyển động khi một trong hai cánh của máy bay liệng xuống còn cánh còn lại thì liệng lên. Ví dụ, nếu máy bay đang liệng sang bên trái thì cánh trái sẽ liệng xuống còn cánh phải thì liệng lên. Chuyển động liệng diễn ra xung quanh trục dọc thân máy bay.
Hướng là kiểu chuyển động khi mũi của máy bay di chuyển qua phải hoặc qua trái. Chuyển động hướng diễn ra xung quanh trục thẳng đứng, vuông góc với thân máy bay.
– Đọc nhiều truyện hơn tại website ngontinhplus.com –
– Đọc nhiều truyện hơn tại website ngontinhplus.com –
*Ailerons (cánh liệng) – Rudder (cánh lái hướng) – Elevators (cánh lái độ cao)
(4) Hệ thống gió mạnh gần mặt đất hay còn gọi là downburst, là một hiện tượng thời tiết cực đoan gây ra “bom mưa” gây ra gió mạnh từ một điểm trên mặt đất bắn lên trời và thổi lan ra thành hình tròn theo mọi hướng từ điểm tiếp xúc. Nó được gây ra bởi các cơn dông, frông, các cơn bão, các khu vực có gió thấp cấp địa phương,…
– Đọc nhiều truyện hơn tại website ngontinhplus.com –
– Đọc nhiều truyện hơn tại website ngontinhplus.com –