Bạn đang đọc Tuyệt Đỉnh – Chương 8: Lần đầu gặp kẻ địch trời sinh
Tiểu Huyền lấy làm lạ: “Hiện tại mới đầu giờ Thân, chưa đến lúc ăn cơm, vì sao lại đột nhiên không đi nữa?”
Truy Bộ Vương lạnh nhạt: “Đi thêm năm dặm về phía bắc là đến kinh sư.”
Tiểu Huyền cả kinh, kinh thành vốn tưởng xa tận chân trời lại gần trước mắt. Truy Bộ Vương sau lần bị “ám toán” trong rừng, tuy không trừng phạt nó nhưng lúc nào cũng đề phòng, nó không có cơ hội bỏ thuốc, lẽ nào cứ thế này bị y “áp giải” đến kinh sư? Dẫu bình yên gặp được Lâm Thanh cũng mất hết mặt mũi, nó liền lên tiếng: “Đại thúc đồng ý với cháu đến kinh thành sẽ đi tìm Lâm thúc thúc ngay, không biết có giữ lời không.”
Lương Thần gật đầu: “Ta đã đồng ý chuyện gì tất sẽ làm.”
Nghĩ đến viễn cảnh sắp gặp Lâm Thanh, lòng nó ngứa ngáy khó chịu: “Chúng ta mau đi thôi.”
Lương Thần thấp giọng: “Tiểu tử có biết hiện tại Hứa Kinh Huyền đã trở thành nhân vật phong vân ở kinh sư, ai cũng muốn bắt được, Tiểu tử cứ thế này vào kinh, chỉ sợ chưa kịp gặp được Ám Khí Vương đã bị người ta xé thành mấy mảnh.” Nếu là trước kia, nhất định y đã gọi là “tiểu quỷ” nhưng qua lần bị giáo huấn “lấy vật trong hốc cây” liền tôn kính hẳn, thậm chí trong sâu thẳm nội tâm cảm giác sợ hãi, mới gọi nó bằng tên chính “Hứa Kinh Huyền”.
Tiểu Huyền vừa mừng vừa sợ, cho là y đang cười nhạo mình: “Lương đại thúc đừng cười cháu.”
Truy Bộ Vương mỉm cười không đáp, y nói thật lòng nhưng hiện tại chưa đến lúc an bài, phải nghĩ cách thông tri cho Thái Thân Vương rồi thần không hay quỷ không biết đưa nó đến vùng giáp với kinh sư, tránh để các thế lực hoài nghi, cũng không trái lời thề. Nhưng nó tinh ranh cổ quái, y không dám rời khỏi nửa bước, thật chỉ ước ao có thuật phân thân, sau cùng quyết định đến tiểu trấn nhỏ này, tốt nhất là gặp được thủ hạ của Thái Thân Vương để báo tin.
Tiểu Huyền không đoán được tâm tư y, nhìn ấm trà xanh trên bàn trân trân, có lẽ đây là cơ hội bỏ thuốc sau cùng, nhưng ngay trước mắt Lương Thần vốn để tâm từng ly từng tý, làm sao thực hiện được?
Chợt nghe tiếng huyên náo bên ngoài tửu điếm, một vị hòa thượng béo ú cầm một cái bát lớn như chiếc đấu xuất hiện ở cửa, sau lưng có hơn mười gã ăn mày áo quần lam lũ, chẹn kín lối ra vào.
Điếm tiểu nhị vội ra đón: “Vị đại sư này có gì chỉ giáo?”
Hòa thượng chắp tay: “Bần tăng thỉnh an thí chủ.” Gã chừng hơn ba mươi tuổi, thân thể cao lớn, người bình thường chỉ đến ngực gã, lúc này gần như che kín cửa điếm, nhưng vẻ mặt khiêm cung, giọng nói bình hòa lễ độ, nếu chỉ nghe tiếng, không ai ngờ lại do một người to cao dường này phát ra.
Điếm tiểu nhị vội đáp lễ: “Đại sư muốn hóa duyên hay truyền pháp?”
Hòa thượng ung dung đáp: “Bần tăng hóa duyên rượu thịt.”
Điếm tiểu nhị sửng sốt, xưa nay chưa từng nghe thấy người xuất gia kiêng vị tanh lại đi “hóa duyên rượu thịt”, nhất thời vô cùng lúng túng. Điếm chủ có kiến thức hơn, nhận ra hòa thượng lai lịch không tầm thường, vội đưa tay mời: “Ha ha, bản điếm có đủ rượu thịt, mời đại sư vào trong an tọa.”
Hòa thượng lắc đầu: “Người xuất gia không tiện công nhiên phá giới.” Gã nói nhẹ tênh, cơ hồ chỉ cần không “công nhiên”, người xuất gia phá giới là việc thiên kinh địa nghĩa.
Điếm chủ hơi nhíu mày, sai điếm tiểu nhị: “Đi thái hai cân thịt trâu, mang một bình rượu ra đây.” Đoạn hỏi hòa thượng: “Xin đại sư đợi một chút, không biết xưng hô ra sao?”
“Danh hiệu chỉ là hư không, thí chủ cần biết làm gì?” Hòa thượng không báo pháp hiệu mà lắc đầu: “Thí chủ nhỏ nhen quá.”
Điếm tiểu nhị không nhịn được nữa, lên tiếng mắng: “Hòa thượng tham lam này, ăn thịt uống rượu đã đành, chưởng quỹ nhà ta có lòng tốt bố thí còn hiềm ít nữa sao?”
“A Tam, không được vô lễ với đại sư.” Điếm chủ mắng điếm tiểu nhị, rồi cười vuốt hòa thượng mập: “Không biết đại sư cần bao nhiêu rượu thịt mới đủ?” Lão sống lõi đời, biết ngay hòa thượng này không tốt lành gì, không nên dây vào.
Hòa thượng đáp: “Bên ngoài còn mười mấy vị tuệ căn sâu dày, mong thí chỉ bố thí.” Mấy người “tuệ căn sâu dày” này không ai khác ngoài hơn mười tên ăn mày dáng vẻ bẩn thỉu.
Điếm chủ bấm bụng sai người mang ba chục cân thịt trâu cùng một vò rượu ngon ra, điếm tiểu nhị xót của, liên tục làu bàu.
Hòa thượng chợt nói với gã: “Thí chủ phải cẩn thận.”
Điếm tiểu nhị đốp chát: “Ta cẩn thận cái gì?”
Hòa thượng thấp giọng: “Cẩn thận kẻo lại đổ máu.”
Điếm tiểu nhị sững người, nhướng mày lên, có vẻ sắp nổi giận, điếm chủ vội quát ngăn lại, vòng tay hỏi hòa thượng: “Đại sư bất tất tranh hơi với hắn.”
Hòa thượng nhìn điếm tiểu nhị chằm chằm: “Thí chủ nếu chịu bỏ tiền sẽ tiêu trừ được tai họa.”
Điếm chủ đánh mắt với điếm tiểu nhị đang định lớn tiếng mắng chửi: “Xin đại sư chỉ điểm cách nào mới trừ được tai họa?”
Hòa thượng chầm chậm xòe tay ra: “Hai lạng bạc.” Tay phải gã chỉ còn hai ngón, ngón trỏ vào ngón vô danh không còn, hơn nữa đầu ngón tay vừa ngắn vừa thô, tựa hồ bị cắt cụt. Điếm tiểu nhị vốn định nói thêm mấy câu nhưng vừa thấy bàn tay đáng sợ liền biến sắc, không dám mở mồm.
Điếm chủ lập tức móc hai lạng bạc ra: “Xin đại sư thu nạp.”
Hòa thượng mập vẫn không chịu bỏ qua: “Nên là vị thí chủ kia mất tiền chứ không phải thí chủ.”
Điếm chủ thở dài: “Đại sư yên tâm, hai lạng bạc này sẽ được trừ dần vào tiền công của hắn.” Lão lại kéo điếm tiểu nhị: “Còn không mau đa tạ đại sư.”
Điếm tiểu nhị không biết làm sao đành cúi người: “Đa tạ đại sư chỉ điểm.”
Hòa thượng khẽ gật đầu: “Đây là bổn phận của người xuất gia, thí chủ bất tất khách khí.”
Từ đầu đến giờ, gã vẫn giữ ngữ khí thủng thẳng, thái độ khiêm cung thủy chung như một nhưng chúng nhân đều cảm giác được nét kiêu cuồng xuất phát từ xương tủy, như thể vạn vật trong thiên hạ đều không đáng quan tâm. Khách khứa trong quán nhìn nhau, tiếng bàn tán cũng nhỏ đi đôi phần.
Thịt trâu và mỹ tửu được đưa tới, hòa thượng không vội vàng đưa cho đám ăn mày mà đặt hết vào bát. Quả thật kỳ quái, cái bát tuy không nhỏ nhưng tối đa chỉ đựng được hơn mười cân thịt trâu, không hiểu hòa thượng dùng cách gì, vỗ vỗ ấn ấn liền nhét gọn ba chục cân vào trong. Gã lại thò cánh tay phải chỉ còn ba ngón khẽ móc, cả vò rượu to lớn bị ngón tay nhấc lên, đoạn đi tới một bức tường đổ nát bên ngoài tửu điếm, khoanh chân ngồi xuống, đặt vò rượu cạnh mình rồi gọi đám ăn mày: “Bắt đầu.”
Đám ăn mày tranh nhau xông tới cướp vò rượu, hình như đã có thỏa thuận trước với hòa thượng, chỉ cần cướp được một ngụm rượu liền có ngay một miếng thịt. Hòa thượng thong thả xem đám ăn mày cướp rượu, dáng vẻ trang nghiêm như thể đang giảng kinh thuyết pháp.
Tiểu Huyền bất giác thấp giọng: “Hòa thượng này thú vị thật, đi hóa duyên lại khoa trương như vậy.”
Truy Bộ Vương tỏ vẻ ngưng trọng: “Hòa thượng của Vô Niệm tông đều thế.” Y hơi trầm mày xuống, lẩm bẩm: “Lần này Ám Khí Vương vào kinh, võ lâm thiên hạ đều hành động, ngay cả Vô Niệm tông ở núi Kỳ Liên cũng đến xem náo nhiệt.”
Tiểu Huyền tỏ vẻ hiểu biết: “Ồ, đúng rồi, Lâm thúc thúc và Minh tướng quân đều là cao thủ tuyệt đỉnh trong võ lâm, có ai không muốn tận mắt xem họ quyết chiến để tăng kiến thức.” Nó nghĩ đến việc bản thân được tham dự, hưng phấn đến độ khoa chân múa tay.
Truy Bộ Vương thở dài, tình thế kinh sư phức tạp, phái hệ như rừng, trận chiến giữa Minh tướng quân và Ám Khí Vương không chỉ ảnh hưởng đến danh vọng của họ mà thế lực các phương đều muốn nhân cơ hội khuếch trương thực lực, độc chiếm đại quyền, chỉ khẽ châm ngòi là bùng nổ. Có những khách giang hồ xác thật tới kinh sư chỉ muốn xem phong thái của hai cao thủ tuyệt đỉnh nhưng phần đa vì hai chữ “danh lợi”, tìm nơi đầu quân, tuyệt không đơn giản như Tiểu Huyền tưởng tượng. Đạo lý này y không thể nói với nó.
Tiểu Huyền lại hỏi: “Cháu chưa từng nghe đến Vô Niệm tông, nhìn dáng vẻ cung kính của điếm chưởng quỹ, hình như môn phái này không dễ chơi?”
Truy Bộ Vương thuận miệng đáp: “Lúc hành tẩu giang hồ, tối kỵ đắc tội với người xuất gia, tăng ni đạo. Vị điếm chủ này kiến thức rất khá, hòa thượng cũng không đòi hỏi nhiều, hà tất sinh sự?”
Tiểu Huyền cười hì hì: “Cháu thấy hòa thượng mập uống rượu lại ăn thịt mà vẫn ra vẻ ta đây từ bi, gã thò ba ngón tay ra cháu tưởng là cần ba trăm lạng, ai ngờ lại lấy có ba lạng. Chắc gã sợ lương tâm cắn rứt nên mới không há cái mồm sư tử nuốt nhiều…”
“Vô Niệm tông không tin thần phật, không giữ giới luật nên mới có tên Vô Niệm, mỗi lần hóa duyên đều nhìn người mà hành sự. Gặp vương công quý tộc giá là ngàn vạn lạng, gặp trăm họ tầm thường thì chỉ vài đồng là xong”, Truy Bộ Vương giải thích, “Vô Niệm Cửu Tăng đều tài nghệ kinh người nhưng hay làm những việc quỷ bí, mượn cớ hóa duyên moi tiền bách tính, lần nào cũng đến độ là dừng, nếu không đồng ý, chúng sẽ dai dẳng theo đến cùng. Còn nhớ năm xưa thiếu trang chủ Bích Hàn sơn trang cưới vợ, có một hòa thượng điên khùng mượn cớ tu bổ Phật tượng kim thân, nói là tượng Phật còn thiếu mắt phải, chỉ viên dạ minh châu trên đầu tân nương tử mới có Phật duyên. Nhưng viên ngọc đó là vật định tình của thiếu trang chủ tặng tân nương, với danh tiếng uy chấn Thiểm Cam của Bích Hàn sơn trang, lẽ nào chịu cho gã? Hòa thượng điên đó không gây sự quá đáng, chỉ tọa thiền ở hỷ đường, mặc cho hơn mười đệ tử võ công cao cường của Bích Hàn sơn trang hợp lực cũng không lay động được. Gã ngồi lỳ ở đó nửa ngày, sơn trang thấy giờ lành sắp qua, lại không thể một đao giết quách gã cho xong, đành phải tặng viên dạ minh châu mới êm chuyện. Hòa thượng đó là người thứ ba, pháp hiệu Đàm Kiếm trong Cửu Tăng của Vô Niệm tông. Phái này xưa này hành sự khó chịu, đây là ví dụ.”
Tiểu Huyền vừa buồn cười vừa kích thích, thiện hạ rộng lớn, không việc gì không thể xảy ra, gặp phải loại hòa thượng không tính gì đến đạo lý, cũng đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Lại hỏi tiếp: “Sao gã lại bỏ trọn vẹn ba chục cân thịt trâu vào… bát tô được nhỉ?” Nó không biết vật tăng nhân dùng đựng đồ hóa duyên là gì nên gọi là “bát tô.”
Truy Bộ Vương cười hắc hắc: “Tu Di Giới Nạp Công của Vô Niệm tông mà áp dụng cho thịt trâu, cũng coi là ly kỳ.”
Tiểu Huyền không hiểu “tu di giới nạp” là gì, đảo mắt hỏi: “Xem ra hòa thượng quả nhiên rất lợi hại, Lương đại thúc đấu nổi không?”
Truy Bộ Vương ngạo nghễ: “Chắc không dễ thua gã đâu.”
Tiểu Huyền thấy ngữ khí của y không nắm chắc phần thắng, nhất thời nảy ra kế: hòa thượng này không phải người tốt. nếu cùng Truy Bộ Vương giao chiến, nó sẽ có cơ hội đục nước béo cò, liền lẩm bẩm: “Thúc thúc không phải xưng là bộ vương sao? Sao lại để gã diễu võ dương oai, bắt nạt trăm họ?”
Lương Thần thoáng nhận ra tâm tư của nó, trầm mặt xuống khẽ quát: “Chúng ta có việc quan trọng, sao lại không biết cân nhắc năng nhẹ? Tiểu tử muốn sinh sự, ta ắt không tha.”
Tiểu Huyền thè lưỡi, bốc mấy viên lạc cho vào miệng.
Đám ăn mày ngoài cửa chia rượu thịt xong liền hò hét giải tán, hòa thượng mập nhắm mắt ngáy o o. Gã nói năng nhẹ nhàng, tiếng ngáy không hợp với thân thể khôi ngô, cả tửu điếm đều nghe rõ, ai nấy ngầm nhíu mày nhưng không dám tiến lên lý luận.
Truy Bộ Vương thấy Tiểu Huyền nghịch mấy viên lạc, tựa hồ không định sinh sự mới thầm thở phào, tính toán cách báo tin cho Thái Thân Vương. Nếu đưa chiêu bài Truy Bộ Vương ra, tự nhiên có người đi báo, nhưng không thể dễ dàng tiết lộ thân phận, bằng không thế lực các phương biết Tiểu Huyền rơi vào tay Thái Thân Vương, ắt khó tránh phiền hà.
Tiểu Huyền chợt kêu lên vui vẻ: “Ai da, con chim đẹp quá, ta ném…” Nó vung tay ném ra một nắm lạc, lần này không chỉ dùng thủ pháp Lâm Thanh dạy mà dùng luôn cỗ chân khí y lưu lại trong thân thể.
Truy Bộ Vương lấy làm lạ: “Làm gì có con chim nào?” Nắm lạc xuyên qua đại đường tửu điếm, nhắm ngay vào đầu hòa thượng đang ngáy pho pho.
Cỗ chân khí của Tiểu Huyền tuy đã giảm nhiều, không còn khả năng tổn thương người khác nhưng để ném một nắm lạc lại không thành vấn đề. Với khinh công “Tương Kiến Bất Hoan” của Lương Thần, nếu kịp thời lướt đi vẫn có thể đuổi kịp, bắt lấy nắm lạc trước khi rơi vào đầu hòa thượng nhưng y vạn lần không ngờ Tiểu Huyền không biết võ công lại có bản lĩnh đó, thầm nhủ phải chăng bình thường nó giả đò hòng mê hoặc mình? Nhất thời quá đỗi ngạc nhiên, không kịp xuất thủ.
Nếu Lâm Thanh chứng kiến tình cảnh sẽ càng kinh ngạc, theo lý thuyết, chân lực độ thể tối đa chỉ giữ được năm ba ngày là tan, nào ngờ kinh mạch Tiểu Huyền bị tổn hại, lại kích phát tiềm lực của Giá Y Thần Công, sau khi bị Cảnh Thành Tượng xuất chỉ phá mất Đan Điền, đâm ra khiến khả năng dung nạp chân lực ngoại lai của kinh mạch tăng hẳn, nên mới có thần thông giữ đạo chân khí trong thân thể những mười ngày. Những cơ duyên xảo hợp, biến hóa vi diệu trong đó, ngay cả người trong cuộc như nó cũng không hiểu.
Mấy hạt lạc sắp rơi xuống cái đầu trọc, hòa thượng đang ngủ say chợt mở bừng mắt, mũi vẫn vang lên tiếng ngáy, một dải khí trắng thoạt có thoạt không phun ra. Tiếng “bộp bộp” khẽ khàng vang lên, mấy hạt lạc nát vụn. Hòa thượng mập nhảy lên, mục quang sáng rực bắn sang phía Tiểu Huyền.
Truy Bộ Vương rủa thầm, không muốn gặp rắc rối nên định mở miệng giải thích, nhưng Tiểu Huyền đứng chắn trước mặt y, lớn tiếng nói: “Nam tử hán tự làm tự chịu, hòa thượng này lợi hại lắm, Lương đại thúc không cần lo cho cháu.”
Lương Thần sững người, đoán ngay ra tâm tư của nó, nhưng thực khách trong quán đều nhìn mình, nếu để một đứa trẻ hứng chịu thay thì còn dám ngẩng đầu nhìn ai. Y nhìn sang hòa thượng vẫn đang cực kỳ trầm tĩnh: “Đại sư không nên hiểu lầm, trẻ con nhất thời nghịch ngợm…”
Tiểu Huyền lại cười hì hì, thì thầm vào tai y: “Bản lĩnh đại thúc dạy hay lắm, ném là trúng liền…” Nó nói không lớn, vừa đủ lọt vào tai toàn thể thực khách, nói gì đến hòa thượng mập võ công tuyệt thế.
Truy Bộ Vương thất khiếu bốc khói, trước mắt đông người không thể đánh cho nó một trận, nếu tranh hơi với một tiểu tử hơi sữa, há chẳng tự thừa nhận mình sợ hòa thượng sao. Y chưa kịp nghĩ ra đối sách, mục quang của hòa thượng chuyển từ Tiểu Huyền sang y.
Mắt hòa thượng lóe lên tinh quang, nhận ra y không phải tay mơ nhưng vẫn chắp tay, thản nhiên nói: “A di đà Phật! Xin thí chủ bố thí.” Gã cầm bát bằng tay trái, chầm chậm giơ bàn tay phải còn mỗi ba ngón lên.
Vô Niệm tông xưa nay hành sự đều “trông mặt mà bắt hình dong”, chỉ đưa ra cái giá vừa đủ, không vượt quá khả năng của đối phương. Ban nãy chỉ lấy của điếm tiểu nhị ba lạng bạc, biết Lương Thần không dễ chơi, đang do dự đưa ra giá ba mươi hay ba trăm lạng…
Tiểu Huyền nghe hòa thượng nói câu “Xin thí chủ bố thí” liền biết diệu kế thành công, lùi về bàn ngồi xuống, chợt nháy mắt nhìn Truy Bộ Vương tựa như oan ức, lại như đắc ý: “Đại sư đừng nổi giận, chúng tôi chỉ có bạc, tốn tiền mà trừ được tai họa thì ba trăm lạng cũng không sao.”
Hòa thượng bị nó cướp lời, bàn tay phải dừng lại trên không: “Như vị tiểu thí chủ này nói đi.”
Ánh mắt Truy Bộ Vương sầm xuống: “Đại sư là Đàm Vũ hay Đàm Ca?”
Hòa thượng bị bóc trần lai lịch song vẫn giữ thần sắc lễ độ, đứng ngoài cửa điếm, quyết không bước chân vào: “Tiểu tăng Đàm Ca, xin hỏi thí chủ cao tính đại danh?” Cửu Tăng của Vô Niệm tông đều lấy pháp hiệu chữ Đàm, vị hòa thượng này là đệ tử thứ bảy Đàm Ca.
Truy Bộ Vương quyết không chịu mất ba trăm lạng bạc vào tay gã, hiện tại cưỡi lên lưng hổ khó xuống, không thể nhịn được nữa, tốt nhất tốc chiến tốc quyết đánh bại Đàm Ca, tránh Tiểu Huyền nhân cơ hội giở trò. Y là bộ khoái, không cần tuân theo quy củ võ lâm, đột nhiên tiến lên hai bước, đến cách Đàm Ca ba thước, hữu chưởng xuất ra thật nhanh ấn vào miệng bát.
Đàm Ca thấy Truy Bộ Vương khinh công linh động cực độ, biết ngay đã chạm kình địch, bèn hơi lùi nửa bước quay mạnh miệng bát đập vào hữu chưởng đối phương, ba ngón tay phải đâm chéo vào hai mắt và my tâm, chân trái được lớp tăng bào che kín cũng vô thanh vô tức đá vào hạ âm Lương Thần. Vô Niệm tông chủ trương ẩn nhẫn, xuất thủ phải đả thương địch, chiêu Túc Quyển Châu Liêm này là bí học bất truyền của môn phái.
Không ngờ, thân hình gã mới động, Tiểu Huyền đã kêu to: “Cẩn thận chân trái hắn.” Đàm Ca ngây người, không dám đá ra nữa. Truy Bộ Vương cũng nhận ra chiêu này, chỉ không nghĩ rằng Tiểu Huyền lại giúp mình, nghi ngờ trong lòng giảm hẳn: hóa ra tiểu quỷ thích gây sự nhưng vẫn một lòng giúp y đối địch. Y ấn hữu chưởng vào miệng bát, bị một cỗ đại lục hút xuống, bèn không nghĩ ngợi gì, lật tay phóng ra. Đàm Ca mất tiên cơ, không kịp biến chiêu, Lương Thần đập tay vào miệng bát mới biết được đúc bằng sắt.
“Chát”, nội lực hai người ngạnh tiếp, không hề dùng đến kỹ xảo. Đàm Ca loạng choạng lùi lại ba bước, hiển nhiên nội lực kém hơn Lương Thần một mức.
Thân pháp Lương Thần như quỷ mỵ, vọt tới cực nhanh, thúc khuỷu trái vào ngực gã, hữu chưởng vẽ lên một vòng tròn đập vào vai phải Đàm Ca. Gã gầm lên, ném bát đón đỡ khuỷu tay của Lương Thần, hữu chỉ giương lên như kiếm kích, điểm vào huyệt Khúc Trì, đồng thời đầu gối phải lặng lẽ thúc vào tiểu phúc địch nhân. Ai ngờ Tiểu Huyền lại kêu to: “Hắn lại dùng chân phải”, Đàm Ca lạnh người thu ngay gối phải lại, chưa kịp biến chiêu thì khuỷu tay của Truy Bộ Vương đã đẩy miệng bát đập vào ngực gã…
Thân hình hai người tách nhau ngay. Đàm Ca nhảy bật lên, vừa phun máu vừa lao ngay ra ngoài: “Sắp tới thí chủ sẽ có tai nạn, nên cẩn thận…” Gã dù phải thổ huyết trọng thương nhưng giọng nói vẫn ung dung. Truy Bộ Vương không đuổi, nhìn theo hướng gã bỏ chạy, thở dài: “Tiểu đệ chờ Đàm Ca đại sư ở kinh sư.”
Tiểu Huyền nhìn đến hoa mắt, nó vốn định chỉ ra chiêu thức của Đàm Ca, đến lúc quan trọng sẽ nói nhầm để Truy Bộ Vương ăn đòn, không ngờ võ công của y quá cao, chỉ hai chiêu đã đánh bại đối thủ khiến nó hối hận lẽ ra không nên lên tiếng.
Lương Thần quay lại tửu điếm, y không sợ Đàm Ca trả đũa nhưng đắc tội với Vô Niệm tông dai như đỉa tất nhiên không hay ho gì, đang lúc buồn bực, giận dữ liếc vì sao gây họa Tiểu Huyền, nếu không ngại người khác trông vào, thế nào cũng cho nó một trận nên thân.
Tiểu Huyền phản ứng mẫn tiệp, vỗ tay thật to: “Đại thúc thần công cái thế, vì dân trừ hại, bội phục bội phục.” Phần đa thực khách chướng mắt với hành động của Đàm Ca nhưng không dám lên tiếng, liền vỗ tay theo. Điếm tiểu nhị ban nãy nếm mùi nên vỗ tay to hơn hết.
Truy Bộ Vương đã quen thấy cảnh này cũng không khỏi đắc ý, vòng tay cảm tạ thực khách, lại thấy Tiểu Huyền không nhân cơ hội bỏ chạy mà tỏ vẻ sợ sệt, quay người chỉ vào mông, ra vẻ cam nguyện chịu phạt, hơn nữa vừa nãy nó lên tiếng giúp đỡ, y bèn mỉm cười, ngồi xuống.
Tiểu Huyền đưa hai tay nâng trà lên: “Lương đại thúc lợi hại thật.” Lời nói xuất phát từ phế phủ, nó vốn không ngờ Lương Thần lại dễ dàng đánh bại Đàm Ca đến thế.
Y cười ha hả, nâng chén uống cạn: “Hiện tại đã biết lúc ta đánh cháu đã nương tay rồi chứ.” Tiểu Huyền gật đầu lia lịa, lại rót đầy chén, Lương Thần đang lúc phơi phới, cảm giác chén trà ngọt lịm, uống liền mấy chén, nhớ đến thủ pháp ném lạc ban nãy của nó: “Không ngờ tiểu quỷ có bản lĩnh đó.”
Tiểu Huyền cười: “So với đại thúc còn kém lắm.”
Truy Bộ Vương không truy cứu, thầm nghĩ đã lộ hình tích, cũng nên lên đường cho sớm, bèn gọi điếm tiểu nhị đến thanh toán, điếm chủ liên mồm ca ngợi “đại hiệp”, kiên quyết không nhận. Bình thường Lương Thần quanh năm truy bắt đào phạm tại những nơi hoang vắng, khó cơ hội phong quang đóng vai “đại hiệp”, không muốn ăn uống miễn phí nên sau khi đưa đẩy một hồi, đặt hai lạng bạc lại, đứng dậy định cất bước, chợt cảm giác bụng ngâm ngẩm đau, một cỗ trọc khí trầm xuống hạ âm, định phun ra. Y kinh hoàng cực độ, nếu mà xì “mùi hơi khó chịu” ra trước mặt đông người thế này, cái danh “đại hiệp” coi như đi tong, bèn đặt tay xuống bàn, vận hết mười thành công lực, mới khiến cỗ trọc khí tan đi.
Tiểu Huyền thấy vẻ mặt y cổ quái, chợt chỉ ra ngoài cửa kêu lên: “Ai da, hòa thượng mập quay lại.”
Chúng nhân cùng quay lại, làm gì có bóng ai? Trong lúc tất cả thất thần, nó chạy ngay ra cửa.
Truy Bộ Vương quát to: “Tiểu quỷ định làm gì?” Định đuổi theo nhưng bụng y đau như dao cắt, hiểu ngay mình đã trúng độc thủ của tiểu quỷ, gầm lên giận dữ: “Ngươi đừng chạy.”
Y trầm khí Đan Điền, vận công định ép trọc khí xuống nhưng dù sao cũng là tấm thân máu thịt, quả vô lực khống chế, dù có võ công tuyệt thế cũng đành bó tay, mới đi được hai bước mà bụng như đựng ngàn cân, mặt đỏ lựng, ấp úng nhìn điếm chủ.
Điếm chủ không hiểu: “Đại hiệp có gì dạy bảo?”
Truy Bộ Vương cố nhịn đã lâu, bật ra tiếng kêu: “Nhà xí ở đâu?”
Chúng nhân nhìn nhau, cảm giác vị “đại hiệp” này hành sự quỷ thần khó đoán.
oOo
Tiểu Huyền cắm đầu cắm cổ bỏ chạy, nhớ lại dáng vẻ dở khóc dở cười của Truy Bộ Vương ban nãy liền bật cười. Nhân lúc y động thủ với Đàm Ca, nó trút hết gói ba đậu vào bình trà, ai nấy đang chăm chú quan sát trận đấu nên không phát hiện.
Lương Thần đại thắng, đắc ý dương dương, tất nhiên không ngờ bình trà đã bị nó giở trò, uống liền mấy chén “trà ba đậu”, lại qua một trận kịch đấu, khí huyết sôi trào, dược lực công hiệu cực nhanh nên không ngăn nổi nó đào tẩu.
Nó sợ y thần công kinh nhân, sẽ đuổi kịp ngay nên không chọn đường lớn, men theo những lối vắng vẻ mà chạy. Trước mắt hiện lên một ngọn núi nhỏ, nó thầm nhủ Truy Bộ Vương ắt nhận định nó chạy đến kinh thành, chi bằng vào trong núi trốn tránh rồi tìm cơ hội nhập kinh sau, nên không ngần ngại gì, chạy thẳng lên núi.
Núi không cao, ít người lai vãng, tuy không có đường mòn dẫn lên đỉnh nhưng cây cối dày đặc, đủ để leo lên. Nó trèo một mạch lên lưng núi mới dừng chân thở hồng hộc, ngoái nhìn liền phát hiện đã để lại không ít dấu vết, với thuật cân tung của Truy Bộ Vương, dù đau bụng cũng chỉ mấy ngày là tìm được, không biết nên dùng cách gì mới hợp lý. Nếu có tuyết rơi, may ra che được dấu chân nhưng bây giờ trời xanh ngăn ngắt, làm gì có dấu hiệu đổ tuyết, bất giác nó cảm thấy nhức óc.
Nó bẻ một cành khô, định xóa những dấu chân dưới đất, có điều quấy loạn mặt đất lại càng thu hút chú ý, đâm ra ân hận lúc xưa không học lấy một ít cơ quan thuật của Ngu Đại Sư để bây giờ bày ra trận pháp kỳ môn bát quái gì đó, lại thêm một vài cơ quan mai phục thì dẫu không gây khó cho Lương Thần cũng cầm chân được y.
Tuyết trên núi chưa tan, tay nó dính không ít tuyết, đỏ ửng lên vì lạnh, trong lúc toàn thân đầm đìa mồ hôi, gió núi lùa qua khiến nó run lên, co người lại nhưng vẫn không chịu nổi khí lạnh, đành nhìn quanh tìm xem có sơn động nào trốn lạnh đã rồi tính.
Nó nhìn quanh một vòng nhưng không phát hiện sơn động nào, buộc phải chạy tại chỗ cho ấm người. Bất chợt nó sững người, cảm giác có gì đó khác lạ, ngẫm nghĩ thật kỹ, hình như vừa nãy nhìn thấy một vùng cây xanh, ngẩng lên quan sát, quả nhiên trước mặt có một sơn cốc nhỏ xanh um. Người bình thường gặp cảnh này thường bỏ qua nhưng nó chịu ảnh hưởng Thiên Mệnh Bảo Điển, cực kỳ mẫn cảm trước biến hóa của thế gian vạn vật, thầm nhủ trong lúc đông giá, khắp núi toàn cây cỏ khô héo, sao sơn cốc lại xanh tươi? Bèn lần xuống đó.
Đi chừng nửa tuần hương là đến được sơn cốc, quả nhiên không chỉ cây cối xanh rờn như trong tiết xuân, dưới chân cỏ biếc ngập đất, nấm mọc tua tủa, gió lùa qua cũng không cảm thấy lạnh. Tiểu Huyền kinh ngạc, không hiểu nổi sao trong lúc đông giá lại có nơi thần kỳ thế này?
Trong cốc không một bóng người, nó thong thả đi xuyên qua rừng, bắt gặp một bãi đất trống. Suối nước từ khe núi phun ra tạo ra âm thanh vui tai, tụ lại thành cái đầm sâu, hơi bốc nghi ngút. Tất cả vẽ lên một bức tranh mỹ lệ.
Nó há hốc miệng kinh hãi, tưởng mình lạc vào động phủ trong tiên cảnh, do dự một hồi mới dám cất bước, chợt trong lòng dấy lên cảm giác kỳ quái, nơi này e rằng là nơi sơn tinh hoa yêu sinh sống, để tránh gặp tai họa tốt nhất không nên tùy tiện xông vào. Cảm giác xuất hiện đột ngột, lại mãnh liệt, tựa như có người nói rõ vào tai nó.
Nó định thần, lắc lắc đầu, thầm cười mình nghĩ linh tinh, đi thêm mấy bước quan sát cho rõ hơn. Hơi nước bốc lên từ mặt đầm phả hơi nóng vào mặt, hóa ra là một nguồn suối nóng.
Nước từ vách núi chảy xuống, thỉnh thoảng mang theo một vài viên đá nhỏ rơi xuống mặt đầm, tạo thành lớp sóng lăn tăn. Lớp bèo trên mặt đầm cũng tản ra như một tảng ngọc bích bị cắt đôi.
Nó hớn hở, chạy đến bên đầm vọc nước, ôn độ không quá cao, ngón tay được hơi nóng truyền vào vô cùng thoải mái, nếu không ngại Truy Bộ Vương đuổi tới, nó thật muốn nhảy xuống tắm rửa thống khoái một phen.
Ngay trong sát na đó, nỗi sợ vô hình dâng lên trong lòng, hình như dưới mặt nước có quái vật ăn thịt người, lúc nào cũng có thể ngoi lên. Nó bất giác lùi lại nửa bước, ngây người nhìn mặt đầm tĩnh lặng, hít sâu một hơi dẹp bỏ tạp niệm, quả nhiên không cảm ứng thấy gì nữa.
Nó lớn mật, lòng hiếu thắng cũng không kém ai, dù biết trong đầm có điều cổ quái nhưng không tin tà ma, lại đến bờ đầm cúi đầu xuống nhìn, có điều tầm mắt bị lớp bèo chặn lại, không rõ hư thực bên dưới. Nó đưa tay gạt nhẹ lớp bèo, chợt sững người…
Nước đầm trong vắt, vầng mặt trời giữa trưa mờ mờ lắc lư dưới đáy nước. Dưới ánh dương quang lại có một đôi mắt sâu thẳm, trong hơn cả nước suối nhìn nó chằm chằm.
Tuy nó rất giàu tưởng tượng cũng không ngờ thay vì gặp quỷ lại gặp một đôi mắt người như mộng như ảo. Nó cả kinh, cân nhắc xem nên tiếp tục tìm hiểu nguồn cơn hay cắm đầu bỏ chạy, nước đầm tràn lên như tấm màn nước cuốn về phía nó. Theo ý thức, nó nhắm tịt mắt lại, lùi nhanh về sau, nhấc chân định chạy nhưng trong lòng nhói lên, ngã gục xuống.
Một bóng người từ đáy đầm bay lên, liên tục xoay trong trên không, tà áo trắng muốt khoác lên người, động tác gọn gàng, tư thế đẹp đẽ như thiên ngoại phi tiên.
Người đó đáp xuống bờ đầm. Nó nhìn nghiêng, thấy đối phương nhỏ thó, sắc mặt trắng trẻo như phấn dồi, bắt mắt nhất là sống mũi cao, mái tóc dài đen nhánh xòa xuống vai, nhưng không tạo thành cảm giác mềm mại mà mang mỵ lực thanh thoát. Người đó lắc mạnh đầu, nước đọng trên tóc rải khắp trời, được nắng chiếu vào ánh lên bảy sắc cầu vồng khiến nó mê mẩn, cả đời cũng không quên nổi cảnh tượng này.
Người đó quay lại, là một thanh niên cực kỳ tuấn mỹ, chừng mười bảy, mười tám tuổi, mặt đầy sát khí, nhận ra nó còn trẻ con liền hơi sửng sốt, thần sắc giãn ra, giải huyệt đạo cho nó rồi trầm giọng: “Tiểu tử con nhà ai, sao lại đến đây? Cha mẹ đi đâu?” Giọng nói nhẹ nhàng, hơi rin rít. Nếu không thấy y mặc trường bào, lại nghe giọng nói, chỉ dựa vào đôi mắt phượng, nhất định nó cho y là nữ tử, tuy huyệt đạo được giải mà nó vẫn ngây ngô nhìn đối phương, không thốt thành lời.
Thanh niên mỉm cười, hơi nhíu mày lại như đang nghĩ đến một việc khó tin. Nụ cười như nhìn thông lẽ đời, không mảy may đượm nét giận dữ, nhíu mày như bậc khổ hạnh thấu ý trời hiểu lòng người, hai sắc thái tình cảm trái ngược hợp lại tự nhiên, mỗi động tác của y đều lộ ra sức mạnh lôi cuốn, khiến nó há hốc mồm. Bình sinh nó gặp không ít người xuất sắc nhưng so ra, Lâm Thanh sát khí nặng hơn, Hoa Khứu Hương cố chấp hơn, Ninh Hồi Phong âm hiểm hơn, duy thanh niên này đủ tư cách dùng bốn chữ tiên phong đạo cốt để hình dung.
Hồi lâu nó mới lập cập hỏi: “Ngươi là thần tiên? Hay là quỷ quái?”
Thanh niên nháy mắt: “Tiểu tử thấy ta giống thần tiên?”
Đầu óc nó u mê, chợt thấy y rất giống một nhân vật trong các vở kịch vẫn xem từ bé, ngây ngô hỏi: “Ngươi là Hoa Mộc Lan?”
Thanh niên khẽ nhếch môi mỉm cười, dịu giọng: “Tiểu tử cho ta biết tên trước, ta sẽ cho biết ta là ai.”
Tiểu Huyền vốn thấy y dáng vẻ tuấn mỹ, thần thái ẩn ước khí vương giả, rất khó tiếp cận nhưng nụ cười lại cực kỳ ranh mãnh, tuổi cũng chỉ hơn mình năm, sáu tuổi, tự nhiên cự ly xích gần hẳn.
Nó cố định thần: “Ta tên…” Đột nhiên im bặt, thầm nhủ tri nhân tri diện bất tri tâm, nơi này gần kinh sư, đối phương chắc có liên quan đến đế đô, Truy Bộ Vương từng nói quần hùng kinh sư đều muốn bắt nó, không thể dễ dàng tiết lộ thân phận. Nó định bịa ra một cái tên nhưng chạm vào ánh mắt sáng rực của thanh niên, cơ hồ nhìn thấu lòng nó, liền tắc tịt.
Thanh niên không gặng hỏi thân phận nó, lạnh nhạt bảo: “Ngươi một mình đến đây làm gì?”
“Ta vô ý đến đây, ngươi ở dưới đáy đầm làm gì, tắm chăng?” Hàm ý của nó vốn trẻ con vô tư, vẻ mặt thanh niên hơi đỏ lên, thoáng nổi giận: “Tiểu tử nhìn thấy gì?”
Tiểu Huyền ngây ngô: “Ta không thấy gì hết.” Nó chợt đứng dậy, kéo tay thanh niên đi ra khỏi khu rừng: “Chúng ta đi thôi, có một tên xấu xa đang đi tìm ta, nếu bị hắn tìm thấy ắt rầy rà to.”
Thanh niên khoát tay, bình thản nói: “Hắn tìm tiểu tử, sao ta phải bỏ chạy?”
Tiểu Huyền ngẫm có lý, vốn nó có hảo cảm với thanh niên, tuy không đành dứt ra nhưng sợ liên lụy đến y: “Vậy thôi, tái kiến.” Rồi quay người chạy ra khỏi khu rừng, thanh niên tiến lên chặn đường, cười mủm mỉm: “Ta tên Cung Địch Trần.”
Tiểu Huyền ngây người: “Ta không muốn cho ngươi biết tên.” Nó lẩm bẩm cái tên lạ lùng, cảm giác hai chữ “Địch Trần” cực kỳ thích hợp với đối phương, bèn học theo lối của người lớn: “Cung huynh quả nhiên tên rất hay.”
Hóa ra thanh niên chính thị đại đệ tử Cung Địch Trần của Quốc sư Thổ Phồn Mông Bạc, y đến kinh sư được nửa tháng, kết giao các phương quyền quý, lại hẹn các lộ nhân vật thành danh ở kinh sư gặp mặt tại Thanh Thu viện. Hôm nay nhàn rỗi, đến Phan trấn ở ngoại thành du ngoạn, vừa hay thấy dòng suối nóng, y vốn ưa sạch sẽ, ngụ lại Thanh Thu viện có phần bất tiện, gặp nơi không người, nhất thời động tâm mới xuống đầm tắm rửa, ai ngờ Tiểu Huyền lại thần xui quỷ khiến thế nào mò vào.
Xưa nay y hành sự lúc chính lúc tà, cộng thêm lai lịch tôn quý, chưa từng để ai nhìn thấy thân thể, nhất thời xấu hổ, nếu không phát hiện Tiểu Huyền là trẻ con mười hai, mười ba tuổi chắc đã hạ sát thủ. Giờ thấy nó ra vẻ người lớn, bất giác bật cười hì hì: “Tiểu huynh đệ không cần báo tên, ta là thần tiên, đã đoán ra rồi.”
Lúc mới gặp, Tiểu Huyền tưởng y là thần tiên thật sự, giờ đâm bán tín bán nghi: “Ta tên là gì?”
“Tiểu huynh đệ tên Dương Kinh Huyền, đúng không?” Nhận ra nó kinh ngạc, Cung Địch Trần thản nhiên vỗ tay, mắt loáng qua tia nghi hoặc không để nó nhận ra, thong thả nói tiếp: “Hiện tại tiểu huynh đệ cứ tin ta là thần tiên.”
Ban nãy tuy ở dưới đáy đầm nhưng lúc Tiểu Huyền đặt chân vào rừng, y đã phát giác, ngầm vận độc môn tâm pháp Minh Tâm Tuệ Chiếu khiến người khác không dám xông vào, đầu ngờ nó không bị ảnh hưởng khiến y kinh ngạc, lúc nhận ra nó mới hơn chục tuổi đầu, lại càng kinh ngạc hơn.
Vốn Hư Không Đại Pháp của Quốc sư Mông Bạc hiểu rõ nhân quả, tinh thâm nắm bắt biến hóa trong tâm thái, tìm những chỗ tinh thần bạc nhược khiến địch nhân không cần đánh cũng chịu thua, Minh Tâm Tuệ Chiếu từ đó hình thành, ảnh hưởng đến lực phán đoán đối phương, vì thế lúc Tiểu Huyền bước vào rừng mới có xung động muốn bỏ đi ngay, sau đó lại hoảng sợ, nếu không nhờ từ bé tu tập Thiên Mệnh Bảo Điển, quyết không chống nổi dị công mê hoặc tinh thần này, sớm đã bỏ chạy.
Cung Địch Trần tâm tư linh mẫn, phát hiện cậu bé không sợ tâm pháp độc môn, đoán ngay nó có liên can đến Thiên Mệnh Bảo Điển của Hạo Không môn, lại nghĩ tới những truyền văn tại kinh sư mấy ngày nay, lập tức đoán ra thân phận của nó.
Tiểu Huyền tuy kỳ quái vì sao y đoán được tên mình nhưng càng ngạc nhiên hơn khi y nói ra cái tên Dương Kinh Huyền, thay vì Hứa Kinh Huyền. Tuy từ bé nó dùng tên Dương Kinh Huyền nhưng khí biết Dương Mặc chỉ là hóa danh của cha nuôi Hứa Mạc Dương liền bỏ, ngay cả Truy Bộ Vương cũng gọi là Hứa Kinh Huyền, Cung Địch Trần sao lại biết cái tên kia? Nhất thời nó không giải thích nổi.
Cung Địch Trần thấy nó ngây đuỗn, tưởng nó coi mình là thần tiên thật nên mỉm cười: “Tiểu huynh đệ yên tâm, có thần tiên đại ca ở đây, đệ không phải sợ ai truy đuổi.”
Tiểu Huyền thuận miệng nói: “Người đó là Truy Bộ Vương Lương Thần.”
Cung Địch Trần máy động tâm tư, một thoáng liền nghĩ thông dụng ý Thái Thân Vương phái Truy Bộ Vương mang cậu bé vào kinh, thầm nhủ Lương Thần thiện nghệ thuật cân tung, e rằng sẽ tìm đến đây ngay, liền trầm ngâm: “Sao tiểu huynh đệ lại thoát được?”
Tiểu Huyền rất có hảo cảm với y, vô tình coi y là người đáng tín nhiệm, hơn nữa hý lộng Lương Thần là việc nó đắc ý, lập tức hớn hở kể lại ngọn nguồn, nhất là việc bỏ thuốc: “Hiện tại hắn ăn phải ba đậu, đại khái không lập tức đuổi đến được, tốt nhất chúng ta tìm chỗ trốn, chỉ cần vào được kinh sư tìm Lâm thúc thúc, sau đó không phải sợ ai nữa.”
Cung Địch Trần kinh ngạc xen lẫn buồn cười, Truy Bộ Vương thuộc nhóm Bát Phương Danh Động, vô số phạm nhân cùng hung cực ác đều chịu phép mà lại để cậu bé thoát được, hơn nữa còn ăn phải ba đậu, quả hết sức khó tin, đồng thời cũng đánh giá Tiểu Huyền không đơn giản. Lúc nghe kể lại việc Lương Thần tự hút “ám khí” trong hốc cây, khuôn mặt y vốn nghiêm nghị cũng gập người cười chảy nước mắt.
Tiểu Huyền cũng cao hứng, mãi mới tắt cười được, lại lộ vẻ lo lắng: “Truy Bộ Vương võ công cực kỳ lợi hại, đệ không thể liên lụy Cung đại ca, sau này có cơ hội sẽ gặp lại.” Đoạn quay người định đi.
Cung Địch Trần không cản, chỉ thủng thẳng thốt: “Một tiếng đại ca này không thể nhận suông được, để ta giúp tiểu huynh đệ.”
Tiểu Huyền cả kinh: “Lẽ nào đại ca không sợ Truy Bộ Vương?”
Cung Địch Trần cười đáp: “Truy Bộ Vương tuy lợi hại nhưng ta không ngại.”
Người khác nói ra câu này, ắt Tiểu Huyền coi là nói khoác nhưng ấn tượng ban nãy Cung Địch Trần để lại cho nó quá sâu, biết y tuy là phàm phu tục tử, song nó tin y có năng lực hơn người, bất giác hớn hở: “Vậy Cung đại ca có thể giúp đệ tìm Lâm thúc thúc không? Là Ám Khí Vương Lâm Thanh.” Nhắc đến Lâm Thanh, nó lại ưỡn ngực, lộ rõ vẻ tự hào.
Cung Địch Trần ngẫm nghĩ, đoạn chậm rãi đáp: “Ta không chỉ giúp tiểu huynh đệ tìm Ám Khí Vương, đối phó với Minh tướng quân cũng không thành vấn đề.”
Tiểu Huyền kinh ngạc trợn tròn hai mắt: “Đệ… đệ và Minh tướng quân vô oán vô cừu, sao phải đối phó với ông ta?” Nó lại bổ sung thêm một câu: “Hơn nữa không thể dùng âm mưu quỷ kế, đệ muốn thấy Lâm thúc thúc quang minh chính đại thắng ông ta bằng võ công.”
Cung Địch Trần đáp: “Tất nhiên là thế, nếu không thắng bằng võ công, làm sao khiến người ta tâm phục?” Y biết Tiểu Huyền vẫn chưa hiểu nó chính là “khắc tinh” của Minh tướng quân, đang sa vào hoàn cảnh cực kỳ nguy hiểm, bèn ngưng thần nghĩ đối sách.
Tiểu Huyền thấy y trầm tư, tưởng y khó nghĩ: “Nếu đại ca ngại phiền, đệ tự đi tìm Lâm thúc thúc cũng được.”
Mắt Cung Địch Trần lóe tinh quang, kế hoạch phức tạp loáng thoáng hiện lên trong lòng: “Không phải tiểu huynh đệ bảo đã lập ước pháp tam chương với Truy Bộ Vương sao, chúng ta cũng thử lập xem thế nào.”
Tiểu Huyền không hiểu: “Cung đại ca muốn thế nào?”
Cung Địch Trần nhìn nó, nghiêm mặt lại: “Tiểu huynh đệ tin đại ca không?”
Tiểu Huyền nhìn vào hai đồng tử sâu thẳm, không hề do dự gật đầu: “Cung đại ca, đệ tin chứ.” Nó học Thiên Mệnh Bảo Điển từ bé, có năng lực phán đoán đặc biệt với vạn vật trên đời, nhận ra mình với Cung Địch Trần có cơ duyên vi diệu khó tả bằng lời, lập tức dốc lòng tin tưởng.
Cung Địch Trần cũng tinh thông thần công Minh Tâm Tuệ Chiếu phán đoán tâm ý người khác, nhận ra nó hoàn toàn tín nhiệm trong lúc mình định lợi dụng nó, nhất thời vô cùng cảm động lại hổ thẹn, thầm hạ quyết tâm: Bất kể sự tình phát triển đến đâu, lợi dụng hay trợ giúp nó một tay cũng thế, quyết không cho ai làm hại cậu bé ngây thơ này.
“Được, huynh đệ tin ta vậy làm theo lời ta.” Y lớn tiếng: “Thứ nhất, trong vòng năm ngày tới, huynh đệ không được tự ý đi tìm Ám Khí Vương.”
“A!” Tiểu Huyền kinh hãi: “Vì sao?”
Cung Địch Trần hỏi ngược: “Điều kiện đầu tiên ta đưa ra, tiểu huynh đệ tin hay không?”
Tiểu Huyền chậm rãi đáp: “Đã bàn điều kiện phải do song phương. Đệ tuy tin đại ca nhưng không gặp được Lâm thúc thúc, hà tất phải phiền huynh giúp?”
Cung Địch Trần mỉm cười: “Ta chỉ nói là trong năm ngày, chứ không bảo sau đó huynh đệ không được gặp Ám Khí Vương. Nếu huynh đệ tin ta, cứ thế thực hiện, ta đảm bảo sẽ để huynh đệ bình an gặp được Lâm thúc thúc. Nếu hiện tại huynh đệ nóng lòng, không chỉ vô ích mà có thể sẽ dồn Lâm Thanh vào chỗ nguy hiểm.”
Tiểu Huyền nhận ra lời y hàm ý nghiêm trọng, thầm nhủ mình không nên trở thành “gánh nặng” của Lâm thúc thúc, ngẩng lên bắt gặp dáng vẻ nắm chắc của Cung Địch Trần, liền nghiến răng: “Được, đệ đồng ý.”
“Thứ hai, từ giờ trở đi, huynh đệ phải nghe theo ta sắp xếp.” Cung Địch Trần thấy nó định nhảy dựng lên, bồi thêm một câu: “Điều kiện này sau hôm nay sẽ hết tác dụng.”
Tiểu Huyền lại ngồi yên: “Hôm nay và ngày mai có gì khác biệt?”
Cung Địch Trần từ từ giải thích: “Hôm nay huynh đệ là tiêu điểm của thế lực các phương tranh đoạt, vào kinh thành nên ngoan ngoãn ẩn tàng. Nhưng đến mai, dù huynh đệ nghênh ngang đi giữa đường cũng không ai dám động đến nửa sợi tóc.”
Tiểu Huyền kinh ngạc: “Sao lại như thế?”
Cung Địch Trần mỉm cười thần bí: “Sơn nhân tự có diệu kế.”
“Được, đệ đồng ý.” Dáng vẻ vạn sự nằm trong tay của Cung Địch Trần khiến Tiểu Huyền tin tưởng hẳn, “điều kiện thứ ba là gì?”
Cung Địch Trần nghiêm mặt: “Việc huynh đệ thấy ta ở đáy đầm hôm nay không được cho ai biết. Dầu sau này có người hỏi cũng chỉ được nói là chúng ta vô ý gặp trên đường.”
Tiểu Huyền vốn cho rằng điều kiện thứ ba này hà khắc nhất, đâu ngờ chỉ như vậy, liền gãi gãi đầu: “Kỳ quái, đệ lại thấy chúng ta gặp gỡ như thế mới là có duyên phận. Cung đại ca ở dưới đáy đầm luyện công phu?”
“Không được nhắc đến cái gì mà duyên phận với ta.” Cung Địch Trần không thể giải thích với nó là y đang tắm dưới đầm, bất quá lúc này biết chắc nó không nhìn thấy những thứ không nên nhìn, thở phào một hơi: “Huynh đệ không nên hỏi nhiều quá, cứ đồng ý là được.”
Tiểu Huyền gật đầu: “Được, đệ đáp ứng hết. Hiện tại chúng ta làm gì, vào kinh thành chăng?”
“Vào kinh sư trọng địa, sao lại không thay đổi hình dáng đôi chút?” Cung Địch Trần khẽ mỉm cười, “Trước khi Dương đại hiệp nhập kinh nên chỉnh đốn một phen.”
Y bèn dạy nó một vài yếu quyết dịch dung hóa trang như ngưng khí đổi giọng nói, nín thở liễm thần. Tiểu Huyền lấy làm lạ: “Cung đại ca bất tất vất vả, ở kinh sư vốn không ai nhận ra đệ.” Chợt nó nhớ ra từng gặp Diệu Thủ Vương Quan Minh Nguyệt cùng danh bộ Tề Bách Xuyên của bộ Hình, liền bổ sung: “Cũng có hai người biết nhưng kinh sư lớn như vậy, chắc không chạm mặt đâu.”
Cung Địch Trần thở dài: “Vậy mới phiền hà, nếu ai cũng biết mặt huynh đệ lại dễ dàng, chỉ cần thay đổi hình dạng một chút là xong. Nhưng người ta không biết nên sẽ kiểm tra mọi đứa trẻ nhập kinh rất kỹ.”
Tiểu Huyền do dự một lúc rồi cũng nêu ra nghi vấn thôi thúc: “Truy Bộ Vương nói là ai ở kinh sư cũng muốn bắt đệ, thật ra vì cớ gì?”
Cung Địch Trần than: “Lúc Lâm thúc thúc của huynh đệ bị bọn Quản Bình vây công ở ngoại thành từng nó một câu liên quan đến huynh đệ. Đó vốn là bí mật nhưng hiện thời gần như cả kinh sư đều biết.”
Tiểu Huyền nghe nói có liên quan đến Lâm Thanh, quyết không bỏ qua: “Lâm thúc thúc nói gì?”
Cung Địch Trần đáp: “Mấy hôm nữa gặp Ám Khí Vương, huynh đệ tự thân hỏi y.”
Tiểu Huyền năn nỉ: “Đại ca, cho đệ biết đi.”
Cung Địch Trần mỉm cười lắc đầu: “Không phải đại ca không muốn cho huynh đệ biết, nhưng giờ mà nói ra chỉ tổ rối loạn tâm trí, việc lớn hỏng mất.” Vẻ mặt y bình hòa nhưng ngữ khí cực kỳ kiên quyết.
Tiểu Huyền tuy trong lòng ngứa ngáy nhưng đành ôm một bụng hoài nghi, thầm nghĩ không cần vội vàng, khắp thành đều biết thì cứ đợi lúc vào kinh nghe ngóng là ra, lại lấy làm hiếu kỳ: “Cung đại ca thật sự biến đệ thành hình dáng khác được?” Nó bụng bảo dạ nếu biến thành một Tiểu Huyền lạ lẫm, lúc gặp Lâm Thanh dọa y một phen, nhất định thú vị phi thường.
Cung Địch Trần đáp: “Thuật dịch dung không phải vạn năng nhưng diện mạo mỗi người đều có những đặc tính rõ ràng nhất, chỉ cần sửa đi là có thể mang lại công hiệu che trời qua biển.”
Tiểu Huyền chợt nhìn lén y, tự nhủ: ngũ cung của Cung đại ca gần như hoàn mỹ, không biết đặc điểm nổi bật nhất ở đâu. Cung Địch Trần hình như đoán được tâm ý nó, quay mặt đi rồi quay lại: “Huynh đệ thử xem hiện tại ta có gì khác?”
Tiểu Huyền ngắm kỹ một lúc: “A, da Cung đại ca biến thành màu vàng, mũi tựa hồ cũng tẹt hơn một chút, ồ, trán có thêm mấy nếp nhăn, như thành một người khác.” Nó vỗ tay: “Đúng rồi, da Cung đại ca trắng nhất, mũi cũng cao, đều là những đặc tính mắt bắt.”
Đổi lại người khác thấy thần công biển đổi màu da, làm tẹt mũi trong nháy mắt của Cung Địch Trần tất ca ngợi không ngớt nhưng Tiểu Huyền lại coi như như trò diễn trên hý đài, không hề lấy làm kỳ lạ, Cung Địch Trần mỉm cười: “Đúng thế, còn với huynh đệ…” Mục quang y đảo đi đảo lại khắp mặt nó, trầm ngâm do dự.
Tiểu Huyền bĩu môi: “Đệ không dễ nhìn như huynh, không cần ngắm nữa…” Nó thấy y vẫn nhìn chăm chăm liền trợn mắt giậm chân: “Hình như đại ca nhìn thấy trên mặt đệ có một miếng thịt thơm thì phải.”
Cung Địch Trần phì cười, mắt sáng lên: “Ta thấy rồi, đặc điểm nổi bật nhất của đệ là đôi mắt, chỉ cần khiến nó nhỏ đi một chút, nếu thoáng lướt qua sẽ lừa được những kẻ không quen.”
Tiểu Huyền không hiểu: “Hóa trang cho đệ còn hiểu được nhưng Cung đại ca vốn tuấn tú, hà cớ cố ý biến thành xấu xí?” Nó vội giải thích: “Không xấu lắm, chỉ là… chỉ là kém hơn dáng vẻ ban đầu.”
Cung Địch Trần thoáng hiện vẻ mất tự nhiên, bình tĩnh giải thích: “Dù gì cũng chỉ một túi da hôi hám, xấu đẹp có quan hệ gì?” Y vốn lòng lặng như nước nhưng nghe một cậu bé khen ngợi tướng mạo, cũng thầm hoan hỷ.
Tiểu Huyền lẩm bẩm: “Đệ vẫn không nghĩ thấu, chả lẽ đẹp đẽ là cũng tội lỗi? Đệ muốn dễ nhìn hơn mà có được đâu.”
Cung Địch Trần thấp giọng: “Ta làm thế là có nguyên nhân, huynh đệ đừng hỏi.” Y thấy nó có vẻ không vui, vội dịu giọng: “Có lúc ta sẽ cho huynh đệ biết nhưng hiện tại chưa được. Bí mật giữa hai chúng ta, huynh đệ nhất định phải giữ gìn cho Cung đại ca, được chăng?”
Tiểu Huyền thấy y dịu giọng, lại coi cả hai là “huynh đệ”, trong lòng liền dâng lên nhiệt huyết, đưa ngón tay ra nói hết sức nghiêm chỉnh: “Cung đại ca yên tâm, đệ sẽ không nói ra bí mật.” Nó ngẫm nghĩ rồi thêm vào một câu: “Cả Lâm thúc thúc đệ cũng không nói.” Lúc này trong lòng nó ngập ý niệm “kẻ sỹ chết vì tri kỷ.”
Cung Địch Trần mỉm cười, ngoéo tay thề thốt. Với Tiểu Huyền, cái ngoéo tay này mang phong vị kết nghĩa kim lan.
Từ bé nó sống với Hứa Mạc Dương tại Thanh Thủy tiểu trấn, trừ mấy bạn chơi thường ngày, hoàn toàn không có ai để dốc lòng. Thủy Nhu Thanh là bằng hữu đầu tiên trong đời, nhưng cô bé cho rằng nó hại phụ thân mất mạng nên coi nó khác nào cừu nhân không đội trời chung. Mãi hôm nay nó mới gặp Cung Địch Trần, trong lòng cho rằng có duyên, thật sự mong muốn có một vị đại ca anh tuấn tiêu sái, lại có chủ kiến như thế, tuy phát giác y hành sự thần bí, tựa hồ ẩn chứa nhiều bí mật không thể tiết lộ nhưng đang lúc cao hứng nên cũng không để ý.
Tuy nó sùng bái Lâm Thanh hơn nhưng kính trọng theo kiểu dành cho phụ thân, sư trưởng, còn Cung Địch Trần với nó không chênh nhau nhiều tuổi, thân cận hơn hẳn, nhất thời lòng nó dậy sóng, hồi lâu vẫn chưa bình lặng lại.
Cung Địch Trần tinh thông Hư Không Đại Pháp và Minh Tâm Tuệ Chiếu, cảm ứng sâu sắc tình cảm vô tư đó, dù y từng trải giang hồ, nhưng được một cậu bé mới hiểu sơ sơ sự đời tín nhiệm, lòng cũng nóng bừng, suýt nữa vứt bỏ cả kế hoạch riêng, sau cùng mới thầm thở dài, tự ức chế tình cảm.
Tiểu Huyền hít sâu một hơi, tránh không nhìn vào mục quang phức tạp của Cung Địch Trần, chuyển chủ đề: “Cung đại ca, dù huynh thu nhỏ con mắt đệ, nhưng cái… cái đầu này sẽ khiến người ta sinh nghi.” Lúc đó nó chỉ mong mình lớn nhanh thành một nam tử cao lớn cường tráng, đỉnh thiên lập địa.
Cung Địch Trần đáp: “Đệ yên tâm, ta sẽ có cách nhưng đệ phải chịu khổ một chút.”
“Đệ không sợ.” Lòng tin của Tiểu Huyền tăng hẳn.
oOo
Hai người vừa đi vừa trò chuyện, thoáng sau đã thấy bóng tường thành kinh sư. Dưới ánh mặt trời chính ngọ tiết đông không lấy gì làm gay gắt, thành lâu vươn lên trời mây, khí thế phi phàm.
Tiểu Huyền chắc lưỡi: “Hóa ra kinh sư thế này, quả nhiên mười phần khí phái.”
Cung Địch Trần cười: “Hiện tại đệ muốn làm gì nhất? Còn nhớ lần đầu tiên ta thấy kinh sư, chỉ muốn treo lên tường thành nhảy xuống…” Nhận ra Tiểu Huyền cỏ vẻ kinh ngạc, y gõ nhẹ lên đầu nó: “Đừng nghĩ linh tinh, ta còn chưa chán sống, nhưng vẫn thật lòng muốn thử cảm giác bay trên tầng không kinh sư.”
Tiểu Huyền ngẫm nghĩ: “Đệ muốn làm nhất là leo lên chỗ cao nhất của Tử cấm thành, nói to với Hoàng đế lão nhi ta đến đây, ha ha.” Bất giác, Cung Địch Trần lại bật cười trước câu nói đùa này.
Y không đưa Tiểu Huyền trực tiếp vào thành mà đi vòng, nó tỏ vẻ ngạc nhiên: “Sao chúng ta không vào thành?”
Cung Địch Trần đáp: “Vào theo Nam môn phải đi liền mấy dặm, e rằng sẽ bị người ta phát giác.”
Tiểu Huyền hỏi: “Cung đại ca định đưa đệ đi đâu?”
Cung Địch Trần đáp nước đôi: “Đến đó trước đã, sau đó đệ mới có thể công nhiên hiện thân tại kinh sư.”
Hai người đi vòng gần nửa ngoại thành, đến Tây môn, Cung Địch Trần đưa nó đến một nơi yên tĩnh không người: “Hiện tại ta dùng Di Nhan Chỉ Pháp nắn gân cốt toàn thân đệ hòng giúp đệ cao hơn mấy tấc, tránh mọi tai mắt ở kinh sư. Trong lúc thực hiện, khó lòng tránh khỏi đau đớn, có cần ta điểm huyệt trước không, có điều Cung đại ca cũng không biết điểm huyệt rồi mới xuất thủ sẽ có hậu quả gì không hay…”
Tiểu Huyền vừa kinh ngạc vừa vui mừng: “Tiểu đệ không sợ đau, Cung đại ca không cần điểm huyệt đạo. À, phương pháp này giữ được bao lâu?”
“Đại khái một thời thần, chúng ta vào kinh rồi sẽ phải đi thẳng một mạch, không thể dây dưa dọc đường, đệ có gặp việc gì hay ho cũng không nên đa sự, sau này có đủ thời gian cho đệ thưởng ngoạn.”
Tiểu Huyền cực kỳ thất vọng, lẩm bẩm: “Không có phương pháp giữ được hiệu lực mấy tháng nhỉ, mấy ngày thôi cũng được.” Xem ra nó không quan tâm đến đau đớn phải chịu mà có cao thêm được mấy tấc không.
Cung Địch Trần bực mình: “Có cần Cung đại ca bẻ gãy chân đệ, nối một đoạn gỗ vào không?”
“Thế thành tên khoèo mất, không được,” nó cúi đầu thở dài, “hay Cung đại ca thường xuyên nắn xương cho đệ cũng được.”
Cung Địch Trần cốc cho nó một cái nên thân: “Đệ tưởng ta là mấy kẻ mù tầm quất trên giang hồ chắc?” Y vốn định làm mặt lạnh nhưng dáng vẻ ôm đầu của Tiểu Huyền hết sức khoa trương, bất giác bật cười: “Tiểu quỷ này, xem có chịu đau nổi không đã, ta nắn lần nào xong cũng nguyên khí đại thương, làm gì có chuyện thường xuyên thực hiện được?”
Tiểu Huyền tuy bị Cung Địch Trần cốc cho mấy cái nên thân, lại bị mắng đúng câu “tiểu quỷ” nó ghét nhất, trong lòng không vui tí nào nhưng được hưởng phong vị tìm cảm huynh đệ trước nay chưa từng nếm mùi, bèn nắm tay y làm nũng: “Cung đại ca dạy đệ Di Nhan Chỉ Pháp vậy, sau này đệ tự nắn.” Chưa dứt lời, xương sống đau buốt đến tim phổi, kêu ầm lên: “Oa, đau quá.”
Cung Địch Trần mắng: “Không đau sao cao lên được, thiên hạ làm gì có chuyện thoải mái như thế?”
Y xuất thủ như bay, tuy hạ chỉ không dung tình, nhưng thấy nó kêu thê thảm cũng ngầm đẩy một cỗ chân khí vào giúp nó giảm đau.
Ai ngờ chân khí truyền vào liền mất hút, y ngẩn người: “Sao lại thế nhỉ?” Người thường khi ngoại lực nhập thể đều kháng cự theo bản năng, thể chất của Tiểu Huyền khác hẳn, không những không bài xích mà hút sạch cả dư lực trên đầu ngón tay y.
Hư Không Đại Pháp vốn có một môn kỳ công là Tá Thể Hoàn Khí, gặp lúc trọng thương công lực đại tổn, có thể đem công lực toàn thân gửi sang thân thể người khác, vận chuyển một chu thiên (30) xong xuôi mới hút lại, không chỉ chữa khỏi thương thế mà công lực vẫn y nguyên. Có điều công pháp này quá tổn âm đức, người tiếp nhận công lực ký gửi tất sẽ nguyên khí đại thương, nhẹ cũng đổ bệnh một trận, nặng sẽ mất mạng, kẻ tâm thuật bất chính học được sẽ hậu hoạn vô cùng. Thành ra trong môn phái của Quốc sư Mông Bạc chỉ mình ông và đại đệ tử tập được, hơn nữa không đến lúc vạn bất đắc dĩ, quyết không sử dụng, Cung Địch Trần tuy biết Tá Thể Hoàn Khí nhưng không hiểu những phản ứng sau khi dồn công lực sang người khác, cũng không hiểu những biến hóa trong thân thể Tiểu Huyền, cho rằng minh vô ý sử dụng công pháp, lại nghe nó kêu la không ngớt, càng gia tăng thủ pháp khiến nó chịu nhiều đau đớn.
Tiểu Huyền tính tình gan góc, người khác mà giày vò thế này ắt nó không kêu nửa tiếng nhưng trong lòng đã coi “Cung đại ca” là người thân nên không e ngại, cũng không sợ y cười mình không chịu được đau đớn, ngược lại còn nghĩ nó chịu khổ chút nào, Cung đại ca sẽ yêu thương thêm chừng ấy, lại càng kêu la kinh thiên động địa.
Mãi khi Cung Địch Trần hỏi: “Đệ định gọi người ta đến xem hả?” nó mới im tiếng, hít hơi lạnh qua kẽ răng, liên tục lên tiếng chỉ huy: “Ai da, cao hơn xương bánh chè ba phân, không đúng, không đúng, xuống cẳng chân một phân…”
Cung Địch Trần nghe nó nói ra vị trí nắn bóp xương cốt không sai chút nào, cũng thầm kinh ngạc, ngay bản thân y xuất chỉ cũng chỉ án theo vị trí, vị tất có thể nói rõ ràng như thế, nó học ở đâu? Y nào biết qua bảy ngày đêm thực nghiệm tử thi ở nhà xác, trình độ hiểu biết xương cốt con người của nó không kém hơn bất kỳ ai trên đời.
Sau nửa tuần hương, nó cũng khổ tận cam lai, lắc lư đứng lên, liếc ngang liếc dọc một lúc mới vỗ tay kêu to: “A, đệ đúng là cao hơn hẳn.”
Cung Địch Trần ấn giãn xương cốt toàn thân nó, xương chân dài ra gần hai tấc, nhất thời nó chưa quen, cất bước phải dựa vào y, chỉ sợ nhất thời sơ ý ngã xuống.
Cung Địch Trần nhìn chân nó lộ ra dưới ống quần, cười ha hả: “Thế nào, bản lĩnh của Cung đại ca không tệ chứ nhỉ.”
Tiểu Huyền cười hì hì, ngoẹo đầu: “Đệ thấy rồi.”
Cung Địch Trần lấy làm lạ: “Thấy cái gì?”
____
(30) Hình thức tu luyện trong thiền định, nối hai mạch Nhân, Đốc từ Nê Hoàn chạy quanh một vòng rồi đi xuống, ở trong thân thể cho đến Đan Điền chuyển quanh một vòng rồi đi lên.
“Đệ vốn muốn xem thử răng đại ca có trắng không nhưng đại ca không chịu cười, lần này mới thấy. Ồ, quả xứng với dáng vẻ như cây ngọc trước gió của Cung đại ca.”
Cung Địch Trần ngây người, thầm nhủ bình thường bản thân hiếm khi cười vui, bất giác trong lòng dấy lên phong vị khác biệt, nhất thời không biết nên mắng nó mấy câu hay cảm kích nó mang lại niềm vui, bèn nhẹ giọng: “Đi nào, chúng ta vào thành.”
Hai người gặp quan binh tra hỏi ở cổng thành, Cung Địch Trần đưa ngọc bài ra liền được cho qua ngay.
Tiểu Huyền hỏi: “Đấy là bảo bối gì mà quan binh hung hãn nhìn thấy liền nhũn như con chi chi, lại cười nói cung kính với đại ca như vậy?”
Cung Địch Trần bình thản: “Là ngọc bài của Thái Thân Vương đích thân tặng, trừ Hoàng cung nội viện và một vài nơi, đi khắp kinh sư cũng không thành vấn đề.”
Tiểu Huyền rúng động: “Thái Thân Vương!”
Cung Địch Trần không nói gì, tiếp tục cất bước, Tiểu Huyền ôm một bụng nghi hoặc nhưng thoáng sau liền dẹp hết tạp niệm, thầm nghĩ dáng vẻ và khí độ của Cung đại ca tất là nhân vật có lai lịch, Thái Thân Vương kết thân cũng là lẽ thường.
Trong trái tim đơn thuần của nó, Thái Thân Vương cũng như mấy tên lộng thần tiểu nhân ăn hại, dù có thân phận thân vương cũng phải “bắt quàng làm họ” với Cung đại ca, nghĩ lại mình vừa đem lòng hoài nghi đại ca, nó thầm tự trách.
Cung Địch Trần vốn tưởng nó sẽ gặng hỏi quan hệ giữa y và Thái Thân Vương nhưng thấy nó có vẻ hổ thẹn, cắm cúi cất bước, bèn vận Minh Tâm Tuệ Chiếu, lập tức hiểu ngọn nguồn.
Y tuy là đệ tử tục gia, nhưng từ bé theo Quốc sư Mông Bạc nghiên cứu Phật pháp, sớm nhìn thấu nhân tình thế thái, nhận ra cậu bé ngây thơ, không có tạp niệm này khiến y kinh ngạc, xúc động đỡ vai nó cùng cất bước.
Nó cao chừng ba thước, trông như một đứa trẻ ranh, tuy có người chú ý đến chiếc quần quá ngắn nhưng những đứa trẻ vào kinh học nghề sinh nhai đại đa số như vậy, nên không bị hoài nghi.
Hai người đi về phía tây kinh sư, một lúc sau đến trước một tòa phủ khí phái hoa lệ, quyền quý. Tiểu Huyền tinh mắt, nhìn thấy trên cửa treo một tấm bài viết chữ “Minh” rất lớn, dưới tấm bài có một gia đinh đứng chống nạnh ưỡn ngực, đâm ra kinh ngạc: “Đây là chỗ nào nhỉ?”
Cung Địch Trần nghiêm nghị: “Đệ còn nhớ ước pháp tam chương chăng? Điều thứ hai, mọi hành động hôm nay đều do ta chỉ huy.”
“Nhưng… chữ Minh này có ý gì?” Tiểu Huyền đỏ bừng mặt, cuối cùng không nhịn được vẫn lên tiếng hỏi.
Cung Địch Trần mỉm cười: “Ở kinh sư trừ Minh đại tướng quân, còn vị vương công quý tộc nào có nơi ở thế này?”
Tiểu Huyền há hốc miệng, nhìn Cung Địch Trần với vẻ khó tin, y đứng bất động, mặt không hề tỏ vẻ gì.
Nó ngây ra một lúc mới bước lên kéo tay y: “Đệ tin Cung đại ca, đi nào.” Nó tin rằng y có gây ra việc kinh hãi gì cũng quyết không gây bất lợi mới mình.
Cung Địch Trần đến trước cửa phủ, nói với gia đinh: “Phiền đại huynh vào thông báo với Minh tướng quân có đại đệ tử Cung Địch Trần của Quốc sư Mông Bạc ở Thổ Phồn cầu kiến.”
“Bốp”, dưới chân Tiểu Huyền mềm nhũn, chưa kịp đứng vững lại liền đá vào con sư tử đá trước cửa phủ, tuy vậy ngón chân nó không hề đau đớn, vạn lẫn không ngờ vị Cung đại ca này lại là đại đệ tử của Quốc sư Thổ Phồn Mông Bạc. Dù ngày hôm này gặp vô số sự tình kỳ quái nhưng nghe thấy tin này cũng không đứng vững nổi, suýt nữa thất thố ngã gục đương trường.
Lúc ở Cầm Thiên bảo, nó đã gặp nhị đệ tử Trát Phong Lạt Ma của Mông Bạc nhưng hắn háo sắc tham tài, liền nhận định Quốc sư Thổ Phồn này cũng đến thế mà thôi, chẳng qua là kẻ hư danh, đâu ngờ Cung Địch Trần được mình kính trọng như người trời cũng là môn hạ của ông. Nó tưởng chừng mình nghe nhầm.
Cung Địch Trần và Trát Phong Lạt Ma khác nhau một trời một vực, dù nghĩ nát óc cũng không ngờ họ là sư huynh đệ đồng môn, chuyện tiếu lâm nhất trên đời cũng chỉ đến thế.
Cung Địch Trần trừng mắt nhìn nó cười mủm mỉm, nó từ từ định thần, nghiến răng: Cung đại ca là người không nhiễm bùn đất ô uế, mình không được hoài nghi. Tuy biết ý niệm đó khiên cưỡng nhưng đành cố bảo lưu, tiến lên hai bước nắm tay y, tựa hồ muốn dựa vào lòng tay ấm áp của y cảm ứng lấy một phần sức mạnh khiến mình kiên định.
Gia đinh vừa nghe Cung Địch Trần nói, lại trừng mắt: “Các hạ có hẹn trước với tướng quân?”
Cung Địch Trần lắc đầu mỉm cười: “Không hẳn.”
Viên gia đinh hừ mũi: “Ngươi có biết ở kinh sư có bao nhiêu người muốn gặp tướng quân nhà ta chăng? Nếu ai cũng không mời mà tới thế này, tướng quân chắc mệt chết mất…” Thần thái ung dung của Cung Địch Trần khiến gã càng nói càng nhỏ dần, bản thân cũng không hiểu vì sao đối diện với một tú sỹ văn nhược trói gà không chặt, lại không thể hiện được phong thái người ngày?
Cung Địch Trần vẫn bình thản: “Tại hạ có việc gấp cần gặp Minh tướng quân, phiền huynh đài vào thông báo.”
Viên gia đinh lắc đầu, trợn mắt lên: “Đã nói không được là không được.”
Theo lẽ thường, Cung Địch Trần nên lấy vài lạng bạc ra hối lộ nhưng y lại tỏ vẻ không hiểu “quy củ”, nhẹ nhàng nói tiếp: “Nếu lỡ mất đại sự, huynh đài đảm đương được chăng?”
Viên đinh “phì” một tiếng: “Ngươi có ý đồ hành thích tướng quân, sao ta không đảm đương được?”
Cung Địch Trần thở dài, ngoái lại bảo Tiểu Huyền: “Đi nào.”
Tiểu Huyền không thích vào phủ Tướng quân, quay người định đi, chợt Cung Địch Trần nắm tay kéo đi: “Qua bên này.” Rồi cùng nó đi vào phía trong phủ Tướng quân.
Tiểu Huyền cả kinh, khắp thiên hạ mấy ai dám xông thẳng vào phủ Tướng quân, lẽ nào Cung đại ca chán sống? Nhưng viên gia đinh đứng đờ ra, nhìn cả hai vào phủ mà không phản ứng gì.
Cung Địch Trần không muốn lắm lời với gã nên vận dụng Minh Tâm Tuệ Chiếu, trong sát na đã chế trụ được. Y đương nhiên biết hậu quả xông vào thế nào, lúc này trong phủ trông có vẻ lặng lẽ, thật ra không khác gì long đàm hổ huyệt, hơi lơ đãng là trúng mai phục ngay. Y chậm rãi cất bước, chợt có người tiến tới.
Y mỉm cười, thở phào nhẹ nhõm: “Sau cùng cũng gặp một vị quản sự.”
Tiểu Huyền lại hít một hơi khí lạnh, người đi tới thân hình cao lớn, mặt mũi ngăm đen, trên my tâm có một nốt ruồi lớn trông như muốn rơi xuống, chính thị nhân vật đứng thứ ba trong phủ Tướng quân – ông vua sát thủ hắc đạo Quỷ Thất Kinh.
Tiểu Huyền từng gặp Quỷ Thất Kinh tại Cầm Thiên bảo, biết y nhãn quang tinh chuẩn, tuy nó được Cung Địch Trần dịch dung nhưng không thoát được cặp mắt của sát thủ chi vương, liền vội trốn sau lưng Cung đại ca.
Quỷ Thất Kinh vốn cho rằng có người dám xông vào phủ nên sát khí đằng đằng đi ra, thấy Cung Địch Trần liền chấn động: “Cung… Cung huynh vì sao lại xông vào phủ Tướng quân?”
Cung Địch Trần thong dong đáp: “Tiểu đệ xin chào Quỷ huynh, chẳng qua có việc gấp cầu kiến tướng quân, gia đinh ngoài cửa lại không chịu đi thông báo nên tiểu đệ bất đắc dĩ phải xông vào.”
Quỷ Thất Kinh biến sắc: “Cung huynh xin theo tiểu đệ, viên gia đinh đó tất tiểu đệ sẽ xử lý.” Y dừng mục quang trên mình Tiểu Huyền một chốc rồi rời đi, tựa hồ không hề hoài nghi thân phận. Tiểu Huyền thầm thở phào.
Cung Địch Trần thủng thẳng nói: “Hắn chỉ làm tròn chức phận, không nên phạt.”
Quỷ Thất Kinh lạnh giọng: “Tiểu đệ không phạt hắn vì không cho Cung huynh vào mà vì hắn đã để Cung huynh xông thẳng vào trong.”
Cung Địch Trần cười mủm mỉm: “Tiểu đệ không tiến nổi vào đây thì lấy tư cách gì gặp Minh tướng quân?”
Quỷ Thất Kinh thở dài: “Thôi vậy, tha cho hắn một phen.” Rồi đưa Cung Địch Trần và Tiểu Huyền đến một gian tiểu sảnh đen nhánh: “Cung huynh xin đợi một chút, tiểu đệ đi báo cho tướng quân.” Y dừng ánh mắt trên mình Tiểu Huyền, khuôn mặt âm trầm thoáng hiện nụ cười: “Tiểu Huyền, vẫn khỏe chứ?” Không đợi nó đáp, y quay người đi ngay.
Tiểu Huyền giật nảy mình, lúc đó mới biết Quỷ Thất Kinh đã nhận ra mình, y là một trong mấy người nó sợ nhất, nhớ lại nụ cười ấp áp của y với mình không hiểu định giở trò gì, trống ngực liền đập thình thình.
Cung Địch Trần thở dài quan sát gian tiểu sảnh đen tuyền như mực, vừa giống gỗ vừa giống sắt tạo thành: “Đây chắc là Tướng quân sảnh trong truyền thuyết.” Y nhận ra tâm thần cậu bé vô định, bèn lẩm bẩm: “Nghe nói gian sảnh này là một chỉnh thể, được chế tạo từ thiết mộc thượng đẳng, kiên cố dị thường, đao thương nước lửa đều không tổn hại được. Nó là nơi thiên hạ đệ nhất cao thủ Minh tướng quân luyện công, tiếp khách. Khắp thiên hạ mấy ai được tận mắt chứng kiến gian sảnh này, nếu không biết trân quý chút nhãn duyên này, há chẳng uổng chuyến đến phủ Tướng quân sao?” Câu nói sau chót cố ý dành cho Tiểu Huyền.
Nó làm gì còn lòng dạ nào ngắm nhìn Tướng quân sảnh, ngơ ngẩn quan sát Cung đại ca mới quen chưa đầy nửa ngày. Y không chỉ là đại đệ tử Quốc sư Thổ Phồn Mông Bạc, có trong tay ngọc bài Thái Thân Vương ban tặng mà xông vào phủ Tướng quân cũng không mảy may tổn hại nửa sợi tóc, hơn nữa nãy giờ đều tỏ ra tự tin. Bình sinh nó gặp không ít anh hùng nhưng luận về thần bí, Cung Địch Trần hơn hết, nó không hề ác cảm với y, bất kể tốt hay xấu, chính hay tà, chỉ cần y buông một câu là dốc bầu nhiệt huyết ngay…
Nghĩ vậy, nó đến trước mặt y lên tiếng: “Cung đại ca, đệ muốn xin huynh một việc.”
Cung Địch Trần thong thả đáp: “Huynh đệ với nhau không cần phải xin xỏ.”
Tiểu Huyền chợt thấy sống mũi cay cay, hút sâu mấy hơi mới bình tĩnh được: “Sau này bất kể xảy ra chuyện gì, dù huynh muốn giết đệ cũng được, đệ không oán trách, chỉ mong huynh… không, chỉ hy vọng huynh không đối địch với Lâm thúc thúc.”
Cung Địch Trần rúng động, trầm ngâm hồi lâu mới đáp rành rọt: “Ta đồng ý với đệ.”
Tiểu Huyền liền mỉm cười, ban này nó nảy ra một ý tưởng đáng sợ: dù Cung Địch Trần muốn đối phó ai, nó cũng dốc toàn lực trợ giúp nhưng nếu muốn đấu với Lâm Thanh, nó thật không biết làm sao nên mới đề nghị như thế. Cung Địch Trần đáp ứng, khối đá trong lòng nó được trút bỏ.
Tâm tư Cung Địch Trần lại hơi loạn lên, từ khi y tu thành tầng thứ hai Sơ Ảnh trong Hư Không Đại Pháp đến giờ chưa từng gặp phải tình cảnh này. Đã đáp ứng Tiểu Huyền, tất phải sửa đổi kế hoạch hành động, tuy nhiên trong lòng không khỏi hối hận, mới quen nó gần nửa ngày nhưng nảy sinh tình cảm vi diệu ăn sâu, bắt rễ trong lòng.
Có lẽ tri giao là như thế.
Đang lúc y trầm tư, chợt cảm giác tim nhảy lên, ngẩng lên liền nhận ra Minh tướng quân đứng sừng sững như ngọn núi ngàn năm trước mặt.
“Không hiểu Cung tiên sinh tìm bản tướng quân có việc gì?” Minh tướng quân trầm giọng hỏi, mục quang chăm chăm nhìn Tiểu Huyền, hình như đang ngẫm nghĩ. Cung Địch Trần không đáp, cũng nhìn nó.
Sau cùng nó cũng được gặp mặt thiếu chủ của Tứ Đại Gia Tộc, người được Ngu Đại Sư gọi là địch thủ trong số mệnh của mình, cũng đã hùng bá chiếc ghế đứng đầu thiên hạ suốt hai mươi năm.