Tuyệt Đỉnh

Chương 6: Nhà xác kinh hồn


Bạn đang đọc Tuyệt Đỉnh – Chương 6: Nhà xác kinh hồn

Không ai biết họ từ đâu đến, khi nào lại lặng lẽ rời đi, nhưng những người quen nghe tiếng vó đều biết sau khi nhập kinh, nơi đầu tiên họ đến là: phủ Tướng quân.
Tiết đông đang tới, tuyết đầu mùa phơi phới rơi.
Đang lúc canh ba, kinh thành tĩnh mịch, giữa màn đêm thỉnh thoảng lại vang lên tiếng trẻ con khóc cùng tiếng mõ sang canh, rồi tất cả lại chìm vào yên lặng, chỉ còn tiếng tuyết rơi lộp bộp.
Phủ Tướng quân vẫn sáng rực đèn đuốc, một trung niên ngoài bốn mươi tuổi, khuôn mặt hơi gầy, đứng trên bậc thềm đá, hai mắt sáng quắc nhìn sáu kỵ sỹ áo đen mới tới.
Ở phủ Tướng quân, mười kỵ sỹ áo đen được gọi là Thập Diện Lai Phong, tất cả đều tinh minh mẫn cán, kinh nghiệm chinh chiến phong phú, nhiệm vụ duy nhất của họ là thu thập tin tức tình báo khắp nơi trong võ lâm, rồi vào nửa đêm ngày rằm, mùng một mỗi tháng mang về báo lại cho phủ Tướng quân, mưa gió cũng không ngoại lệ. Người nhận luôn là trung niên này.
Trung niên tướng mạo nho nhã, thần thái thoáng có nét kiêu ngạo như kẻ đọc sách không thích ứng thí công danh này là đại tổng quản Thủy Tri Hàn của phủ Tướng quân, nhân vật khiến người giang hồ vừa kinh vừa sợ, nhắc đến liền biến sắc.
Người đứng đầu nhóm kỵ sỹ áo đen lớn tiếng bẩm báo: “Giáp Nhất khải bẩm Thủy tổng quản, còn thiếu mấy vị Ất Nhị, Canh Thất, Nhâm Cửu chưa đến.”
Thập Diện Lai Phong lấy danh xưng theo quẻ Thiên Can, lần lượt là Giáp Nhất, Ất Nhị, Bính Tam, Đinh Tứ, Mậu Ngũ, Kỷ Lục, Canh Thất, Tân Bát, Nhâm Cửu, Quý Thập. Trong đó phân ra năm phương quản lý: Giáp Ất thuộc đông, Bính Đinh thuộc nam, Mậu Kỷ chính giữa, Canh Tân thuộc tây, Nhâm Quý thuộc bắc.
Thủy Tri Hàn điềm đạm gật đầu, không đáp.
Lại một thớt ngựa phi tới, kỵ sỹ nhảy xuống: “Nhâm Cửu bái kiến Thủy tổng quản.”
Thủy Tri Hàn khẽ thở dài, hơi ngẩng lên, mắt vẫn đăm đắm vào màn đêm vô biên. Bảy kỵ sỹ nhìn nhau thấp thỏm, trước đây dù chưa đến đủ, Thủy Tri Hàn cũng hỏi han ngay, tình cảnh hôm nay có vẻ y đang đợi ai đó.
Một lúc sau lại một thớt ngựa phi tới: “Đinh Tứ bái kiến Thủy tổng quản.”
Khuôn mặt lạnh lùng của Thủy Tri Hàn sau cùng cũng hiện lên nét vui vẻ: “Bắt đầu đi, Bính Tam nói trước…” Ai nấy tỉnh ngộ, hóa ra Thủy Tri Hàn đang đợi tin tình báo từ phía nam.
Hai kỵ sỹ còn lại tới nơi, thập kỵ lần lượt bẩm báo xong, đêm cũng sang canh tư. Thủy Tri Hàn vỗ nhẹ tay, gọi một thủ hạ: “Đi thông tri với tướng quân, Tri Hàn cầu kiến.”
Viên thủ hạ ngạc nhiên, theo lẽ thường, Minh tướng quân đã đi nghỉ từ lâu, không hiểu đại tổng quản có việc gì khẩn cấp mà còn cầu kiến ban đêm. Nhưng ai dám lắm lời trước mặt người nắm quyền lớn nhất phủ Tướng quân, gã vội vàng đi thông báo ngay.
Thủy Tri Hàn tỏ vẻ suy tư, lặng lẽ cất bước đến Hoa Đăng các, nơi Minh tướng quân đang nghỉ.
oOo
Minh tướng quân là trọng thần trong triều, nhưng Hoa Đăng các không hề xa hoa lộng lẫy, rực rỡ huy hoàng như người ta tưởng tượng, ngược lại hết sức đơn giản. Hai bên tường treo tranh phong cảnh sơn thủy tự vẽ, bức trướng lụa màu xanh dịu không che hết chiếc giường cực lớn, giữa phòng kê bàn bằng đá Đại Lý bóng loáng. Ánh trăng rọi qua song cửa khép hờ, giao hòa với ánh sáng ấm áp từ hai đĩa trường minh đăng, dệt thành một tấm lưới ánh sáng ôn nhu khiến căn phòng đặc biệt yên tĩnh.
Minh tướng quân chưa ngủ, tay cầm bút lông sói viết chữ lên tấm giấy, sớm biết Thủy Tri Hàn bước vào nên chỉ mỉm cười, hiển nhiên đang đợi y đến.
“Ám Khí Vương tới rồi.” Thủy Tri Hàn hơi cúi người, nói luôn nội dung. “Ba ngày trước, Lâm Thanh toàn thân nhuộm máu, thụ trọng thương vào kinh thành theo Nam môn, tới ngay Bạch Lộ viện.”
Bàn tay cầm bút của Minh tướng quân vẫn ổn định, không hề run rẩy, đầu mày hơi nhướng lên, cười mỉm: “Nếu Tri Hàn đêm khuya đến tìm ta chỉ để thông báo tin tức này hình như có phần nghiêm trọng hóa vấn đề.”
Xưa nay Minh tướng quân vẫn xưng hô Thủy Tri Hàn là tổng quản, chỉ khi không có mặt người ngoài mới gọi thẳng tên. Bạch Lộ viện mà đại tổng quản nhắc tới chính thị nơi ở của một trong ba đại chưởng môn đất kinh sư, Kiêm Gia môn chủ Lạc Thanh U.
Thủy Tri Hàn thản nhiên: “Tin tức này đã truyền khắp kinh sư, tướng quân tất đã biết, Quản Bình kia dùng xảo kế, cùng Cát công công, cùng đệ đệ của Cố Thanh Phong là Cố Tư Không liên thủ ám toán khiến Ám Khí Vương trọng thương bỏ chạy. Nhưng tướng quân nhất định không biết mười ngày trước, Ám Khí Vương từng giao thủ với Lịch lão quỷ tại Quân Sơn.”
Minh tướng quân rúng động biến sắc, ngọn bút hơi dừng lại, mắt lộ thần quang, trầm tư hồi lâu mới thở dài: “Không được tận mắt chứng kiến trận chiến giữa Lâm Thanh và Lịch lão quỷ quả thật nuối tiếc trọn đời.”
Ám Khí Vương Lâm Thanh và Quỷ Vương Lịch Khinh Sinh đều là cao thủ tuyệt đỉnh hiếm có trên giang hồ, trận giao thủ giữa hai người đương nhiên kinh thiên động địa, nếu được chứng kiến tận mắt ắt thu lợi ích không nhỏ.
Thủy Tri Hàn nói tiếp: “Bính Tam và Đinh Tứ tuy không trực tiếp chứng kiến nhưng qua hỏi han một tiều phu đang đốn củi trong núi lúc đó, biết được đôi chút tình hình. Theo lời tiều phu, Lịch lão quỷ đợi sẵn trên sạn đạo chỉ đủ lối đi cho hai người, tĩnh tọa hai thời thần, thấy Lâm Thanh dẫn một đứa bé tới, hai người đối diện cách nhau hơn mười bước…”
Minh tướng quân đột nhiên cắt lời: “Lịch lão quỷ tất bại.”
Thủy Tri Hàn lấy làm kỳ quái: “Lịch Khinh Sinh thân là một trong sáu đại tôn sư, tam đại kỳ công Thu Thần Khốc, Chiếu Hồn Đại Pháp cùng Phong Lôi Thiên Động chấn động giang hồ nhiều năm, ngay cả Tri Hàn cũng không nắm chắc phần thắng, hà huống lão đã ngưng thần tập khí trước, lại mượn ưu thế sẵn có của sạn đạo, vì sao tướng quân lại đoán rằng Lâm Thanh thắng?”
Minh tướng quân thản nhiên đáp: “Lịch lão quỷ sao lại vô duyên vô cớ tìm đến Ám Khí Vương? Tất phải do thế lực nào đó mời tới. Lịch lão quỷ tự thị cực cao, sớm đã bất phục Ám Khí Vương nổi danh giang hồ mấy năm nay, tiếc rằng lão quá nặng về ăn thua, mang tâm thái đó dù chiếm thiên thời địa lợi cũng không nắm chắc phần tất thắng. Nếu thấy Lâm Thanh mà lập tức động thủ còn có hy vọng thắng lợi, chần chừ sẽ khiến lòng tin dao động, làm sao chống nổi uy lực của Thâu Thiên cung? Ám Khí Vương đâu phải loại hư danh.”
Ông ta hít sâu một hơi, nhúng bút vào mực, vạch một nét dài trên tờ giấy.
Thủy Tri Hàn thán phục, Minh tướng quân không tận mắt chứng kiến tình hình nhưng phán đoán không khác gì người trong cuộc. “Gặp nhau trong ngõ hẹp, kẻ mạnh tất thắng”, Lịch Khinh Sinh coi trọng công danh, lại vô oán vô cừu với Lâm Thanh, buộc lão phải cân nhắc những hậu quả một khi thất bại, không có lòng quyết thắng đến cùng, nên bị Lâm Thanh đánh bại cũng thuận theo lẽ thường. Y chú ý thấy Minh tướng quân không hề xưng hô “Ám Khí Vương” mà gọi thẳng tên Lâm Thanh, chứng tỏ cực kỳ tôn trọng.
Minh tướng quân thần sắc ngưng trọng, tựa hồ dốc hết tâm thần vào ngọn bút. Thủy Tri Hàn không dám quấy nhiễu, lẳng lặng quan sát ông ta đưa bút vạch liền ba nét ngang.
Chợt Minh tướng quân chậm rãi hỏi: “Không biết Lâm Thanh dùng cách gì giành được phần thắng?”
Thủy Tri Hàn đáp: “Đúng như tướng quân nói, hai người giằng co một tuần hương, Ám Khí Vương tiến tới, Lịch lão quỷ thoái lui, đến hết sạn đạo liền kết thúc trận đấu. Tiều phu không nhận ra nhưng Tri Hàn cho rằng Ám Khí Vương đã dựa vào tầm công kích xa của Thâu Thiên cung ép Lịch lão quỷ phải sa vào thế bị động.”
“Đối diện với ba đại thần công của Lịch lão quỷ mà Lâm Thanh không cần đánh cũng thắng, không uổng ta đợi sáu năm nay.” Minh tướng quân hình như hơi ngẩn người rồi tiếp tục đưa nét bút, trên mặt giấy xuất hiện một chữ “vương”, tuy chỉ là mấy nét đơn giản nhưng bút lực hiện rõ trên giấy như ngân câu thiết hoạch.
Ông ta nhìn tờ giấy, khuôn mặt không giận mà oai lộ ra nụ cười hân hoan, không hiểu cười với Lâm Thanh hay vì hài lòng trước thư pháp của mình, buông từng lời: “Tại hạ viết chữ vương này biểu ý mừng Lâm huynh thần công đại thành.”
Đoạn điểm vào góc tờ giấy, ngầm vận huyền công, tờ giấy như bị hơ trên lửa, dần co lại thành một khối. Ông ta nắm vào lòng tay, tờ giấy nát vụn.
Thủy Tri Hàn lạnh buốt cõi lòng, y làm tổng quản phủ Tướng quân hơn mười năm, tuy được tín nhiệm cực độ nhưng vẫn chưa từng hiểu được vị đại tướng quân võ công cơ trí quán tuyệt thiên hạ này.
Sáu năm trước, Minh tướng quân dẫn quân ra Tái ngoại dẹp loạn, y ở lại trấn giữ kinh sư. Minh tướng quân đại thắng ban sư hồi triều, chỉ bắt trang chủ Dung Tiếu Phong của Tiếu Vọng sơn trang, lại rao truyền thiên hạ về trận chiến với Ám Khí Vương. Y tuy có nghe đến trận chiến giữa Minh tướng quân và Lâm Thanh ở U Minh cốc nhưng không nắm được rõ ràng, Minh tướng quân bưng kín miệng bình, tuyệt không nhắc đến việc này.
Sau này y được Cơ Quan Vương Bạch Thạch cho biết, lúc đó Minh tướng quân chấp nhận rút đại quân bao vây đi, một mình đối diện với năm cao thủ Lâm Thanh, Hứa Mạc Dương, Vật Do Tâm, Dung Tiếu Phong, Dương Sương Nhi. Y vốn cho rằng Minh tướng quân dựa vào Lưu Chuyển Thần Công chấn nhiếp chúng nhân, bắt sống Dung Tiếu Phong tại trận, bọn Ám Khí Vương may mắn mới trốn thoát, nhưng bây giờ hình như còn có ẩn tình, ít nhất thái độ của Minh tướng quân với Lâm Thanh lúc bạn lúc địch, khó lòng đoán được.
Hồi lâu, Minh tướng quân trầm ngâm: “Ám Khí Vương Lâm Thanh là đối thủ bình sinh ta coi trọng nhất nên sáu năm nay mới không để Tri Hàn báo cáo tin tức của y, tránh ảnh hưởng tới tâm tình. Nhưng hiện tại y đã đến kinh sư, Tri Hàn cứ cho ta biết hành tung gần đây của y.”
Thủy Tri Hàn nén tâm tư đang nổi sóng xuống: “Một tháng trước, Ám Khí Vương hiện thân ở Cầm Thiên bảo, nghe nói cùng Trùng Đại Sư đến Diễm Thiên giáo và Mỵ Vân giáo ở Điền Nam. Sau đó có người gặp y ở phủ Bình Hương tại Tương Tây…”
Y nói đến mấy chữ “phủ Bình Hương tại Tương Tây”, nhận ra Minh tướng quân tỏ vẻ hơi kinh ngạc nên thận trọng nói tiếp: “Nghe nói Tứ Đại Gia Tộc thần bí nhất trong võ lâm ở phụ cận Minh Bội phong, không hiểu Ám Khí Vương đến Bình Hương có liên quan gì đến việc đó không?”
Minh tướng quân trầm giọng: “Lẽ nào Thủy tổng quản đã quên việc ta dặn dò một năm trước?”
Thủy Tri Hàn nghe ông ta đột nhiên xưng hô mình là “tổng quản”, đương nhiên hiểu hàm ý cảnh cáo, bèn xuôi tay kính cẩn đáp: “Tri Hàn sao có thể quên được, chẳng qua nhắc đến hành tung Ám Khí Vương, thuận tiện đề cập luôn.” Minh tướng quân hừ lạnh, không nói gì.
Hóa ra một năm trước, Thủy Tri Hàn đến Thiên Châu tiểu thành giết đệ tử Thư Tầm Ngọc của Trùng Đại Sư, từng giao thủ với truyền nhân Phiên Tiên lâu là Hoa Tiên Lệ, Minh tướng quân biết được đột nhiên đại nộ, nghiêm cấm y từ rày không được xung đột với Tứ Đại Gia Tộc, rồi hạ lệnh toàn phủ không được đề cập đến nữa. Minh tướng quân thân là thiếu chủ của Tứ Đại Gia Tộc, mang trọng nhiệm lấy cả thiên hạ – vốn là tử đội tru di cửu tộc (23) nên không tiết lộ mảy may với ai, ngay cả nhân vật số hai trong phủ Tướng quân như Thủy Tri Hàn cũng không biết gì.
Thủy Tri Hàn tuy không hiểu uyên nguyên giữa Minh tướng quân và Tứ Đại Gia Tộc nhưng thân là tổng quản phủ Tướng quân, đương nhiên cực kỳ tinh minh, nhận ra uẩn khúc nên mới dùng ngôn ngữ lập lờ thăm dò, nhận ra đại tướng quân thoáng nổi giận, bèn mỉm cười chuyển chủ đề: “Năm sáu người bọn Ám Khí Vương và Trùng Đại Sư cùng đến Bình Hương, sau khí chia tay, Lâm Thanh ngược bắc, bên mình có thêm một cậu bé mặc hiếu phục, chừng mười hai, mười ba tuổi. Theo Tri Hàn phán đoán, rất có thể là đứa bé cùng y và Trùng Đại Sư đạo náo Cầm Thiên bảo mà Quỷ Thất Kinh nhắc tới.”
Minh tướng quân hơi sửng sốt: “Quỷ Thất Kinh nói đứa bé đó là con nuôi của Đông Quy kiếm khách, Hứa Mạc Dương tuy luôn đối địch với ta nhưng y được Xảo Chuyết sư thúc truyền võ công, dù gì cũng là sư đệ suy nhất trong môn phái của ta, lẽ nào đã chết rồi?”
_____
(23) tội chém đầu chín họ
Thủy Tri Hàn gật đầu: “Cách đây không lâu, Tri Hàn được tin mật báo, Mỵ Vân giáo ở Điền Nam nội loạn, Hứa Mạc Dương nhúng tay vào nhưng bị kẻ phản lại Cầm Thiên bảo là Ninh Hồi Phong thừa cơ ám toán, trọng thương rồi…” Điền Nam cách kinh sư rất xa, dù mạng lưới tình báo của phủ Tướng quân tuyệt diệu cũng phải mất hai tháng mới thu được một ít tin tức linh tinh.
“Phải chăng cái chết của Hứa Mạc Dương kích phát đấu chí của Ám Khí Vương nên y mới nhập kinh?” Minh tướng quân lẩm bẩm, chợt ánh mắt dừng lại trên mặt Thủy Tri Hàn: “Tổng quản có ấn tượng gì về Ninh Hồi Phong?”
Thủy Tri Hàn mỉm cười ung dung: “Giang hồ đồn rằng Ninh Hồi Phong Bệnh tòng khẩu nhập, họa tòng thủ xuất(24), là nhân vật khá khó chơi nhưng Tri Hàn chưa từng gặp hắn nên không có ấn tượng gì.” Thần thái y lúc trả lời cực kỳ thoải mái, tựa hồ đang nói đến một người không hề liên quan. Minh tướng quân vốn cho rằng y biết được đôi chút ân oán giữa Ngự Linh đường và Tứ Đại Gia Tộc nhưng với nhãn lực của ông ta cũng không nhận ra nét mặt y có sơ hở gì.
Y tiếp lời: “Ám Khí Vương ở lại phủ Lạc Dương một ngày, thua hết số bạc mang theo vào tay một nhân vật giang hồ địa phương là Lạc Dương Đổ Vương.”
Minh tướng quân kinh ngạc: “Sao lại như thế?”
Thủy Tri Hàn giải thích tình hình, ông ta vỗ tay cười vang: “Hay cho Lâm Thanh, đến tận hôm nay ta mới tin rằng mình không tìm lầm đối thủ.” Lời lẽ thể hiện rõ ý kính trọng, so với Lâm Thanh không dễ dàng chịu thua trước kia, Ám Khí Vương không bận tâm đến tiểu tiết chịu nhục ngày nay càng khiến ông ta coi trọng.
Thủy Tri Hàn trầm giọng: “Bất quá lần này, nếu Lăng Tiêu Công Tử Hà Kỳ Cuồng không nhận được tin tức mà tiếp ứng ở ngoài kinh thành, dù Lâm Thanh có Thâu Thiên cung cũng khó lòng thoát được truy sát của phe Thái tử. Trải qua thất bại này, chỉ e đối thủ của tướng quân nhụt chí.”
“Không.” Minh tướng quân lắc đầu: “Điểm lợi hại của Lâm Thanh không phải do võ công cơ xảo linh động, biến ảo vô cùng mà tâm thái trầm ổn lúc đố địch. Y thành danh từ lúc trẻ, không khỏi đôi chút kiêu cuồng, chỉ cần bại mà không gục ngã, tâm chí sẽ được tôi luyện, càng trở nên lợi hại.” Ông ta thở dài, lẩm bẩm: “Còn ta mong một lần thất bại mà khó như lên trời.”
Thủy Tri Hàn cũng cảm hoài, câu này do Minh tướng quân nói ra không hề ngông cuồng tý nào, ngược lại khiến người nghe có cảm giác tịch mịch một mình đứng trên cả thiên hạ.
Minh tướng quân hơi nhướng mày: “Lần trước ở cầu Phi Quỳnh, tổng quản từng bảo ta rằng Truy Bộ Vương theo sát Lâm Thanh, hà cớ sau cùng lại không thấy bóng dáng Lương Thần, ngược lại Quản Bình và Cát công công ra tay?” Câu hỏi này bắt đúng điểm quan trọng, ở kinh thành ba đại phái hệ phủ Tướng quân, Thái Thân Vương và Thái tử luôn minh tranh ám đấu, nếu Truy Bộ Vương tham dự trận tập kích Lâm Thanh, không phải có nghĩa là Thái Thân Vương và Thái tử ngầm liên thủ đối phó phủ Tướng quân sao?
Thủy Tri Hàn mỉm cười tự tin: “Chỉ cần đoán được ai mời Lịch Khinh Sinh xuất sơn, nguyên nhân Lịch lão quỷ chặn đường Lâm Thanh là biết đáp án.” Vừa nãy Minh tướng quân cho rằng người mời Lịch Khinh Sinh là “thế lực nào đó” nhưng ai cũng biết trừ Thái Thân Vương và Thái tử, còn ai có thể lay động một trong Tà Phái Lục Đại Tôn Sư?
Minh tướng quân trầm ngâm: “Lịch lão quỷ một mình khiêu chiến Lâm Thanh, quanh đó lại không có mai phục, chắc có ý thử võ công, đương nhiên không phải Thái Thân Vương mời.”
Thủy Tri Hàn gật đầu: “Đúng như vậy, cả thiên hạ đều biết trận chiến giữa tướng quân và Ám Khí Vương, Thái Thân Vương lại hiểu nếu Lâm Thanh khiêu chiến thất bại càng khiến danh vọng của tướng quân lên cao hơn nên chỉ để Truy Bộ Vương quan sát, lại sai Lịch Khinh Sinh thám thính xem y có thực lực đấu với tướng quân hay không. Nếu Thái tử mời Lịch Khinh Sinh ra tay, chỉ e sẽ không dễ dàng bỏ qua cho Ám Khí Vương.”
Cục thế tại kinh sư phức tạp, ba thế lực khắc chế lẫn nhau mới miễn cưỡng giữ được cân bằng, khẽ hành động cũng kéo theo tình hình biến động. Trận chiến giữa Minh tướng quân và Lâm Thanh bất kể thắng bại cũng dẫn đến những biến hóa không ngờ, Thái Thân Vương hy vọng lúc Lâm Thanh nhập kinh khiêu chiến sẽ nhân cơ hội gây loạn đoạt quyền; Thái tử lại ẩn nhẫn, chờ lúc Thánh thượng trăm tuổi sẽ đăng cơ (25) nên mới tìm cơ hội trừ Ám Khí Vương để tuyệt hậu hoạn.
Minh tướng quân vuốt râu cười lạnh: “Thái Thân Vương chỉ sợ thiên hạ không loạn, hiện tại lão chỉ dưới thiên tử mà trên vạn người, quyền vị cao trọng, thật ra còn muốn làm gì?”

Thủy Tri Hàn lặng thinh, thầm nghĩ Thái Thân Vương là con duy nhất do chính cung của tiên đế sinh ra, ôm lòng bất mãn với việc lập Thái tử, cộng thêm ông ta có dã tâm nên ngầm lập kế mưu phản. Có điều y không dám nói ra ý nghĩ này.
Y thận trọng chuyển sang chủ đề khác: “Lương Thần hiển nhiên không ngờ Ám Khí Vương dễ dàng đánh bại Lịch Khinh Sinh như vậy nên vội báo tin cho Thái Thân Vương, không kịp hành động, không ngờ bọ ngựa bắt ve, chim sẻ rình rập ngay sau lưng, Quản Bình nhân cơ hội bày kế tại Bình Sơn tiểu trấn gần Quân Sơn, trước tiên bắt cậu bé đi rồi cố ý để lại manh mối dọc đường, giả ý dẫn Ám Khí Vương nhập kinh, đợi lúc y mệt mỏi mới hạ sát thủ. Tiếc rằng Lâm Thanh dù trọng thương vẫn còn năng lực phá vây, cộng thêm Lăng Tiêu Công Tử Hà Kỳ Cuồng đột nhiên hiện thân, bọn Quản Bình không muốn thả hổ về núi cũng đành bó tay.”
Minh tướng quân lớn tiếng: “Vì sao Lăng Tiêu Công Tử lại tính toán chuẩn xác thời gian đến tiếp ứng Lâm Thanh, lẽ nào chỉ vô tình đi qua, như vậy lại quá xảo hợp?” Nên biết Lâm Thanh một mạch đuổi theo Quản Bình từ Quân Sơn, song phương đều đi suốt ngày đêm không nghỉ, ngay cả phe Thái tử cũng tài nào đoán được thời gian chính xác y tới kinh sư, thành ra việc Hà Kỳ Cuồng xuất hiện quá ư xảo diệu.
Thủy Tri Hàn hơi ngẩn người: “Lăng Tiêu Công Tử không phải vô ý qua đường, y đã đợi ở ngoài Nam môn ba ngày liền. Tướng quân nhắc nhở rất đúng, Tri Hàn vốn không chú ý việc này, xem ra kế hoạch đối phó Lâm Thanh của Quản Bình tuy cơ mật nhưng Hà Kỳ Cuồng vẫn biết trước, tất trong phủ Thái tử có người báo cho y.”
Minh tướng quân giơ tay cười: “Các lộ nhân mã đều nghe tin Lâm Thanh đến đây mà hành động, kinh sư lại sắp náo nhiệt một phen.” Ông ta chợt phân phó Thủy Tri Hàn: “Sáu năm trước ta bắt Dung Tiếu Phong, mấy năm nay y vẫn sống an nhàn trong phủ Tướng quân, ngày mai tổng quản phái người đưa y đến Bạch Lộ viện hội diện với Lâm Thanh, cho huynh đệ họ trọn tình.”
Thủy Tri Hàn tỏ vẻ nghi hoặc: “Ý tướng quân là nhân cơ hội thăm dò thương thế của Ám Khí Vương?”
Minh tướng quân lắc đầu: “Tổng quản không cần đa sự, thuận tiện đưa tặng thêm một ít thuốc chữa thương thượng đẳng, thay ta hỏi thăm Lâm Thanh. Không cần phải giấu giếm, tốt nhất cứ để cả kinh sư đều biết.”
Thủy Tri Hàn rúng động, hành động này của Minh tướng quân nhằm cảnh cáo Thái tử: nếu còn động đến Lâm Thanh sẽ trở thành địch nhân của phủ Tướng quân.
Y ngẫm nghĩ một lúc, cẩn thận lên tiếng: “Còn Lạc Thanh U và Hà Kỳ Cuồng, bọn Quản Bình muốn gây bất lợi cho Ám Khí Vương cũng không dám manh động, xin tướng quân cân nhắc.”
Xưa nay y luôn tuân lệnh Minh Tôn Việt, hiếm khi tỏ ý kháng nghị, nhưng việc này can hệ trọng đại, bất cẩn đôi chút sẽ dẫn đến xung đột giữa phe Thái tử và phủ Tướng quân nên y mới lên tiếng nhắc nhở.
Minh tướng quân cười thoải mái: “Quản Bình mưu lược kinh người, đương nhiên biết cân nhắc nặng nhẹ. Hắn trước giờ hành sự âm thầm, không thích rình rang, không giết nổi Lâm Thanh tất nhiên sẽ nghĩ phương pháp hóa giải ân oán, chúng ta nên lợi dụng tâm lý này của hắn. Hắc hắc, Lâm Thanh nhập kinh chính hợp với ý nguyện vài người, nhưng tính toán của họ có thành hay không còn phải xem ta có đồng ý không đã.”
Thủy Tri Hàn nhận ra bá khí ẩn hiện trong lời nói của Minh tướng quân, lập tức tỉnh ngộ. Minh tướng quân biết trước việc Ám Khí Vương nhập kinh tạo thành ảnh hưởng gì với cục thế nên đã có chuẩn bị. Thái Thân Vương định lợi dụng thời cơ Lâm Thanh khiêu chiến ông ta mà trù mưu tính kế, phủ Tướng quân và phe Thái tử đương nhiên cũng có thể nhân việc này mà hành động, vở kịch giờ mới khai màn, còn chưa biết hươu (26) chết về tay ai.
Y liên tục thay đổi ý nghĩ: “Trưa nay, sứ giả Thổ Phồn Cung Địch Trần đưa thiếp mời tới, mười ngày sau sẽ bày yến thết khách tại Thanh Thu viện cạnh hồ Sơ Ngọc. Tướng quân, Tri Hàn và Quỷ Thất Kinh đều được mời.”
Minh tướng quân ngây người: “Y chọn nơi đó, không biết còn mời những ai?”
Thanh Thu viện là nơi ở của một trong ba công tử đất kinh sư: Loạn Vân Công Tử Quách Mộ Hàn. Họ Quách tuy được liệt danh vào Tam Đại Công Tử nhưng xưa nay giữ mình, hành sự kín đáo, chỉ đóng cửa đọc sách, rất hiếm khi giao du, tranh chấp với người khác, được coi là nhân vật trung lập nhất trong bốn phái ở kinh sư. Lần này Cung Địch Trần bày yến ở Thanh Thu viện ắt muốn dựa vào danh tiếng Quách Mộ Hàn khiến khách mời không tiện cự tuyệt.
Thủy Tri Hàn đáp: “Nghe nói những nhân vật có máu mặt ở kinh sư đều được mời, không hiểu Cung Địch Trần định làm gì? Người này là đại đệ tử đích truyền của Quốc sư Thổ Phồn Mông Bạc, rất khó dò hư thực, bề ngoài văn nhã, trong lòng lại ẩn chứa đại kế. Mấy hôm nay y giao du với không ít quyền quý ở kinh sư, Tri Hàn cho rằng tất có mưu đồ.” Y nhấn mạnh ngữ khí, chậm rãi tiếp lời: “Trong ngày tướng quân gặp thích khách ở cầu Phi Quỳnh, Cung Địch Trần được Thái Thân Vương mời lên Ngưng Tú phong, cùng đi có Cao Đức Ngôn trong Ngũ Đại Danh Bộ của bộ Hình. Việc này hình như có vấn đề, không hiểu thích khách có phải do Cung…”
Minh tướng quân lẩm nhẩm tên Cung Địch Trần, sắc mặt âm trầm, thuận miệng đáp: “Hôm qua tổng quản Hình bộ Hồng Tu La Quan Bái đến gặp ta, cho biết thích khách cực kỳ cứng đầu, tuy trọng thương, hơi thở mong manh nhưng quyết không chịu nói ra chủ sử sau lưng, y bất lực nên định mời Lao Ngục Vương Hắc Sơn đến dùng cực hình, do vậy đến xin ý kiến ta.”
Thủy Tri Hàn cười lạnh: “Lao Ngục Vương một mực nghe lệnh Thái Thân Vương, lại thiện nghệ dùng dược vật, nếu thích khách sa vào tay hắn, chỉ e không đầy mấy ngày sẽ bị tra tấn đến phát điên. Sao tướng quân không trực tiếp đòi bộ Hình đưa người về phủ Tướng quân thẩm vấn?”
_____
(24) bệnh từ miệng vào, họa bắt nguồn từ tay
(25) đăng cơ: lên ngôi
(26) chỉ việc giành thiên hạ, tranh ngôi vua
Minh tướng quân cười ha hả: “Hồng Tu La đã khách khí đến hỏi, tự nhiên muốn thăm dò phản ứng của ta, nếu ta đòi người chắc y cũng có đối sách, ngược lại ta thống khoái đáp ứng mới khiến y bất ngờ.”
Thủy Tri Hàn thầm bội phục, phong cách hành sự của Minh tướng quân cũng hư thật khó dò giống như võ công cùng binh pháp của ông ta. Y cung kính hỏi: “Mười ngày sau tướng quân có tới Thanh Thu viện chăng?”
Minh tướng quân cười vang: “Các lộ nhân mã ở kinh sư đều tới, thịnh hội thế này lâu rồi không có, bản tướng quân làm sao để lỡ được. Tri Hàn và Quỷ Thất Kinh đi cùng ta.” Ông ta chuyển chủ đề, “bất quá trước đó ta phải đi gặp một người.”
Thủy Tri Hàn định hỏi tiếp, Minh tướng quân phất tay: “Hiện tại Tri Hàn bất tất hỏi nhiều, cứ an bài mọi sự cho tốt, nhất định gặp mặt trong tình huống cực kỳ bí mật, quyết không để lộ phong thanh. Đợi lúc thời cơ đến, ta sẽ cho Tri Hàn biết người cần gặp là ai.”
Thủy Tri Hàn nghe Minh tướng quân buông lời trịnh trọng đâm ra hiếu kỳ, theo khẩu khí hình như người ông ta muốn gặp không phải là Ám Khí Vương, y không biết là ai, bèn xuôi tay cúi đầu, cung kính vâng dạ.
Minh tướng quân lại nhẹ giọng: “Làm phiền Tri Hàn cả đêm, nếu không có việc gì thì về nghỉ đi.”
Thủy Tri Hàn cúi người hành lễ nhưng không vội vàng cất bước, định lên tiếng lại thôi.
Minh tướng quân hướng ánh mắt sang hỏi y: “Tri Hàn còn việc gì chăng? Cứ nói thẳng đừng ngại.”
Y do dự đáp: “Lúc Ám Khí Vương bị bọn Quản Bình vây công từng nói mấy câu liên quan đến tướng quân nhưng Tri Hàn không thể phán đoán thật giả thế nào, thành ra không biết có nên bẩm báo với tướng quân.”
Minh tướng quân lấy làm hứng thú: “Y nói gì?”
Thủy Tri Hàn thần tình cổ quái, chậm rãi đáp: “Ám Khí Vương nói rằng, cậu bé bị bọn Quản Bình bắt đi là nhân tài do tiền bối Hạo Không môn toàn lực tài bồi, tương khắc với số mệnh của tướng quân nên mong Quản Bình đừng thương tổn.”
Minh tướng quân ngây người đoạn cười ha hả: “Lẽ nào Tri Hàn lại đi tin vào những chuyện nhảm nhí đó?”
Thủy Tri Hàn nghiêm mặt: “Lúc đó Ám Khí Vương trúng thuốc nổ, vai thụ trọng thương, đối diện với hơn mười cao thủ của phủ Thái tử, kể cả Quản Bình, Cát công công, Cố Tư Không vây công, nắm chắc cái chết nên lời y nói khó dò hư thực, tuy có ý bảo vệ cậu bé nhưng Lâm Thanh xưa nay không nói ngoa bao giờ. Câu này chỉ hơn mười người tại hiện trường nghe được, vừa hay có nội ứng của phủ Tướng quân trong đó, bất chấp nguy cơ bại lộ thân phận quay về bẩm báo Tri Hàn…”
Minh tướng quân hỏi: “Cậu bé đó hiện ở đâu?” Vẻ mặt ông ta thản nhiên, trong mắt ẩn ước ánh lên những tia sáng lấp lánh.
Thủy Tri Hàn đáp: “Quản Bình xưa nay hành sự cẩn thận, trong lúc dắt mũi Lâm Thanh truy đuổi không hề mang theo cậu bé, theo Tri Hàn phán đoán đã giao cậu bé cho người khác. Nhưng mấy hôm nay, Tri Hàn lệnh cho thủ hạ ngầm lưu ý động tĩnh của Quản Bình và phủ Thái tử mà không thấy họ phái người đi đón. E rằng Quản Bình thật sự tin lời của Ám Khí Vương.”
Lời Thủy Tri Hàn có vẻ mâu thuẫn, kỳ thật lại bao hàm suy đoán cực kỳ vi diệu. Với cá tính không chịu khuất phục của Ám Khí Vương, một khi dưỡng thương xong liệu có chịu bỏ qua cho phủ Thái tử chăng? Trong tình huống này, Quản Bình buộc phải giữ chặt con tin nhưng hắn biết trong phủ có tai mắt của các phe phái, lời Lâm Thanh đương nhiên được truyền đến tai Minh tướng quân và Thái Thân Vương, chỉ cần hơi có động tĩnh là đối phương hạ thủ trước, nên hắn án binh bất động, khiến người khác không lần ra nơi giữ con tin. Nếu không tin lời Lâm Thanh, hắn hà tất cẩn thận như vậy.
Thủy Tri Hàn tiếp lời: “Trong tình hình nguy ngập mà Ám Khí Vương vẫn nói ra những lời đó, có lẽ chỉ muốn cứu mạng cậu bé nhưng y không ngờ mấy lời ứng phó đó lại biến cậu bé thành mục tiêu tranh đoạt của thế lực các phương, đâm ra hại cậu bé, quả thật không ai dự liệu được…”
Minh tướng quân mỉm cười: “Thú vị, thú vị lắm. Chưa gặp mặt, Lâm Thanh đã tặng ta một câu đố phiền phức.” Ông ta nhấn mạnh: “Truyền hiệu lệnh của ta, phủ Tướng quân toàn lực bảo vệ cậu bé, mong nó bình an quay về với Lâm Thanh.”
Thủy Tri Hàn sửng sốt, không ngờ ông ta lại hạ mệnh lệnh như vậy. Minh tướng quân lẩm bẩm, như thể tự giải thích: “Đối thủ như Lâm Thanh mười phần hiểu rõ phong cách hành sự của ta, biết ta quyết không để cậu bé sa vào tay ai khác, những lời đó tuy không hẳn nhằm truyền tin cho ta nhưng đương nhiên là diệu kế cứu cậu bé. Ha ha, Lâm Thanh hao tâm tổn trí vì cậu bé như vậy, ngay cả ta cũng đâm ra hiếu kỳ, muốn xem nó thật ra là thần thánh phương nào.”
Thủy Tri Hàn loáng thoáng hiểu ra, nhưng vẫn hỏi với vẻ nghi hoặc: “Dù vậy, không lẽ tướng quân bằng lòng thay Ám Khí Vương cứu cậu bé?” Y thầm nghĩ Minh tướng quân có tin rằng cậu bé là khắc tinh số mạng của mình cũng không đời nào hiếu kỳ như vậy với Ám Khí Vương, đương nhiên còn nguyên nhân khác không suy đoán được.
Minh tướng quân nghiêm sắc mặt: “Trước lần giao thủ thứ hai giữa ta và Lâm Thanh, ta quyết không để y phân tâm vì bất kỳ việc gì.” Ông ta khẽ thở dài: “Nếu y ở vào địa vị của ta cũng sẽ làm thế.”
oOo
Lúc Thủy Tri Hàn ra khỏi Hoa Đăng các, vô tình thấy tuyết phủ một tấm màn trắng tinh khiết lên khắp kinh thành. Hoa tuyết như ngọc phơi phới trên không, được ánh trăng chiếu vào lấp lánh bảy sắc nhìn không chán mắt.
Thập Diện Lai Phong vẫn đứng ngay ngắn trước cửa phủ Tướng quân, trước khi nhận được mệnh lệnh của Minh tướng quân hoặc Thủy Tri Hàn, họ đều không đời nào tự tiện rời đi, trên đầu vai mỗi người đều đọng một lớp tuyết dày nửa tấc.
Thủy Tri Hàn dặn thêm mấy câu rồi phất tay lệnh cho mười người lui đi, y trầm tư ngẩng nhìn vầng trăng mờ mờ trong tiết trời tuyết rơi dày mịt. Gió lạnh lùa qua, thinh không và mặt đất liền nhau thành một dải trắng tít tắp, y bất giác không hiểu bụi tuyết tơi tả từ trên trời trút xuống hay từ dưới đất bay lên.
Y đứng giữa mưa tuyết thở dài một hơi, lắc đầu với vẻ khó tin, lẩm nhẩm mấy chữ: “Tướng quân có tin.”
oOo
Tiểu Huyền đi trong sa mạc hoang vu, trước mắt cát vàng mênh mang trải ra vô biên. Nắng như thiêu đốt khiến mồm miệng nó khô rang, bên mình lại không có nổi một giọt nước làm dịu cơn khát. Nó định há miệng kêu lên mới phát hiện hình như giọng nói cũng bị cát vàng hút mất, hoàn toàn không phát ra. Đất trời lặng ngắt, chỉ có tiếng ùng ục vang lên.
Nó hoảng hồn, cắm đầu cắm cổ chạy, chỉ muốn nhanh chóng thoát khỏi hoang mạc. Đột nhiên Lâm Thanh xuất hiện bên cạnh, mỉm cười trầm tĩnh: “Muốn trả thù phải khổ luyện võ công, lẽ nào cháu không chịu nổi một chút khổ ải này?”
Nó bình tâm lại, nhận ra tiếng ùng ục vang lên trong bụng mình, lập tức cảm giác đói ngấu nhưng nhận ra nụ cười cùng ánh mắt của Lâm Thanh đượm ý khích lệ bèn nghiến răng nhẫn nại.
Đột nhiên, một người cực kỳ cao lớn nhưng không nhìn rõ diện mạo trồi lên khỏi bãi cát vàng vô tận. Thân thể người này che kín ánh nắng xiên khoai, chiếc bóng dài liêu xiêu đổ xuống đất như quái thú há miệng.
Lâm Thanh kéo Tiểu Huyền lại: “Là Minh tướng quân.” Y cởi Thâu Thiên cung, rút một mũi trường tiễn, ngưng thần chuẩn bị phát ra.
Tứ phía chợt xuất hiện nhiều bóng người, có cả Hứa Mạc Dương, cùng Trùng Đại Sư, Ngu Đại Sư, Thủy Nhu Thanh, Hoa Khứu Hương, Hoa Tưởng Dung đứng sóng vai, trợ uy cho Lâm Thanh. Ngược lại, bọn Cảnh Thành Tượng, Vật Thiên Thành, Long Phán Quan, Lịch Khinh Sinh lại áp trận cho Minh tướng quân. Trận quyết chiến sắp bùng nổ, bầu không khí vạn phần nặng nề. Tiểu Huyền thấy Hứa Mạc Dương liền mừng đến phát cuồng, tuy có thiên ngôn vạn ngữ dâng lên khóe môi nhưng không dám lên tiếng, chỉ ôm chặt người cha nuôi âm dương cách biệt đã lâu. Hứa Mạc Dương im lặng mỉm cười, vẻ mặt vẫn từ ái như xưa…
Chợt thấy Thủy Nhu Thanh xuất hiện trước mặt, bĩu môi chỉ vào nó rồi nói: “Ngươi hướng về Lâm thúc thúc, vậy ta phải đối nghịch, ủng hộ Minh tướng quân.”
Tiểu Huyền nhớ đến cái chết của Mạc Liễm Phong, biết Thủy Nhu Thanh quyết không tha thứ, tim liền chìm hẳn xuống, đang định giải thích mấy câu, chợt bên tai vang lên tiếng Lâm Thanh quát lớn, mũi trường tiễn rời dây cung.
Cùng với mũi tên, cát vàng cuốn lên ngập trời khiến mắt nó mờ mịt. Đợi lúc tất cả lắng xuống, bọn Lâm Thanh đã mất bóng, cơ hồ mũi tên đó đã rút hết sinh khí trong trời đất, chỉ chừa lại nó và Minh tướng quân nhìn nhau qua làn cát bụi.
Dần dần, nó nhìn rõ trên mặt đối phương có đeo một chiếc mặt nạ nanh ác bằng đồng, hóa ra là Thanh Sương Lệnh Sứ của Ngự Linh đường. Nó liền dấy lên đấu chí xung thiên như thể đã luyện thành võ công tuyệt thế, đối diện cường địch mấy trăm năm của Tứ Đại Gia Tộc vẫn không hề sợ hãi, quát vang một tiếng lao tới.
Thanh Sương Lệnh Sứ cởi mặt nạ, lại biến thành Chu viên ngoại mặt mũi nhẵn nhụi. Nó hơi ngây người, chống nạnh cười ha hả: “Hóa ra là lão giả thần lộng quỷ, mau nôn bạc cho bản đại hiệp đi cứu tế.”
Chu viên ngoại nháy mắt với nó đầy cổ quái, lại lột một lớp da mỏng tang trên mặt, liền biến thành sư gia ở Cầm Thiên bảo, Hồng Trần Sứ Ninh Hồi Phong của Ngự Linh đường.
Tiểu Huyền cả kinh, nhớ đến phụ thân vừa ôm trong tay giờ mất bóng, lẽ nào lại trúng phái độc thủ của Ninh Hồi Phong, lòng ngập bi phẫn, gầm lên: “Cha ta đâu?”
Ninh Hồi Phong cười lạnh: “Ta giết hắn rồi, có bản lĩnh cứ việc báo thù.”
Mắt nó bốc lửa, cảm giác trong thân thể không ngừng lưu động một cỗ nội lực, dùng ngay chiêu Bài Sơn Vận Hải trong Thiếu Lâm La Hán Thập Bát Thủ bổ vào ngực Hồng Trần Sứ. Không ngờ Ninh Hồi Phong tùy tùy tiện tiện đưa tay lên, nắm chặt tay nó, mặt lộ vẻ nanh ác, hữu trảo cong lại như móc câu chụp xuống đỉnh đầu…
Lòng nó lạnh buốt, mọi ý niệm tiêu tan tỉnh lại ngay lập tức, hóa ra mới trải qua một giấc mộng, mồ hôi tuôn ướt khiến y phục dính sát vào lưng hết sức khó chịu.

Trước mắt nó là một vùng tăm tối, không nhìn rõ vật gì, tiếng rồn rột vẫn vang lên không ngớt như có loài động vật nhỏ bé nào đó đang cắn xé. Trong không khí loáng thoáng một mùi vị cổ quái, giống như mùi lương thực mốc hoặc mùi bông gòn nhúng nước rồi chất đống liền mấy tháng.
Nó nằm bất động, đầu óc tỉnh táo dần, nhớ lại cảnh mình vào phòng ngủ nhà Chu viên ngoại tại Bình Sơn tiểu trấn “cướp giàu giúp nghèo”, đâu ngờ bị lão chế trụ ngược, tình hình hiện tại e rằng đã rơi vào tay địch nhân. Lâm Thanh hiện ở đâu, có biết nó đang bị bắt chăng? Lẽ nào y cũng trúng mai phục của địch? Nghĩ đến việc vì mình nhất thời sính cường liên lụy Lâm thúc thúc, nó vừa hối hận vừa nóng lòng.
Nó hơi cựa mình, phát hiện hoàn toàn không bị cấm chế nhưng toàn thân mềm nhũn như đang ốm nặng, không có nửa điểm khí lực, đói bụng đã đành, miệng cũng đắng ngằm vì cơn khát cháy cổ. Còn may, cỗ nội khí Lâm Thanh lưu lại trong thân thể nó vẫn vận hành không ngừng, đủ để xuất ra một đòn. Nó mới định thần, thầm nhủ dù lạc vào tay địch cũng phải tìm cơ hội cho chúng nếm mùi “lợi hại.”
Nó vặn người, đầu chạm vào vật cứng đau nhói, mắt không nhìn thấy gì, chỉ cảm giác cực kỳ khó thở, phảng phất đang ở trong một nơi bị phong bế. Đưa tay lên sờ, nó chạm vào một tấm nắp, dụng lực đẩy mạnh nhưng không mảy may suy suyển, hình như được làm bằng đá nên nặng chịch; sờ chung quanh liền nhận ra đều bị đã bít kín, chỗ bàn tay sờ vào lạnh băng, trơn tuột, bất giác nó run lên. Dưới lưng nó có lót một lớp đệm mềm mại, tưởng như đang ngủ trên giường, nào ngờ bị nhốt trong một chiếc hòm bằng đá.
Nó chợt ngây người, hình dạng chiếc hòm vừa đủ cho một người nằm vào, có phải là “quan tài”?
Nó kinh hãi cực độ, vội giơ hai tay lên đẩy thật mạnh, nắm áo quan lộ ra một khe hở, thấp thoáng có ánh sáng chiếu vào. Nó hít sâu một hơi, dốc toàn lực đẩy tiếp, loay hoay một hồi mới nhấc được nắp lên để ngồi dậy, tình cảnh đập vào mắt khiến nó suýt nữa buột miệng hô lớn, vội đưa tay bịt miệng, cố nén không để phát ra âm thanh.
Đó là một gian phòng đá nhỏ, góc phòng chia thành hai cạnh chụm nhau, nối với hành lang dẫn xéo lên cao, lộ hàng bậc đá chỉ cách đó hai, ba bước. Căn phòng này chắc được xây cất dưới lòng đất, hai bên hành lang có treo hai đĩa đèn tỏa ánh sáng mờ mờ. Trong gian phòng không lấy gì làm rộng rãi này ngổn ngang mấy chục cỗ “quan tài” lớn nhỏ, giữa phòng bày một chiếc bàn đá rộng nửa thước, dài tám thước, không biết dùng làm gì mà mặt bàn lốm đốm vết máu. Nóc phòng thấp lè tè, nếu đứng dậy mà bất cẩn tất sẽ cộc đầu, ánh đèn chao chát khiến cảnh vật trong phòng âm u. Mấy con chuột làm tổ trong góc phòng không hiểu vì sao cứ gặm sồn sột, cộng thêm mùi tử thi lợm giọng, tô thêm nét rùng rợn cho gian phòng u ám.
Nó ngồi ngây ngô, không dám động đậy, chỉ sợ thức tỉnh cương thi trong các cỗ quan tài ắt rầy rà to.
Chợt ngoài hành lang vang lên tiếng trượng gỗ lộc cộc điểm xuống nền, từ xa gần lại. Nó khẩn trương, trong tình cảnh này gian thạch thất dưới đất có khác nào tu la địa ngục, hành lang có phải là thông đạo tiểu quỷ Vô Thường vẫn ra vào? Hay là Diêm Vương gia phải đến bắt?
Nó đảo mắt nhìn quanh, định tìm chỗ ẩn nấp nhưng trong phòng trừ mấy chục cỗ quan tài cùng chiếc bàn đá, hoàn toàn không có nơi nào khả dĩ náu thân. Tiếng trượng gỗ mỗi lúc một gần, nó sởn gai ốc, lại thụp đầu xuống, không dám chạm vào nắp áo quan, miễn cưỡng nhắm mắt hóa ra càng hoảng sợ, đảnh mở mắt nhìn lên trần nhà lúp xúp, hy vọng người sắp tới coi mình như một tử thi mà không động tới… Những tiếng tim đập thình thình khác nào tiếng trống câu hồn, giấu bằng cách nào?
Tiếng chống trượng gỗ đến chỗ nó liền dừng lại cùng với hơi thở thoạt có thoạt không, trước mắt nó liền xuất hiện một gương mặt khô quắt, hoàn toàn không có sinh khí. Nó không giấu được nỗi sợ, khẽ hét lên “A” rồi toan nhổm dậy bỏ chạy, song không tài nào động đậy như bị trúng tà.
Gương mặt cương ngạnh trơ khấc: “Nhóc con tỉnh rồi hả.” Giọng nói cổ quái khôn tả, từng âm tiết đều trầm trọng như đeo đá, phảng phất lâu lắm không nói chuyện với ai. Đoạn đối phương đưa tay kéo, khí lực cực mạnh khiến nó không kháng cự được, nhỏm dậy khỏi quan tài.
Người đó trạc bốn mươi tuổi, xương gò má nhô lên, hốc mắt trũng sâu, không giống người Trung Nguyên, tay phải cầm một cây trượng gỗ, thân thể hơi còng xuống, mục quang lạnh lẽo như u minh quỷ hồn nhìn nó chằm chằm, thoáng qua nét u uất, tựa hồ nhãn thần có thể xuyên thấu thân thể nó nhìn vào một nơi xa xăm vô định nào đó… Tướng mạo gã rùng rợn như vậy nhưng mình lại khoác một tấm áo trắng không nhiễm bụi trần, mớ tóc che kín khuôn mặt không hề rối loạn, thân thể toát ra mùi sạch sẽ, thanh sảng của người mới tắm rửa, tương phản với gian phòng âm u lạnh lẽo, thành ra vạn phần quỷ dị.
Khóe môi Tiểu Huyền rung lên, lẩm nhẩm: “Ngươi, là người hay quỷ?”
Vẻ mặt người đó hiện lên nét cười, ánh mắt tựa hồ có thêm chút sinh khí, không đáp mà hỏi ngược lại: “Ngươi là người hay quỷ?”
Tiểu Huyền sửng sốt: “Ta là người.”
Cổ họng người đó rung lên tiếng cười: “Ngươi là người, ta cũng là người, nếu ngươi là quỷ thì ta cũng vậy.”
Tiểu Huyền nghe gã nói mấy câu, dần định thần, tướng mạo đối phương đáng sợ nhưng vẫn là người, hà huống nếu mình đã chết, không phải cũng biến thành quỷ sao, lý nào còn đi sợ gã.
Nó trở lên lớn mật: “Mặc kệ ngươi là ai, mau thả ta ra, bằng không… ta sẽ kêu lớn gọi người tới.” Nó vốn địnhh giả bộ hung hăng nhưng càng nói càng nhũn, câu cuối cùng không mang ý uy hiếp đối phương mà trở thành cầu xin.
Người đó thủng thẳng: “Ngươi muốn cứ việc kêu lên, ở đây ta chỉ có cương thi và sâu, chuột làm bạn, có thêm hơi người cũng hay.”
Tiểu Huyền nhất thời không biết nên làm gì, ở đây nằm sâu dưới lòng đất, ít có người lai vãng nên đối phương không hề lo lắng.
Người kia thấy nó thần sắc kinh hoàng, đưa tay xoa đầu nó, dịu giọng: “Nhóc con đừng sợ, tên ngươi là gì?”
Tiểu Huyền bị bàn tay đầy gân xanh chạm vào đầu, mồ hôi lạnh tuôn ra như tắm mà không dám: “Ta, ta tên Hứa Kinh Huyền, còn ngươi?”
“Hứa Kinh Huyền”, quái nhân cười, “tên hay lắm, ta họ Hắc, mọi người đều gọi là Hắc Nhị.” Nụ cười làm lộ ra hàm răng trắng bóng, nhọn hoắt, càng khiến Tiểu Huyền hoảng sợ.
“Hắc đại thúc.” Nó run giọng gọi.
Người kia nhíu mày tức giận: “Ta không phải tên khốn Hắc Đại, ngươi nên gọi ta là Hắc Nhị thúc mới đúng. “
Tiểu Huyền bụng bảo dạ, Hắc Đại chắc là huynh trưởng của gã mà lại gọi là “tên khốn”, gã hành xử không kể gì đến tình lý, có phải là kẻ điên chăng? Nó nhớ mình bị Chu viên ngoại bắt, sao lại rơi vào tay quái nhân này, cả hai là đồng bọn? Không hiểu chúng định làm gì với mình. Tuy thân thể vẫn còn một cỗ nội lực Lâm Thanh lưu lại, nhưng dẫu dốc toàn lực cũng không mảy may nắm chắc chế trụ được gã, hà huống đối phương tuy tướng mạo hung ác nhưng không có ác ý, vạn nhất bức ép quá, vẽ hổ không thành thành vẽ chó cũng nên.
Bất chợt, ý niệm dâng lên, nó ngoan ngoãn xuống nước gọi: “Hắc Nhị thúc.”
Hắc Nhị thuận miệng đáp, mắt sáng lấp lánh quan sát cậu bé thật kỹ, phảng phất đang hân thưởng một vật cực kỳ hay ho khiến Tiểu Huyền toàn thân ngứa ngáy.
Gã lại hỏi: “Chắc đói lắm nhỉ, muốn ăn gì không?”
Tiểu Huyền tuy vừa nãy đói ngấu nhưng tình cảnh này còn lòng dạ nào mà ăn uống, bèn lắc đầu. Hắc Nhị không miễn cưỡng, lẩm bẩm: “Ta phải làm việc, nhóc con đói bụng thì gọi ta. Nằm xuống trước đi.”
Tiểu Huyền không dám cãi, vừa nằm xuống, trước mắt liền tối sầm, Hắc Nhị đóng nắp quan tài lại, nó vội gọi to: “Hắc Nhị thúc đừng dọa nữa, cháu… cháu sợ bóng tối.”
Nắp áo quan lại hé ra, Hắc Nhị trầm giọng: “Thúc thúc không có ý định dọa nhóc con, lúc thúc thúc làm việc, tốt nhất nhóc con đừng nhìn thấy mới không sợ hãi.”
Tiểu Huyền biết nắp áo quan khá nặng, nó phải phí rất nhiều sức lực mới nhấc lên được mà Hắc Nhị giơ lên như không, xem ra bản lĩnh không tệ, thầm nhủ may mắn vì vừa nãy không ra tay. Nó thấy Hắc Nhị không có địch ý với mình bèn ngồi dậy nài nỉ: “Hắc Nhị thúc, thúc thúc vừa làm việc vừa nói chuyện, cháu sẽ không sợ nữa.”
Hắc Nhị nhìn nó hồi lâu: “Đấy là do nhóc con đấy nhé.” Nói đoạn tập tễnh chống trượng gỗ quay người cất bước, chân phải hình như thụ thương nhẹ, toàn dựa vào cây trượng chống xuống mới đi được.
Mọi quan tài đá trong phòng đều viết số hiệu bằng phấn trắng, Hắc Nhị đến trước quan tài số chín, khẽ nói: “Ồ, là nó.” Rồi đưa tay phải, dùng mộc trượng nhấc nắp lên, tay trái ôm một người ra đặt lên chiếc bàn đá kê giữa phòng.
Tiểu Huyền cả kinh: “Người này còn sống hay chết rồi?”
Gã cười hắc hắc: “Trong gian phòng này trừ ta và nhóc con còn sống, tất cả chết sạch.”
Nếu lúc bình thường ắt Tiểu Huyền đã cãi rằng trừ hai người, trong phòng còn chuột là sinh vật sống.. nhưng lúc nào nó làm gì còn lòng dạ đùa cợt, run lẩy bẩy: “Thúc… thúc ôm người chết ra làm gì?”
Hắc Nhị không đáp, đặt thi thể lên bàn, vạch nhẹ mộc trượng, rạch y phục tử thi để lộ da thịt xanh xám, cứng đờ.
Tiểu Huyền kinh hoảng, lại hoài nghĩ, buột miệng hỏi: “Lẽ nào thúc thúc định ăn thi thể?” Nó thầm nhủ thi thể cao lớn, dáng vẻ ban nãy của Hắc Nhị không phải định lấy thêm thịt người sao…
Hắc Nhị lạnh nhạt đáp: “Người chết ăn có gì ngon. Ngươi sợ cứ việc nhắm mắt lại.”
Nghe gã nói không định ăn thi thể, Tiểu Huyền mới thở phào, tuy thấp thỏm nhưng ngoài miệng không chịu nhún, nghiến răng nói: “Cháu không sợ.”
Hắc Nhị chậm rãi giải thích: “Hơn mười năm nay, nhóc con là người đầu tiên nhìn thấy ta làm việc, cũng là có duyên.” Gã vừa nói liến thoắng vừa rút từ cây mộc trượng một lưỡi đoản đao dài chừng năm tấc lấp lánh hàn quang, lưỡi cực mỏng, sắc lẹm, không giống binh khí đối địch mà tương tự đồ chơi của trẻ con. Gã nhấc tay, lưỡi dao cắm vào ngực tử thi rồi nhích khẽ, rạch đôi lớp da, để lộ ngũ tạng lục phủ…
Tiểu Huyền vạn vạn lần không ngờ Hắc Nhị lại rạch ngực tử thi như thế, không kịp nhắm mắt lại, cảm giác ruột gan trong người lộn tùng phèo, suýt nữa há miệng nôn mửa.
Hắc Nhị liếc nó: “Nhóc con gan dạ lắm, lại dám mở mắt quan sát.” Gã không biết thật ra nó sợ đến cứng người, trong lòng muốn nhắm mắt lại nhưng cơ nhục trên mặt không chịu nghe theo.
Nó há hốc mồm như chìm trong giấc mộng, không thốt nổi nửa câu. Hắc Nhị móc nội tạng tử thi, cầm lên ngắm nghía kỹ lưỡng, miệng mấp máy liên tục, không biết lẩm bẩm điều gì. Nó hoảng sợ cực độ, đầu óc trống trơn, nghe Hắc Nhị nói nhưng không chữ nào vào tai.
Không biết bao lâu sau, Hắc Nhị lại lấy kim chỉ ra khâu tử thi lại, dáng vẻ gã hung ác nhưng đôi tay cực kỳ linh xảo, mũi châm nhỏ xíu lạnh băng đan qua đan lại trên thân thể, khâu một thoáng đã xong. Gã lại đưa tử thi vào quan tài, đi đến trước mặt Tiểu Huyền đang trợn trừng mắt, nhếch môi hỏi: “Nhóc con thấy tay nghề ta thế nào?” Vẻ mặt gã cực kỳ hài lòng, tựa hồ không phải mới làm một việc tàn nhẫn mà hoàn thành một kiệt tác nghệ thuật thượng đẳng.
Tiểu Huyền rúng động tỉnh lại, thầm nghĩ việc ghê rợn nhất từng thấy cũng đến thế là cùng, trong dạ khó chịu, nôn khan mấy lần nhưng không ra vật gì.
Hắc Nhị cười ha hả: “Ta còn tưởng nhóc con là nam tử hán gan dạ, hóa ra cũng là quỷ chết nhát.”
Tiểu Huyền cố nói cứng: “Cháu không phải quỷ nhát gan, chỉ là… chỉ là…” Nó hoảng kinh, sống mũi cay cay, cố nén mấy giọt nước mắt chực nhỏ xuống. Dẫu ngày thường nó tự nhận gan mật tày trời nhưng đối diện với Hắc Nhị mặt mũi âm trầm cũng không dám có ý niệm phản kháng, chỉ muốn ra khỏi nơi đáng sợ hơn cả u minh địa phủ này càng nhanh càng tốt.
Hắc Nhị cười mủm mỉm nhìn nó: “Xem ra sợ quá đây mà.” Gã quay người tập tễnh cất bước, nhìn bóng dáng còng xuống đó, ai ngờ gã vừa đích tay giải phẫu tử thi khám nghiệm?
Tiểu Huyền tuy không muốn đi cùng gã nhưng càng sợ phải một mình ở lại thạch thất âm u này, nên vội gọi: “Hắc Nhị thúc đợi cháu đi cùng.”
Hắc Nhị không ngoái lại: “Nhóc con nếu không phải là quỷ nhát gan thì ngoan ngoãn đợi ta ở đây, chốc nữa ta quay lại.” Tiếng mộc trượng xa dần.
Tiểu Huyền vốn định bất chấp tất cả đi theo, lại e bị gã cười chê chết nhát, bèn cố lên gân, co đầu rụt cổ ngồi trong quan tài đá lạnh băng. Trời bước vào tiết đông, khí lạnh buốt xương, nó run lên từng chặp, cảm giác thạch thất yên lặng đến rùng mình, cố ê a hát mấy câu lấy can đảm, nhưng nhớ đến phụ thân từng dạy hát khúc này không còn, bất giác chìm vào bi thương, muốn khóc to thành tiếng.
Trong lúc hoảng hốt, nó như thấy vô số quỷ hồn nghiến răng kèn kẹt chao chát trước mặt, thầm nhủ đúng là có quỷ, phụ thân trên trời có linh, nhất định bảo vệ mình. Ý nghĩ lóe lên, bất giác khiến tâm thần nó ổn định lại một chút, nhưng nỗi nhớ Hứa Mạc Dương và Lâm Thanh càng quay quắt.
Một lúc sau, ngoài hành lang có tiếng người rì rầm, lắng nghe liền nhận ra Hắc Nhị đang trao đổi với hai người khác.
Một người nói: “Bọn tiểu đệ đưa đến đây thôi, sau đó phải phiền Hắc nhị ca.”
Người kia tiếp lời: “Ở chỗ thế này mà Hắc nhị ca nuốt trôi được, tiểu đệ bội phục sát đất.”
Hắc Nhị cười hắc hắc: “Ta không thích nữ sắc, chỉ thích uống rượu, các vị thích náo nhiệt thì cùng ta xuống dưới đó.”
Người kia vội vàng nhăn nhó từ chối: “Ý tốt của nhị ca, tiểu đệ tâm lĩnh nhưng không có phúc tiếp nhận.” Hàn huyên thêm mấy câu, hai người cáo từ đi ra.

Tiểu Huyền thầm nghĩ, có người tới tức là chỗ này không đến mức hoang vắng, nếu nhân cơ hội Hắc Nhị vắng mặt, kêu to kinh động người khác có khi được cứu nhưng hai người kia hình như là đồng bọn của Hắc Nhị, mình phải nghĩ kế vạn toàn mới thoát thân được.
Tiếng mộc trượng “lộc cộc” từ từ đến gần, nó không muốn bị Hắc Nhị coi thường nên cố ra vẻ bình tĩnh nhìn quanh quất nhưng lúc Hắc Nhị đi vào, nó vẫn kinh hãi há hốc miệng, hít sâu một hơi khí lạnh.
Hắc Nhị cõng theo một tử thi, trên mộc trượng treo một hộp đồ ăn.
Gã đặt tử thi lên bàn, mở hộp đồ ăn đưa cho Tiểu Huyền: “Ta làm mấy món này, mau ăn đi.”
“Cháu… cháu không đói.” Thi thể đầm đìa máu me, tứ chi tàn khuyết, hình như bị người ta dùng loạn đao chém chết. Tiểu Huyền cảm giác ruột gan lộn tùng phèo, lý nào nuốt trôi được đồ ăn nữa.
Hắc Nhị không miễn cưỡng, thấp giọng nói: “Vậy để ta ăn.” Rồi ngồi ngay cạnh tử thi, múc hai bát cháo ăn ngon lành, liên tục chắc lưỡi, cơ hồ tử thi rùng rợn không mảy may ảnh hưởng đến khẩu vị.
Tiểu Huyền không nén được, lên tiếng hỏi: “Lẽ nào thúc thúc không thấy lợm giọng?”
Gã cười vang: “Nhóc con có biết trên đời cái gì đáng ghê tởm nhất không? Là lòng dạ người sống. Người chết chỉ còn lại tấm thân thanh bạch cha mẹ ban cho, trả về trời đất, có gì phải ghê sợ?” Gã không hề kích động, ngữ khí bình đạm như đang nói về một việc thiên kinh địa nghĩa, đoạn rót một chén rượu tợp cạn, thở dài nói với tử thi: “Ngươi chưa đầy mười chín tuổi, làm sao lại đi học người ta tranh cường đấu thắng đến nỗi mất mạng, không phải khiến cha mẹ đau lòng lắm ru?”
Tiểu Huyền lấy làm kỳ lạ, Hắc Nhị làm cách nào biết được thi thể nhuộm máu bao nhiêu tuổi? Hai người quen nhau?
Nó hỏi: “Sao thúc thúc lại giết người ta?”
Hắc Nhị hơi sửng sốt, tợp xong chén rượu mới cao giọng ngạo nghễ: “Xưa nay ta chưa giết ai.”
Tiểu Huyền không hiểu: “Thúc thúc không giết người thì tử thi này ở đâu ra, thúc thúc lấy làm gì?”
Hắc Nhị thở dài: “Những người này, có kẻ cùng hung cực ác, chết chưa hết tội, nhưng đại đa số ngậm oan mà chết, ta phải giúp họ đòi lại chút công đạo.”
Tiểu Huyền phẫn hận: “Họ chết rồi thì thôi, thúc thúc còn mổ ra, không để họ toàn thây mà bảo là giúp đòi công đạo, thiên hạ đào đâu ra cái lý ấy?”
Hắc Nhị trừng mắt: “Ai ở thành Vấn Hà này gặp Hắc Nhị ta mà không cung kính, nhóc con biết cái gì?”
Lúc đó nó mới biết địa phương này là Vấn Hà, bèn hỏi tiếp: “Có ai dám đắc tội cùng kẻ bất kính với người chết như thúc?”
“Nhóc con biết cái rắm gì.” Hắc Nhị tức giận gõ gõ thanh đoản đao lên bàn: “Bách tính kính trọng ta vì lưỡi thần đao của ta rửa sạch được vô số án oan, các huynh đệ kính trọng vì bất kỳ thương thế gì ta đều chữa được, dù Triệu huyện lệnh gặp ta cũng phải gọi một tiếng Hắc Nhị huynh, nếu không nhờ ta tìm ra, lão dựa vào đâu mà phá được nhiều vụ án gai góc, ngồi yên trên ghế huyện lệnh?”
Tiểu Huyền ngây người, một lúc sau mới có phản ứng: “Thúc thúc là ngỗ tác?” (27)
Hắc Nhị hừ lạnh thừa nhận, Tiểu Huyền liền tỉnh ngộ, ở đây là nhà xác huyện nha, chả trách có nhiều tử thi như vậy. Gã Hắc Nhị dáng vẻ hung ác này là ngỗ tác, mổ tử thi cũng để tra án mà thôi.
Nó lý nhí: “Lẽ nào cháu trách nhầm người tốt như thúc thúc?”
Giọng nói tuy nhỏ nhưng Hắc Nhị nghe rất rõ, vỗ ngực tự hào: “Là người tốt hay không, ta không dám khoe khoang nhưng chí ít Hắc Nhị ta cũng hành sự quang minh lỗi lạc, không thẹn với lòng.”
Tiểu Huyền nghe gã nói năng hùng hồn bèn bĩu môi: “Thúc thúc hành sự quang minh lỗi lạc, sao còn nhốt cháu ở đây?”
Hắc Nhị đáp: “Nhóc con không biết tốt xấu, đừng nói lung tung, ta được bằng hữu nhờ chiếu cố nhóc, mấy hôm nữa y sẽ phái người đến đón.”
Tiểu Huyền mừng ra mắt: “Hóa ra thúc thúc là bằng hữu của Lâm thúc thúc, bao giờ Lâm thúc thúc đón cháu lên kinh?”
“Ta không biết Lâm thúc thúc là ai hết.” Hắc Nhị lạnh nhạt: “Bất quá Quản huynh xưa nay vẫn ở kinh sư.”
Tiểu Huyền lạnh ngắt cõi lòng, Hắc Nhị là ngỗ tác của quan phủ, chắc thuộc quyền quản hạt của Truy Bộ Vương Lương Thần, xem ra nó vẫn nằm trong tay địch nhân. Nhưng sao Truy Bộ Vương không trực tiếp đưa nó đi? Lẽ nào sợ trên đường bất tiện, bị Lâm Thanh tìm ra? Bắt nó đến đây có mục đích gì?
Nếu trước kia, tất nó sẽ truy vấn tin tức về Lâm Thanh nhưng từ khi Hứa Mạc Dương chết, vô hình trung nó người lớn hẳn, trở nên biết suy xét. Ngữ khí của Hắc Nhị cho thấy gã không biết Lâm Thanh, thái độ có phần thân thiết, chỉ e hiểu lầm mình có quan hệ với Truy Bộ Vương, nếu hỏi nhiều chả hóa tự mua phiền. Nó cho rằng “Quản huynh” này chính là thủ hạ của Lương Thần, đâu biết người bắt mình không liên quan đến Truy Bộ Vương.
Hắc Nhị nói tiếp: “Lúc Quản huynh đưa nhóc đến đây liền điểm huyệt đạo, nói nhóc là con của cố nhân nhưng tính tình cứng đầu nên làm vậy để trừng phạt, Quản huynh có việc gấp, nhất thời không thể phân thân, trong mười ngày sẽ đến đón. Mấy hôm này tốt nhất ngươi chịu khó ngoan ngoãn cho ta, ta không tốt tính như Quản huynh, nếu chọc giận ta, ắt nhóc con sẽ biết tay.”
Vốn Quản Bình tâm kế thâm trầm, quyết định hạ sát Lâm Thanh, sợ mang Tiểu Huyền theo sẽ sinh biến nên lúc qua thành Vấn Hà liền giao cho Hắc Nhị. Hắn không tiết lộ lai lịch cậu bé, tùy tiện bịa một lý do, Hắc Nhị tin ngay, cho rằng nó ranh mãnh nên không giải huyệt, lại bỏ vào quan tài để dọa dẫm, vì nể mặt Quản Bình nên không để nó nếm mùi đau khổ.
Tiểu Huyền bụng bảo dạ, Hắc Nhị và Truy Bộ Vương cùng một giuộc, đương nhiên không phải loại tốt lành, dẫu có chút bản lĩnh khoác lác cũng chỉ là phường ăn theo Lương Thần. Bất giác nó hừ lạnh một tiếng.
Hắc Nhị quát: “Nhóc con hừ cái gì?”
Nó đáp: “Cháu ho cũng không được sao?” Đoạn khậm khụ liền mấy tiếng.
Hắc Nhị dừng đũa, lạnh giọng: “Vừa nãy rõ ràng nhóc con cười thầm ta.”
Thấy gã hung hăng, nó hoảng sợ nhưng ngoài mặt lại nghiêm túc: “Thúc thúc không phải con giun trong bụng cháu, sao biết cháu nghĩ gì?” Lập tức tìm được một lý do: “Cháu đói quá, dạ dày réo lên.”
Hắc Nhị lạnh lùng: “Ở đây có rượu, có thức nhắm, sao nhóc con không ăn?”
Nó vốn đói ngấu, lại không muốn Hắc Nhị nhận ra, bèn nhảy khỏi quan tài, cẩn thận tránh khỏi tử thi, cầm đũa ăn mấy miếng, lại rót một chén rượu, nhắm mắt nốc cạn, thân thể lập tức ấm hẳn, lắc đầu tự nhủ: “Dễ chịu hơn nhiều.” Bèn vừa xoa bụng vừa ra vẻ hầm hừ.
Hắc Nhị mặc kệ, bình thường gã ít lời, thời gian chủ yếu ở cạnh tử thi, tính tình vốn ngang ngạnh, giờ bị một thằng nhóc ngầm chọc giận mà không làm gì được, đành cắm đầu ăn uống. Cả hai đều ấm ức, không nói với nhau câu nào, cố dồn tâm trí vào mấy món ăn.
Tiểu Huyền vẫn còn trẻ con, không chịu được trầm mặc, hà huống ở trong nhà xác mà không nói câu nào ắt tâm lý ớn lạnh, nó vốn e dè tử thi cạnh đó, uống vài chén đâm ra gan dạ hẳn, hỏi Hắc Nhị: “Người này vì sao mà chết?”
Hắc Nhị cấm cảu: “Đương nhiên bị người ta chém chết.”
Tiểu Huyền bực mình nhưng không dám trêu vào Hắc Nhị, bèn lầm bầm: “Hóa ra làm ngỗ tác đơn giản như thế, cứ việc nói với huyện thái gia rằng người này bị chém chết là vạn sự yên lành.”
Hắc Nhị bốc hỏa, vỗ mạnh lên mặt bàn, tử thi bị chấn động thiếu điều chạm vào mình Tiểu Huyền. Nó hoảng sợ, theo ý thức co người lại, tính nó ưa ngọt ngào, không ưa dọa dẫm, trong bụng tuy sợ nhưng ngoài miệng lại nói: “Thúc thúc cả ngày hành hạ tử thi, tự nhiên họ không phản kháng, hiện tại lại đem trẻ con ra trút giận, có gì mà quang minh lỗi lạc?”
Hắc Nhị hung hãn nhìn nó: “Ở đây không thiếu người chết, ta làm thịt thằng nhóc rồi báo cho Triệu huyện lệnh là Tiểu quỷ này bị người ta chém chết, nhóc con nói xem có tìm được hung thủ không?”
Tiểu Huyền cả kinh, lùi lại hai bước, nhìn gã chằm chằm, mọi lỗ chân lông trên người dựng hết lên, run giọng: “Thúc … thúc bảo là không giết người kia mà?”
Hắc Nhị chỉ muốn dọa nó, thấy nó hoảng hồn, cơn giận tiêu đi quá nửa, lại nhận ra mình nổi nóng với trẻ con thật mất phong độ, bèn nháy mắt, cười ha hả: “Nhóc con đừng sợ, ta được người ta nhờ, chỉ cần nhóc chịu ngoan ngoãn, tất ta không động đến.”
Tiểu Huyền vỗ ngực: “Sao cháu lại không ngoan? Chẳng qua thúc thúc hẹp hòi, cháu đùa mà thúc thúc lại tưởng thật.”
Hắc Nhị chỉ vào thỉ thể đẫm máu, chậm rãi nói: “Từ lúc ta làm việc này, người khác tránh ta như rắn rết, ta bèn thề rằng không ai được làm nhục kỹ nghệ của ta. Chỉ cần nhóc con không nhắc đến, dù mắng ta mấy câu cũng không hề hấn gì.”
Công việc của gã quả thật khiến người khác e sợ, mãi mấy năm sau nhờ vào cây thần đao được người người tôn kính mới ngẩng mặt nhìn đời, thành ra quyết không cho ai được lên tiếng sỷ nhục nghề nghiệp.
Tiểu Huyền thấy gã nói trịnh trọng như vậy, không dám đùa cợt nữa, thu hết can đảm nhìn sang tử thi: “Vì sao thúc thúc lại làm ngỗ tác, lẽ nào không sợ?”
Hắc Nhị chỉ vào tử thi thở dài: “Y không biết nói lời lừa bịp, cũng không đánh lén sau lưng, sao lại phải sợ? Y tốt hơn đại đa số những kẻ ngu muội vô tri trên đời, ta thà gặp người chết bởi không cần đề phòng nhau.” Ngữ khí bao hàm đôi phần ai oán, phảng phất có ý nghĩa khác.
____
(27) viên chức làm công việc khám nghiệm tử thi
Tiểu Huyền còn nhỏ, không thông hiểu sự đời nhưng cái chết của Hứa Mạc Dương khiến nó hiểu được đạo lý nhân thế hiểm ác, thành ra cảm thông với lời Hắc Nhị, nhìn sang thi thể thấy không còn đáng sợ như trước, có điều vẫn không dám đưa tay vuốt cặp mắt vô thần nhìn mình chằm chằm.
Hắc Nhị lạnh lùng: “Nhóc con nhìn là được rồi, đừng động chạm lung tung, nếu làm lệch hướng vụ án, nhóc đảm đương được không?”
Tiểu Huyền không phục: “Lúc nãy thúc thúc cõng thi thể có cân nhắc gì đâu, giờ còn trách cháu bất cẩn…”
“Ta tự nhiên biết điều chỉnh.” Hắc Nhị thản nhiên: “Nhóc con đừng coi thường nghề ngỗ tác, trong đó bao gồm cả học vấn, chỉ e cả đời nhóc con cũng không học được.”
Tiểu Huyền ghét nhất ai coi thường, bèn ưỡn ngực: “Có gì mà không được, cháu muốn học là được.”
Hắc Nhị hỷ mũi: “Muốn làm một ngỗ tác đúng nghĩa không chỉ khắc phục sợ hãi trong lòng, cần cả y thuật cao minh cùng phán đoán tinh chuẩn, hơi sai lạc là mất dấu hung thủ thật sự, oan uổng người tốt, đâu đơn giản như nhóc con nghĩ.”
Tiểu Huyền bị nói khích, nhìn kỹ thi thể một hồi: “Vai trái bị khai sơn đao cực nặng chém bị thương, vết thương trên chân trái là vết kiếm thông thường, bất quá vết thương ở tiểu phúc sâu hút, lẽ nào là phán quan bút? Không đúng, không đúng, phán quan bút không thể tạo thành vết thương bị móc ra… Cháu biết rồi, là mã nha thích cực kỳ hiếm thấy, xem ra người này bị vây công mà chết…”
Hắc Nhị vạn lần không ngờ một cậu bé như nó lại có thể phán đoán như thế, quan sát thi thể nhận định được vết đao thương, kiếm thương đã đành, nhận ra kỳ môn binh khí mã nha thích trong võ lâm không phải là việc người thường làm được, bất giác nhìn nó với con mắt khác hẳn. Gã không biết nó từ bé đọc nát Chú Binh Thần Lục, cực kỳ quen thuộc tính năng các loại binh khí trong thiên hạ, nhất là những loại kỳ hình quái trạng càng nhớ kỹ.
Nó nhận ra gã kinh ngạc bèn mỉm cười đắc ý: “Cháu nói đúng không?”
Hắc Nhị hừ một tiếng: “Thế thì sao. Nếu nhóc con nhìn ra y bị giết khi nào, vết thương trí mệnh chân chính ở đâu, người giết y dùng chiêu thức gì, có đặc tính gì… mới là có bản lĩnh.”
Tiểu Huyền bị dồn vào thế bí, bĩu môi đáp: “Cháu không phải thần tiên, sao biết được nhiều như thế?”
Hắc Nhị cười ha hả: “Nhóc con xem này, huyết dịch y màu xanh tím, chưa đặc lại hoàn toàn, chắc chắn mất mạng trong khoảng ba thời thần trở lại, vết thương trên vai và chân chỉ là ngoài da, tiểu phúc tuy bị thương nặng nhưng không đủ lấy mạng, vết thương trí mệnh chân chính là một đòn cực nặng sau gáy do loại vũ khí như côn bổng gây ra. Vết thương này không phải ở trên đỉnh đầu mà lệch phải nửa tấc, miệng vết thương có dấu ma sát, đủ thấy người sử côn không dùng chiêu thức kiểu Thái Sơn Áp Đỉnh, Lực Phách Hoa Sơn đập xuống đầu mà kiểu Hoành Tảo Thiên Quân từ trái quét sang phải. Từ đây phán đoán, người dùng côn thuận tay trái, ít nhất cũng thiện nghệ Phản Thủ côn pháp. Đó cũng chỉ là biểu hiện bề ngoài, nếu mổ ra khám nghiệm sẽ biết có trúng nội gia quyền hoặc từng trúng độc không…”
Hắc Nhị làm ngỗ tác hơn mười năm, xưa nay đều một mình mổ tử thi, chỉ đem kết quả báo lên cấp trên, chưa ai muốn nghe gã giảng giải đạo lý nghiệm thi, vừa nãy thấy Tiểu Huyền nhìn ra được binh khí người chết bị đánh trúng, có phong phạm “hành gia”, mới nảy ra ý muốn “biểu diễn” cho nó xem. Hơn nữa cậu bé còn nhỏ tuổi nhưng càng nghe càng hứng thú, quên cả sợ hãi, chỉ chỉ trỏ trỏ lên tử thi, liên miệng hỏi han, gã cũng không giấu giếm, kết hợp những vụ kỳ án đã phá trong hơn mười năm cùng những gì tâm đắc nói ra thật thống khoái, hồi lâu mới ngừng.
Tiểu Huyền liên tục tắc lưỡi, vừa hiếu kỳ vừa sợ hãi, biết thêm được không ít tri thức: “Hóa ra việc này có nhiều học vấn như vậy, Hắc Nhị thúc gia học sâu xa, quả nhiên lợi hại.”
Hắc Nhị trừng mắt: “Y thuật tổ truyền của Hắc gia chúng ta để cứu đời chứ không phải để nghiệm thi, nhóc con không biết đừng nói nhăng.”
Tiểu Huyền vỗ mông ngựa lại nhầm vào chân, gãi gãi đầu: “Y thuật dùng để cứu người sống, cả ngày thúc thúc lại ở cùng người chết, đúng là kỳ quái.”
Hắc Nhị rít lên: “Gia phụ y thuật tinh thâm mà bị bách tính vô tri hại chết, vì thế ta không hành y.”
Tiểu Huyền tỏ vẻ kỳ quái: “Người làm thuốc được tôn kính, sao lại như vậy?”
Hắc Nhị thở dài: “Ba đậu (28) cứu người không ai biết, nhân sâm giết người cũng vẫn được coi trọng. Trên đời có nhiều việc không thể lý giải theo lẽ thường.”
Tiểu Huyền không hiểu, gã lại cười lạnh giải thích: “Ba đậu là vật cực độc, nếu gặp lúc bụng dạ bí bách khó tiêu, tạng phủ lạnh băng, nó là thuốc giải. Có điều tính chất của nó cực nóng khiến người uống vào nguyên khí đại thương, mấy ngày liền yếu ớt, thành ra có hiệu quả cứu người nhưng không được tính công. Nhân sâm là vật đại bổ, ăn nhiều ắt dương khí quá thịnh, đủ dồn người ta vào chỗ chết, nhưng thế nhân ngu muội một mực coi nó là bảo vật, mà cho rằng ba đậu có độc. Như thế là đạo lý chăng?”
Tiểu Huyền nhớ lời cha dặn: võ công cũng như dùng thuốc, có thể cứu người cũng có thể hại người, bèn loáng thoáng hiểu ra, liên tục gật đầu, linh cơ lóe lên: “Vị ba đậu như thế nào?” Thầm nhủ Hắc Nhị đã biết về y thuật, thế nào cũng có mấy loại dược vật, nếu trộn vào rượu thịt cho gã uống, mấy ngày liền vô lực, không phải mình có thể nhân cơ hội trốn đi sao?
Hắc Nhị không hiểu tâm tư nó, đáp ngay: “Ba đậu vị cay, lúc dùng có thể cho thêm băng đường, nguyên hoa, vỏ cam, thêm nước trà nhạt là không màu không vị.”
Tiểu Huyền thầm ghi nhớ, định hỏi thêm ba đậu hình dáng thế nào nhưng sợ lộ dấu vết nên chuyển đề tài: “Vậy phụ thân thúc thúc sao lại bị người ta hại, đến nỗi thúc thúc trở thành ngỗ tác.”
Hắc Nhị xịu mặt: “Đó là việc mười tám, mười chín năm rồi, không nên nhắc lại.”

Tiểu Huyền bị khơi đúng lòng hiếu kỳ: “Hắc Nhị thúc kể cho cháu nghe, cháu đảm bảo không kể cho ai khác.”
Hắc Nhị không thuyết phục được nó, gã chôn vùi câu chuyện này trong lòng gần hai mươi năm vẫn chưa có ai thích hợp để dốc lòng, đối diện với một cậu bé như nó, lập tức dẹp hết nghi ngại.
Gã thở dài: “Thôi vậy, đằng nào cũng qua rồi, kể cho nhóc nghe cũng chả sao.”
“Y thuật tổ truyền của nhà ta từ Cao Lệ, không thiên về dược vật mà thiện nghệ dùng dao, thường mổ miệng lấy nhọt, bửa đầu làm tan máu bầm cho người ta, đến đời gia phụ trở thành thần y nổi danh Tái ngoại. Gia phụ từ nhỏ đã nguyện đi chưa cho người cùng khổ khắp thiên hạ nên có ý vào Trung Nguyên hành y, đâu ngờ vì thế mà gặp đại họa.”
Mắt gã chợt lộ vẻ oán độc: “Tái ngoại tuy không đất rộng người đông như Trung Nguyên nhưng người các tộc lại không hẹp hòi, tham lợi nhỏ, quên nghĩa lớn như người Hán.”
Tiểu Huyền lại nghĩ, đã thế sao ngươi còn làm việc cho quan phủ người Hán? Đương nhiên không dám nói ra trước mặt Hắc Nhị.
Gã kể tiếp: “Gia phụ mang theo hai huynh đệ bọn ta, dọc đường chữa trị không ít nghi nan tạp chứng, cũng có đôi chút tiếng tăm. Một hôm chúng ta đến một ngôi thành nhỏ, vừa hay gặp đám cưới, lúc đó ta mới mười ba tuổi như nhóc con, đâu hiểu sự đời, muốn đến xem tân nương tử, cha chiều ta nên đưa hai huynh đệ đến đám cưới, vừa thấy tân lang liền kinh hãi.”
“Vốn cha ta tinh mắt, nhận ra tân lang mắc bệnh ngầm, trong óc có máu tụ, một khi phát tác sẽ nguy hiểm tính mệnh, bèn kéo tân lang sang một bên nói rõ. Tân lang thường ngày vẫn thân thể cường tráng, không hề ốm vặt, thỉnh thoảng có đau đầu nhưng cũng không để tâm. Gia phụ chỉ rõ triệu chứng như tận mắt chứng kiến nhưng cả nhà vẫn không tin, ngược lại trách ông lừa tiền. Ông không nổi giận mà vẫn giữ lòng lương y từ mẫu, chỉ lên trời thề rằng nếu nói ngoa ắt không được chết yên lành, họ mới tin vài phần, hỏi cách chữa trị. Gia phụ nói thật muốn chữa phải bửa đầu làm tan máu, hết sức hung hiểm, bản thân không nắm chắc mười phần, nhưng nếu không trị chậm thì nửa năm, nhanh thì ba tháng, tân lang sẽ chết. Cả nhà nọ nổi giận, bửa đầu đâu phải chuyện đùa, bèn đuổi cha con ta đi…”
Tiểu Huyền kinh ngạc: “Có phải sau đó tân lang quả nhiên mất mạng nên họ mới trách phụ thân thúc thúc độc miệng?”
Hắc Nhị than: “Nếu vậy đã đành, cũng không hại đến tính mạng gia phụ. Ông vốn cố chấp, lo cho an nguy của tân lang bèn mời mấy đại phu trong thành đến nhà nọ, nói ra chẩn đoán cho họ. Mấy tên lang băm này làm gì có chủ kiến, đều lớn tiếng phụ họa, tân lang là người hào sảng, cũng muốn trừ tận gốc bệnh đau đầu nên đồng ý cho gia phụ chữa. Ôi, ai ngờ tân lang vốn bệnh đã vô phương, bửa đầu chữa bệnh không lâu thì mất mạng…”
Tiểu Huyền há hốc miệng: “Phụ thân thúc biết chắc khả năng thành công không cao mà vẫn ra tay, thật khiến người ta bội phục.”
Hắc Nhị động dung, cầm chặt tay nó, khóe môi run run không nói thành lời, mắt ánh lên vẻ cảm kích sâu sắc. Gã chôn sâu việc này trong lòng nhiều năm, nội tâm vốn cho rằng phụ thân khó thoát được điều tiếng, nào ngờ cậu bé này lại khác với người lớn, một câu nói ra khiến gã như gặp được tri kỷ.
Tiểu Huyền đầu ngờ một câu của mình lại khiến gã kích động như thế, vừa hoảng sợ vừa đồng tình: “Sau đó thì sao?”
Hắc Nhị kể: “Đáng hận mấy tên lang băm vốn không nhận ra chứng bệnh gì, lại đố kỵ gia phụ y thuật cao minh, người chết rồi liền đổ hết trách nhiệm lên đầu gia phụ, nhà nọ hỷ sự biến thành tang sự, đau lòng quá liền đánh ba cha con một trận, toan đi báo quan. Chân phải của ta bị đánh què từ đó, nếu không nhờ Hắc Đại ra sức bảo vệ, chắc không giữ nổi mạng.”
“Gia phụ hổ thẹn, lại thấy liên lụy hai huynh đệ bọn ta bị đánh, nhân lúc không ai chú ý đập đầu tự tận. Nhà nọ thấy gia phụ thảm tử, cũng không truy cứu nữa, lấy sạch số bạc trên mình gia phụ, chỉ để lại vài lạng. Từ đó hai huynh đệ bọn ta lưu lạc giang hồ, chịu bao khổ ải…” Mắt gã đỏ ngầu, không nói thành lời.
Tiểu Huyền ngây người lắng nghe, trong lòng vô cùng thống khổ. Nhân thế vô thường, cha Hắc Nhị vốn định chữa bệnh cứu người, đâu ngờ lại có kết cục như thế. Giờ gã mới ngoài ba mươi mà dáng vẻ như bốn, năm mươi, tất lúc nhỏ gặp cảnh ngộ bi thảm khiến mau già, lại liên tưởng đến tao ngộ bản thân, nghiến răng lý nhí: “Phụ thân cháu cũng bị người ta hại chết, hiện giờ cháu cũng côi cút.”
“Nhóc con còn cơ hội báo thù, ta lại không thể, lẽ nào giết cả nhà người vô tội.” Bình thường Hắc Nhị vốn trầm mặc, vui buồn không lộ ra nét mặt, lúc này nhắc lại chuyện đau lòng cũ, uất ức dồn nén nhiều năm phun trào, khóc rống lên.
Tiểu Huyền không ngờ nam tử hung thần ác sát lại khóc như trẻ con, đâm ra luống cuống, nghe gã khóc thê thảm, suýt nữa nó khóc theo, chợt nhớ từng hứa với Lâm Thanh không rơi lệ nữa, đành kiệt lực nén lại.
Nó vốn cho rằng Hắc Nhị đồng lõa với Truy Bộ Vương, cùng là những kẻ xấu không từ việc ác nào, nhất định sẽ giết cả nhà kia báo thù cha, không ngờ dáng vẻ gã hung ác nhưng tâm địa thiện lương, mình đã trách lầm người. Nó vừa vỗ lưng gã an ủi vừa ngoảnh mặt đi, lén lau mắt.
Hắc Nhị khóc một lúc mới bình tĩnh lại, mỉm cười với nó: “Mười mấy năm nay, ta chưa từng thất thái thế này, đã để Hứa.. Hứa tiểu huynh đệ chê cười.” Kinh qua một phen dốc lòng, vô tình gã coi Tiểu Huyền là bằng hữu thân cận, cách xưng hô cũng mềm hơn.
Tiểu Huyền lại hỏi: “Cha thúc thúc chết rồi, hai huynh đệ sống thế nào?”
Hắc Nhị hơi ngẩng lên, tựa hồ nhớ lại những năm tháng gian khổ: “Lúc đó ta mười ba, Hắc Đại hơn ta hai tuổi nhưng vẫn là trẻ con. Chúng ta mai táng cha xong muốn về Tái ngoại nhưng không đủ khả năng, lại nghĩ đã học được không ít y thuật của cha, đủ để hành nghề y, nào ngờ chúng ta còn nhỏ nên không có bệnh nhân đến mời. Hai lạng bạc sắp dùng hết, nếu phải đi hành khất không phải sẽ làm hỏng anh danh một đời của cha sao?”
“Trong lúc cùng quẫn, Hắc Đại đưa ta vào một nhà giàu có làm đầy tớ, một mình hắn lên kinh thành. Lần chia tay này suốt năm năm, ta ngầm hạ quyết tâm, cha ta cả đời chữa cho vô số người, tuy vì thế mà chết nhưng ta không thể làm nhục danh tiếng của ông, trong thời gian này ta khổ công học y thuật hòng ngày sau trút hận cho ông. Năm mười tám tuổi, ta bỏ việc lên kinh tìm Hắc Đại, nào ngờ tên khốn đó biến đổi đến mức ta không dám nhận.”
Tiểu Huyền thầm nghĩ Hắc Đại từng liều mạng cứu Hắc Nhị, tự nhiên huynh đệ tình thâm, vì sao lại trở thành “tên khốn” trong mắt Hắc Nhị? Nó nghi hoặc: “Lẽ nào Hắc Đại biến thành người xấu?”
____
(28) một loại cây thuộc họ thầu dầu, vị cay, rất độc
“Trong tình huống phải sinh tồn, biến thành người xấu cũng không sao.” Hắc Nhị cười khổ: “Người tốt như cha ta không phải cũng có kết cục chết nơi quê người sao? Chỉ là ta vạn lần không ngờ tên khốn đó lại quên lời tổ huấn, trở thành đao phủ ở kinh thành.”
“A!” Tiểu Huyền cả kinh: “Lẽ nào là loại đao thủ cầm đại đao chém đầu phạm nhân?”
“Đâu chỉ như thế, hắn còn dùng khốc hình bức cung người ta.” Hắc Nhị rít lên: “Y thuật gia truyền của bọn ta đặc biệt nghiên cứu về kết cấu xương cốt kinh mạch con người, vốn để chữa bệnh mà hắn lại dùng hại người. Ta và hắn cãi nhau một trận nhưng không thể khuyên can, từ đó không nhìn mặt nhau.”
“Hắn đến nước đó thật khiến ta lòng lạnh tro tàn, không muốn hành y nữa, mỗi ngày đều mượn rượu tiêu sầu, may gặp Quản huynh tiến cử đến thành Vấn Hà này làm ngỗ tác. Công việc tuy không thể cứu mạng người nhưng lại giải được oan tình, chính hợp ý ta, nào ngờ thoáng cái đã ở đây hơn mười năm…”
Tiểu Huyền đại ngộ, hóa ra nguyên nhân Hắc Nhị làm ngỗ tác là thế: “Hai huynh đệ từ đó không gặp nhau?”
Hắc Nhị thở dài: “Ta vẫn hy vọng có ngày Hắc Đại hồi tâm chuyển ý, nhưng qua ngần ấy năm, lòng cũng lạnh rồi, coi như không có người huynh trưởng này. Hừ, nghe nói hắn ở kinh sư được gọi là cái gì Lao Ngục Vương, phì, cha ở dưới suối vàng biết được chắc không nhắm mắt…”
Tiểu Huyền ngây người, té ra đại ca của Hắc Nhị lại là Lao Ngục Vương Hắc Sơn trong Bát Phương Danh Động. Nghe nói Hắc Sơn tinh thông thuật tra khảo, phạm nhân nào sa vào tay hắn đều muốn sống không được, muốn chết không xong, sau cùng phải khuất phục mà phun ra sạch, hắn là nhân vật người người trên giang hồ đều sợ, nhắc đến liền biến sắc, không ngờ bản lĩnh đó lại có được từ y thuật gia truyền, còn em ruột lại làm một ngỗ tác vô danh tại một ngôi thành nhỏ xiu.
Bất giác, nó cảm thán vận mệnh khó đoán, mỗi quyết định đều đủ để thay đổi số mệnh một con người.
Nó không đành lòng thấy dáng vẻ ủ rũ của Hắc Nhị, bèn kéo tay gã: “Hắc Nhị thúc đúng là người tốt.” Lúc này, nó không còn thấy gã đáng sợ, ngược lại có ý muốn gần gũi.
Hắc Nhị thấy nó nói với vẻ chân thành, đâm ra hết sức cảm động, dịu giọng: “Quản huynh có ơn tri ngộ với ta, lần này gửi gắm nhóc con, ta ắt tận tâm tận lực, nhóc con không cần nóng ruột, mấy hôm nữa, Quản huynh sẽ đến đón vào kinh.”
Tiểu Huyền không biết “Quản huynh” này là ai, cho rằng là thủ hạ của Truy Bộ Vương liền vùng vằng: “Cháu không đi với y.”
Hắc Nhị ngẩn người: “Nhóc con không muốn đi vậy hãy ở lại đây, ta sẽ truyền cho nhất thân y thuật, đảm bảm cả đời dùng không hết…” Gã nghe nó nói rằng cha cũng người ta hại nên có cảm giác đồng bệnh tương liên, nảy ra ý muốn truyền y bát.
Tiểu Huyền lắc đầu: “Cháu không muốn học y thuật, cháu muốn học võ công báo thù cho cha.”
Hắc Nhị tịch mịch hơn mười năm, một lòng muốn giữ nó lại làm bạn nên khuyên: “Ta tuy không biết võ công nhưng nhóc con học y thuật của ta, lúc tập võ công sẽ bớt được một nửa vất vả.”
Tiểu Huyền lấy làm kỳ quái: “Y thuật và võ công có quan hệ gì?”
Hắc Nhị nghiêm mặt: “Y thuật tổ truyền của ta gọi là Âm Dương Thôi Cốt Thuật, nghiên cứu cấu tạo xương cốt con người rất sâu, xưa nay chưa từng có. Thử nghĩ lúc giao thủ với người ta, mỗi động tác đều liên quan đến cơ thể, nhấc vai phải động khuỷu tay, vặn cổ tay tất xoay chưởng, nhóc con mà hiểu được biến hóa của xương cốt này ắt nắm chắc tiên cơ, không phải rất có ích với tu vi võ công sao?”
Tiểu Huyền chấn động, nguyên lý của Dịch Thiên Quyết vốn cố ý lộ sơ hở dụ địch tấn công, nếu nắm được phương vị xuất thủ, uy lực đương nhiên tăng lên nhiều lần.
Nó thầm nhủ, đằng nào cũng không trốn được, chi bằng học lấy một chút bản lĩnh nên vỗ tay: “Hay lắm, nhưng cháu chỉ muốn học những tri thức liên quan đến võ công, không muốn làm đại phu.”
Hắc Nhị nhận ra nó động lòng bèn cười ha hả: “Được, mấy hôm này ta sẽ dạy nhóc con Âm Dương Thôi Cốt Thuật.”
Tiểu Huyền ngẫm nghĩ: “Không biết học Âm Dương Thôi Cốt Thuật cần bao nhiêu thời gian?”
Hắc Nhị đáp: “Ở đây có rất nhiều tử thi cho nhóc con sử dụng, nếu có thiên phú chỉ mấy ngày là nắm vững.” Kỳ thật y đạo bác đại tinh thâm, tốn cả đời cũng chưa chắc thành tựu, Hắc Nhị e nó không chịu học mới cố ý nói như vậy, thầm nhủ tâm tính trẻ con mau biến đổi, lúc học say mê tự nhiên sẽ cầu xin mình truyền thụ, không cần phải nóng lòng làm gì.
Tiểu Huyền đảo mắt: “Mấy tử thi này dọa chết người ta, muốn cháu học, thúc thúc phải đáp ứng một điều kiện.”
Hắc Nhị bị nó quay cho dở khóc dở cười: “Nhóc con có biết bao nhiêu y sư muốn có tử thi mà không được chăng, thậm chí phải đào mộ mới có, cơ hội tốt thế này bày ra trước mắt mà nhóc còn đòi điều kiện gì?”
Gã nói không sai, người Hán mê tín, có ai chịu chết rồi mà thi thể bị hủy? Nếu không nhờ người Tái ngoại phóng khoáng, không lắm hủ tục rườm rà, tổ tiên gã chắc không bao giờ nghiên cứu xương cốt kinh mạch con người thấu triệt đến thế.
Tiểu Huyền cười hì hì: “Cháu học một ngày, thúc thúc phải cho cháu một lạng, không, mười lạng bạc.” Nó biết Hắc Nhị muốn giữ mình lại nhưng Truy Bộ Vương mà đến, mình cũng phải lên kinh sư gặp Lâm Thanh nên ôm lòng muốn trốn đi, có điều không có bạc tất dẫn đến nhiều bất tiện, lại không thể “cướp giàu giúp nghèo”, đành thừa cơ mặc cả.
Hắc Nhị tức giận: “Bổng lộc cả tháng của ta cũng chỉ mười lạng…”
Tiểu Huyền không có khái niệm gì về tiền bạc nên vội xuống giọng: “Vậy một ngày một lạng là được, với thông minh tài trí của cháu, cùng lắm thúc thúc chỉ mất nửa tháng bổng lộc.” Nó quen với Hắc Nhị, thấy gã trừng mắt cũng không sợ, ngẩng đầu vênh vang: “Không thể giảm hơn được, thúc thúc không đồng ý, cháu cũng không học.”
Hắc Nhị bất lực, lại thật lòng muốn thu tên đồ đệ tinh quái này, đành miễn cưỡng đáp ứng.
oOo
Quả thật kỳ quái, Hắc Nhị tuy cả ngày gần gũi tử thi, ngủ luôn tại nhà xác nhưng bản thân ưa sạch sẽ, mỗi ngày đều vào nhà tắm trong thành tắm rửa một phen, cho Tiểu Huyền đi theo rồi đưa nó bát phố khắp thành.
Tiểu Huyền tinh ranh, giả bộ quấn quýt gã, thật ra có ý nhân lúc đi tắm ngầm nhớ đường trốn đi, lại hỏi han gã mới biết từ lúc nó bị bắt khỏi Bình Sơn tiểu trấn đã bốn ngày, thành Vấn Hà này chỉ cách kinh sư chưa đầy bốn ngày đường, chắc dọc đường đến đây nó bị điểm huyệt nên không có cảm giác gì. Xem ra cần phải học y thuật thêm mấy ngày, góp đủ bạc đã.
Hắc Nhị nào ngờ nó tính toán như vậy, một lòng dạy nó y thuật tổ truyền, lúc quay về nhà xác lại ôm thi thể ra giảng giải.
Hơn hai chục năm nay gã hiếm khi giao tiếp với người ngoài, dốc lòng nghiên cứu y thuật, trình độ hiểu biết cốt cách thân thể người đạt mức hiếm có trong thiên hạ. Tuy gã không hiểu võ học nhưng thường giải phẫu thi thể người giang hồ giao đấu nên cũng biết về võ công chiêu thức cùng kỳ môn binh khí của các môn các phái.
Một cao thủ võ học hơi hiểu về y thuật là có thể ra tay chế trụ nơi yếu hại của địch nhân, những môn như “Phân Cân Thác Cốt Thủ”, “Đại Tiểu Cầm Nã Thủ” liên quan chặt chẽ đến kinh mạch xương cốt, nhưng không đào đâu ra ai hiểu đến chân tơ kẽ tóc kết cấu phức tạp của xương cốt như Hắc Nhị.
Đúng như gã nói, người tập võ bất kể võ công cao hay thấp đều là thân huyết nhục, lúc ra tay ắt có dấu hiệu báo trước, ví như cất bước tất phải động xương chân, xuất chưởng đương nhiên xương vai chuyển động, chỉ cần hiểu được đạo lý xương cốt vận động sẽ nắm chắc tiên cơ. Gã nghiên cứu lâu năm, ngộ ra nhiều điều tâm đắc, gặp một cậu bé hoạt bát như Tiểu Huyền, có ý muốn nó bái làm thầy nên giữ lại bên mình, tận tâm tận lực dạy dỗ, không hề giấu giếm.
Tiểu Huyền hết sức hứng thú, không còn cảm thấy tử thi đáng sợ, không chỉ tự lần mò cốt cách toàn thân thi thể mà đặt luôn tên khiến Hắc Nhị cười không ngậm miệng được.
Nó vốn cực kỳ thông minh, lúc trước ở Điểm Tình các, để hóa giải Diệt Tuyệt Thần Thuật của Ninh Hồi Phong mà nhớ huyệt đạo toàn thân con người, giờ có hơn mười thi thể làm tiêu bản bèn nhất nhất ấn chứng những gì Hắc Nhị dạy, tiến bộ thần tốc, mới hai, ba ngày đã nắm chắc nhiều điểm tinh yếu, phối hợp với tâm pháp không cần đánh cũng khuất phục người khác của Dịch Thiên Quyết, thu được ích lợi không nhỏ. Nó không quên mỗi ngày đều đòi Hắc Nhị một lạng bạc “tiền công học tập”, gã cho rằng nó tâm tính trẻ con nên không tính toán mà lấy làm thú vị.
Bước sang ngày thứ ba, nó chợt thấy tâm thần bất an, ban đêm luôn gặp ác mộng, lúc tỉnh lại nằm trong quan tài đá đâm ra càng nhớ Lâm Thanh. Tính ra cũng xa Lâm thúc thúc bảy, tám ngày mà không có tin tức, không biết hiện tại y ở đâu, đã đến kinh sư chưa? Truy Bộ Vương có thể đến bất cứ lúc nào, nếu không đào tẩu ắt không còn cơ hội, nhưng trong mình mới có ba lạng bạc, lại chưa đủ can đảm trốn đi; hơn nữa nó vẫn ôm ấp hy vọng: Lâm Thanh sẽ lần theo Truy Bộ Vương tìm mình, nếu trốn đi há chẳng phải lỡ mất cơ hội gặp y?
Trong mắt nó, Lâm Thanh là đại anh hùng lợi hại nhất thiên hạ, cộng thêm nó tận mắt thấy y đánh bại một trong Lục Đại Tôn Sư tà phái là Quỷ Vương Lịch Khinh Sinh nên cho rằng trên đời chỉ có Minh tướng quân mới tạm đáng làm đối thủ của y, còn như Truy Bộ Vương chưa có tư cách ấy.
Lại nghĩ Hắc Nhị tâm địa thiện lương, đãi mình không bạc, ít nhất cũng phải học xong Âm Dương Thôi Cốt Thuật mới không hổ thẹn với gã.
Nó nhớ Hữu sứ Phùng Phá Thiên của Mỵ Vân giáo từng bảo sinh nhật là ngày mùng bảy tháng tư, cảm giác con số “bảy” rất có duyên với mình nên quyết định đợi thêm bốn ngày, tích đủ “bảy” lạng bạc sẽ đào tẩu.
Kỳ thật nó cũng hơi quyến luyến Hắc Nhị dù trong lòng không chịu thừa nhận, lại không muốn lên kinh sư mà còn vương vấn nên thuận tiện tìm lấy một cái cớ vin vào, tâm tư trẻ con này người ngoài không thể biết được. Nó cũng không ngờ hôm đó Lâm Thanh trúng phục kích thụ thương bên ngoài kinh sư, nó có cảm ứng cũng là ý trời.
Tiểu Huyền học hành chú tâm, Quản Bình không cho Hắc Nhị biết lai lịch của nó nên gã không hề đề phòng, thỉnh thoảng gã ra ngoài để lại mình nó trong nhà xác, lúc quay về thấy nó vẫn suy tư bên tử thi nên càng yên tâm.
Bốn ngày trôi qua như thoi đưa, chập tối hôm đó, Hắc Nhị rủ nó đến phòng tắm nhưng nó thoái thác là mình đau đầu, không muốn ra ngoài. Nó vẫn là trẻ con, định trốn đi nên ngôn ngữ hành động lộ ra sơ hở, Hắc Nhị vốn hoài nghi nhưng nghe nó nói rằng thân thể không khỏe liền tan hết nghi ngờ, đâu biết nó đang dối trá.
Bảy ngày sống cùng nhau khiến tình cảm giữa gã với Tiểu Huyền sâu sắc dần, vội bắt mạch cho nó nhưng không tìm được bệnh gì, cho là nó cảm mạo phong hàn, ép uống một bát thuốc, trước khi đi còn dặn dò mấy câu.
Đợi gã đi rồi, Tiểu Huyền lập tức nhỏm dậy, chạy đến cửa lại hơi chần chừ, thầm nhủ Hắc Nhị một lòng với mình mà lẳng lặng bỏ đi không khỏi mất nghĩa khí, bèn tìm tìm cục than viết lại mấy câu. Nó nghĩ mãi không ra ý gì, đành học theo khẩu khí giang hồ hảo hán, viết mấy chữ: Núi xanh còn đó, sông lớn chảy hoài, có cơ hội sẽ gặp lại.
Nhìn lại hàng chữ, nó cảm giác quá cứng nhắc, thở dài rồi viết thêm mấy chữ: Hắc Nhị thúc là người tốt, cháu sẽ nhớ thúc thúc… nhất thời cảm động, con ngươi đỏ lên. Từ bé nó chịu ảnh hưởng của Thiên Mệnh Bảo Điển, tính cách thiên về mẫn cảm trọng tình, lúc sinh ly tử biệt này, tâm linh xáo động hơn người thường nhiều. Bất giác nó cảm thấy gian nhà xác đã sống mấy hôm nay cũng ấm áp, nếu không do thời gian khẩn bách, một thân một mình nên hoảng sợ, ắt đã mở các quan tài trân trọng cáo từ từng tử thi.
Lúc nó định đứng dậy chợt ánh đèn mờ đi, một bóng người xuất hiện ở cửa lối vào.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.