Từng có một người yêu tôi như sinh mệnh

Chương 6 - Part 2


Bạn đang đọc Từng có một người yêu tôi như sinh mệnh – Chương 6 – Part 2

Tôi cảm thấy hơi kỳ lạ, nhìn ngang nhìn ngửa cũng thấy anh chẳng giống người có thể chung sống hòa thuận với người không có một chút quan hệ.
Về nghi vấn của tôi, Tôn Gia Ngộ giải thích nhẹ như gió thoảng mây vờn: “Một ngày nào đó chết ở trong phòng thì cũng có người phát hiện”.
“Đúng vậy”. Tôi lại nhớ đến chuyện bị mất nụ hôn đầu, trêu anh một cách ác ý: “Nếu không thịt thối rữa ra cũng chẳng ai biết đến”.
Tôn Gia Ngộ quay đầu trừng mắt với tôi: “Em là con gái sao ăn nói độc địa thế?”
Tôi giả bộ oan ức bĩu môi: “Những lời tôi nói đều là sự thật, anh không thích nghe thì thôi”.
Tôi không nói dối một chút nào, Andre từng kể cho tôi nghe câu chuyện tương tự, khiến tôi buồn nôn suốt một tuần, nhìn thấy thịt là chạy mất dép.

Trong vụ án đó, một thương nhân người Phúc Kiến bị đồng hương giết chết rồi dóc thịt nấu chín rồi bỏ vào bồn xí, làm cho đường ống nước thải của nhà hàng xóm ở tầng dưới bị tắc nghẽn. Người hàng xóm gọi thợ đến sửa, sau khi thông đường ống mới phát hiện bên trong toàn là xương vụn và thịt thối rữa.
Người hàng xóm tưởng là xác chết chó mèo bị ngược đãi nên phẫn nộ báo cảnh sát. Cảnh sát thông ống cống ra bao nhiêu xương thịt và nội tạng, đến cuối cùng lòi ra ngón tay con người. Tất cả những người có mặt ở hiện trường đều sợ chết khiếp.
Vụ án này từng gây chấn động Odessa một thời, khiến giá thuê phòng tăng vọt, bởi vì người bản xứ không chịu cho người Trung Quốc thuê nhà.
“Anh hãy nói xem, ở trong nước không tốt sao? Cứ cố ra nước ngoài rồi bỏ mạng ở nơi đất khách quê người”. Tôi không thể hiểu nổi.
Nghe câu chuyện của tôi, Tôn Gia Ngộ đến chân mày cũng không thèm động đậy. Anh tắt máy rút chìa khóa, sau đó mới nói: “Em còn nhớ vụ án ở Trung tâm thương mại “Bảy km” không?”
Tôi gật đầu, trước đây anh toàn lảng tránh, cuối cùng hôm nay anh cũng nhắc đến sự kiện đó.
“Nạn nhân bị đâm hơn một trăm nhát dao, gần như không còn nguyên dạng, em biết tại sao không?”
Tuy tận mắt chứng kiến vụ án mạng nhưng tôi vẫn nổi da gà, lắc đầu lia lịa.
Phải thù hận đến mức nào mới chém người ta hơn một trăm nhát dao?
Tôn Gia Ngộ cười lạnh lùng: “Tên đó là người của tổ chức Thanh Điền, chuyên thu phí bảo kê ở trung tâm thương mại “Bảy km”. Hắn rất hống hách nên thương nhân ở trung tâm thương mại vô cùng ghét hắn. Khi họ không thể chịu nổi hơn, họ đã gom tiền thuê xã hội đen người Ukraine thanh toán hắn. Đáng tiếc là thằng đó mệnh lớn, nhận được tin báo từ trước nên chuồn mất. Nửa năm sau, hắn đột nhiên xuất hiện ở khu vực phụ cận, bị người nào đó phát hiện. Sau một cú điện thoại, cả trung tâm thương mại đóng cửa sớm, phần lớn đám thương nhân lùng sục mọi ngóc nghách tìm hắn, kết quả như em đã chứng kiến.”
Hai chân tôi mềm nhũn, gần như đứng không vững. Nhớ đến chuyện xảy ra ngày hôm đó, toàn thân tôi lạnh toát.
“Những kẻ ra tay chém người, phần lớn là đồng hương của hắn, là những thương nhân trong sạch không hề có tiền án. Người Triết Giang bình thường nói chuyện hòa nhã, đến lúc chém người không hề run tay. Em có thể đoán tên đó gây thù chuốc oán đến mức nào?”
“Vụ đó cuối cùng đã kết án chưa?” Tôi hỏi.
“Hơn ba mươi người tham gia, cảnh sát có thể tìm ai định tội chứ? Hội đồng hương xuất đầu lộ diện nhét ít tiền cho cảnh sát là xong. Chuyện xảy ra trong nội bộ người Trung Quốc, cảnh sát cũng chẳng thèm quan tâm”.
Tôi không thể nói ra lời, hóa ra sự thật là như vậy. Thảo nào Tôn Gia Ngộ dặn tôi không được khai với cảnh sát.
Andre cũng từng nói, kể từ khi người Trung Quốc đổ bộ vào Odessa, tỷ lệ phạm tội tăng đến mức chóng mặt. Do nơi này xuất hiện xã hội đen người Phúc Kiến và Triết Giang nên những thương nhân Trung Quốc nhiều tiền dễ trở thành con cừu béo và mục tiêu của kẻ xấu.
Vậy mà nhiều người vẫn đặt chữ “lợi” lên hàng đầu, mạng sống chỉ xếp thứ hai, thương nhân quả là người kỳ quái nhất trên thế giới này.
“Có điều…” Tôn Gia Ngộ quay đầu cười nhạo tôi: “May mà thủ phạm là đám thương nhân, nếu em gặp phải xã hội đen thật sự, em bị giết người diệt khẩu từ lâu rồi”.

Tôi bước chậm rãi sau lưng Tôn Gia Ngộ, cố gắng tiêu hóa câu chuyện biến thái của anh.
Ngôi nhà Tôn Gia Ngộ sinh sống có lối kiến trúc truyền thống kiểu Nga, nó vốn là của một quan chức chính phủ về hưu từ thời Liên Xô cũ. Trong nhà chỗ nào cũng xuất hiện dấu vết của năm tháng, đến tấm thảm trải sàn và rèm cửa đã cũ nhưng vẫn rất đẹp đẽ, phảng phất không khí cổ xưa.
Nhà bếp có phong cách Địa Trung Hải điển hình. Nhà bếp hình như vừa được sửa chữa lại, vài chỗ còn có vết lửa cháy đen. Bàn nấu ăn dụng cụ đầy đủ. Trên bếp ga đặt một cái chảo xào nấu của Trung Quốc.
Đây là một nhà bếp lý tưởng trong mộng ước của tôi, tôi reo lên một tiếng chạy vào bên trong: “Tôi làm món bắp cải chua cay nhé?”
“Em cũng biết nấu cơm cơ à? Tôi cứ tưởng nhà nghệ thuật là thần tiên không động đến khói bếp nhân gian”. Tôn Gia Ngộ đứng ở cửa bếp cười cười.
“Anh mới là nhà nghệ thuật, cả họ nhà anh mới làm nghệ thuật”. Tôi đáp trả anh.
Người không làm nghệ thuật lúc nào cũng tưởng nghệ thuật là lãng mạn xa vời lắm. Kỳ thực nghệ thuật cũng như các ngành nghề khác mà thôi, cũng gặp vấn đề sinh kế. Nếu không ăn no bụng thì nghệ thuật chẳng là gì cả, vì vậy “dân dĩ thực vi thiên” mới là chân lý vĩnh hằng. (Dân dĩ thực vi thiên: Dân lấy ăn làm trời)
Khi bắp cải và ớt khô được bỏ vào cháo dầu sôi sùng sục, cả nhà bếp cuồn cuộn khói nồng nặc, máy hút mùi kiểu Âu chỉ dùng để làm cảnh. Tôi bị sặc đến mức ho khù khụ, nước mắt chảy ròng ròng. Tôi đẩy cửa sổ để không khí lưu thông.
Vừa xúc thức ăn ra đĩa, tôi chợt nghe thấy tiếng gõ cửa dồn rập. Lúc đầu tôi không bận tâm nhưng bên ngoài tiếng đập cửa vẫn không ngừng vang lên, trong phòng không hiểu tại sao không có tiếng trả lời, tôi đành đi ra mở cửa, tay vẫn cầm cây xèng xào nấu.
Dây xích chống trộm ở cửa ra vào vừa tháo xuống, ai đó lập tức đạp mạnh cửa, hai người mang mặt nạ chống hơi độc xông vào nhà, đẩy tôi tới tận nhà bếp.
Tôi lùi lại phía sau vài bước đồng thời hét lớn: “Tôn Gia Ngộ!”
Tôn Gia Ngộ từ nhà tắm đi ra. Tôi hoảng hốt chỉ tay vào nhà bếp, miệng ấp a ấp úng.
Tôn Gia Ngộ không lên tiếng, anh nhấc cái ghế xông vào nhà bếp.
Tôi vội kêu lớn tiếng: Này…này…không phải…”.  Tôi vẫn chưa kịp dứt lời, Tôn Gia Ngộ mặt mũi nhăn nhó ra khỏi nhà bếp. Anh cẩn thận tiễn hai người đàn ông ra tận ngoài cửa.
Tôi hiếu kỳ thò đầu ra ngoài, thấy trước cửa đậu hai chiếc xe cứu hỏa.
Tôn Gia Ngộ quay lại, anh ngồi xuống ghế sofa đặt hai tay sau gáy thở dài: “Không biết ai nhiều chuyện thế, một tháng gọi cứu hỏa hai lần, chủ nhà sẽ quét tôi ra khỏi cửa mất”.
Lần trước bởi vì Bành Duy Duy, mấy người hàng xóm đáng thương sợ xanh mặt. Tôi biết mình đã gây ra chuyện nên tránh sang một bên nhìn anh cười cười.
Nụ cười của tôi dường như chọc giận Tôn Gia Ngộ, anh trừng mắt: “Em còn cười nữa tôi sẽ cởi áo khoàng tắm ra đấy”.
Đến lúc này tôi mới phát hiện anh chỉ mặc một cái áo choàng tắm, toàn thân vẫn đầy nước. Dây đai áo choàng buộc qua loa, có thể nhìn ra bên trong anh không mặc gì cả.
Mặt tôi đột nhiên đỏ bừng, tôi vội ngậm miệng quay ra chỗ khác. Tôi tin người đàn ông trước mặt nói được làm được.
Nhà bếp loạn hết cả lên, chỗ nào cũng phủ một lớp bọt trắng khá dày. Đĩa bắp cải chua cay của tôi tất nhiên không thể ăn được nữa, nồi thịt bò ở bên cạnh cũng bị liên lụy, tôi đành đổ hết vào thùng rác.
Tôi đúng là mất công chảy nước miếng, trong lòng vô cùng thất vọng nên không ngừng oán trách: “Những người này có mắt như mù, rõ ràng không có lửa bọn họ cứu hỏa gì chứ?”
Bắt gặp vẻ mặt chán nản của tôi, Tôn Gia Ngộ mỉm cười: “Được rồi, bây giờ em lại có việc để làm, quét dọn nhà bếp thôi”.
Anh thay quần áo, cùng tôi quỳ xuống đất giải quyết hiện trường. Chúng tôi làm lau chùi suốt hai tiếng đồng hồ, mới dọn dẹp sạch sẽ nhà bếp.
Cả ngày tôi chưa nhét thứ gì vào bụng, đói đến mức da bụng dính chặt vào lưng từ lâu, bụng không ngừng kêu ùng ục. Do động tĩnh quá lớn, đến Tôn Gia Ngộ cũng nghe thấy. Anh quay lưng về phía tôi cười khùng khục, sau đó anh giật tấm rẻ lau trong tay tôi: “Để đó đi, khi nào về rồi tính sau, chúng ta ra ngoài ăn cơm”.

Nhìn đồng hồ đã bảy giờ tối, tôi do dự đáp: “Ngày mai tôi còn phải lên lớp, anh hãy đưa tôi về nhà”.
Tôn Gia Ngộ kéo tay tôi ra ngoài: “Tôi vừa nghĩ đến một nơi, chắc chắn em sẽ thích. Mau đi thôi, tôi cũng đói sắp phát điên lên rồi”.
Bánh xe ma sát trên lớp băng đông cứng, Tôn Gia Ngộ lái xe về phía ngoại ô Odessa. Bên ngoài trời tối om, chỉ nhìn thấy tuyết bay trắng xóa ở đầu mũi ô tô, nơi có đèn pha chiếu sáng.
Không hiểu tại sao tôi đột nhiên cảm thấy sợ hãi, linh tính báo cho tôi biết sắp xảy ra chuyện gì đó. Tôi không nhịn được hỏi Tôn Gia Ngộ: “Chúng ta đi đâu đây?”
“Mang em đi bán!”. Gương mặt anh không có bất cứ biển hiện nào, anh giơ ngón tay lạnh buốt vuốt ve cổ tôi. Biết rõ là anh nói đùa nhưng tôi vẫn nổi da gà.
Ô tô dừng trước một ngôi biệt thự nhỏ ở vùng quê. Tôn Gia Ngộ xuống xe bấm chuông. Một bà lão người bản xứ mở cửa đón chúng tôi.
Tôn Gia Ngộ quay đầu gọi tôi: “Triệu Mai, lại đây!”
Tôi chầm chậm bước tới, anh nắm tay tôi giới thiệu với bà lão: “Nina, đây là bạn cháu”.
Bà lão mỉm cười gật đầu với và đưa chúng tôi vào trong nhà. Tôi chú ý thấy cơ thể bà gần như nghiêng về một bên, một chân dường như không thể điều khiển, khiến bà đi lại rất khó khăn. Nhưng bà vẫn cố giữ tư thế thẳng lưng.
Tôi dùng lực bóp tay Tôn Gia Ngộ. “Thảm họa nguyên tử Chernobyl”. Anh nói nhỏ bằng tiếng Trung.
Tôi từng có ấn tượng sâu sắc khi xem ảnh về vụ tai nạn hạt nhân trầm trọng nhất trong lịch sử năng lượng hạt nhân. Không ngờ mấy chục năm sau, tôi có thể gặp người bị hại của vụ thảm họa đó.
Bên trong ngôi biệt thự gần như trống không, chỉ bày vài thứ đồ gia dụng đơn giản. Trần nhà hình như có gió lạnh thổi qua, nhiệt độ trong phòng và bên ngoài gần như nhau.
Bà lão nói vài câu với Tôn Gia Ngộ, tôi chỉ nghe hiểu vài từ bữa tối, nhà bếp gì đó.
“Chúng ta xuống bếp, ở đó ấm áp hơn phòng khách”. Anh dịch cho tôi nghe.
Bữa tối rất đơn giản, chỉ có một nồi canh đặc, ít khoai tây nghiền và túi thịt Song Hối của Trung Quốc mà Tôn Gia Ngộ đem đến. (Song Hối là nhãn hiệu đồ ăn nhanh làm bằng thịt như xúc xích nổi tiếng Trung Quốc).
Tôi rơi vào tình trạng bụng đói quá độ nên ngồi ngây người trước bàn ăn, trong lòng thắc mắc không biết Tôn Gia Ngộ đưa tôi tới đây nhằm mục đích gì.
Anh gắp một miếng trắng trắng vào đĩa của tôi. Tôi hỏi bằng giọng nghi hoặc: “Đây là gì vậy? Đậu phụ?”
“Em nếm thử đi, món ăn nổi tiếng của Ukraine đấy”. Tôn Gia Ngộ mỉm cười, tôi cảm thấy nụ cười của anh không có ý tốt.
Tôi cắn một miếng, mùi vị cũng được, chỉ là cảm giác hơi là lạ. Tôi do dự một giây rồi lại cắn tiếp miếng nữa.
“Ngon không?”. Anh cười ngoác miệng.
Tôi gật đầu: “Rốt cuộc là món gì vậy?”
“Mỡ lợn”.
“Gì cơ?”
“Mỡ lợn ủ muối”. Tôn Gia Ngộ nở nụ cười đắc ý.

Tôi ôm miệng chạy thẳng vào nhà vệ sinh nôn sạch sẽ. Từ nhỏ đến lớn tôi không kén ăn nhưng có tật không động đến thịt mỡ ngoài nhân sủi cảo đã được xay nhỏ.
“Anh đúng là đồ chẳng ra gì?” Tôi tức giận đến mức chỉ hận là không thể đào hố chôn anh.
“Lại mắng người rồi”. Tôn Gia Ngộ vỗ lưng tôi, miệng vẫn còn lải nhải: “Chẳng phải em yêu cầu sao, thịt lợn và rau bắp cải, chúng ta chẳng thiếu một thứ gì”.
“Biến đi”. Tôi vẫn chưa hết tức giận.
“Cô bé không sao đấy chứ”. Trong gương xuất hiện hình ảnh bà lão với nụ cười hiền hậu: “Nếu không sao thì mời tới thư phòng uống tách cà phê”.
Bà lão nói tiếng Nga chậm rãi và rõ ràng, cuối cùng tôi cũng nghe hiểu câu này.
Vừa vào thư phòng, tôi lập tức ngây người như lạc vào mộng cảnh. Hóa ra nơi này là một thế giới hoàn toàn khác.
Bốn bức tường quanh căn phòng đều là giá sách, sách trên giá đều được phân loại và sắp xếp ngay hàng thẳng lối. Tôi đảo mắt quan sát một vòng, trên giá là tuyển tập piano, đĩa hát nhựa cổ xưa và nhạc phổ ca kịch. Cả căn phòng giống như một thư viện âm nhạc cổ điển, một góc tường đặt một chiếc piano cũ kỹ, nắp đàn đang mở, các phím đàn màu trắng đã chuyển sang màu ngà ngà. Bức tường phía trên cây đàn treo nhiều khung ảnh. Nhân vật chính trong những tấm ảnh chỉ có một người, một thiếu nữ người Nga xinh đẹp. Bối cảnh đằng sau là sân khấu, kịch viện, piano, hoa tươi…
Trên một tấm ảnh lớn nhất, một người đàn ông trung niên khoác vai thiếu nữ, cả hai có gương mặt từa tựa nhau. Tôi lén đưa mắt nhìn bà lão. Gương mặt bà đầy nếp nhăn, thật sự nhìn không ra bà và cô thiếu nữ trên các bức ảnh có đặc điểm chung nào.
Bà lão ra hiệu tôi ngồi xuống và cất giọng ôn hòa: “Mai, cháu tên là Mai đúng không? Tại sao cháu lại tới Odessa?”
Tại sao ư? Bởi vì nơi này giá cả không đắt đỏ, visa cũng dễ xin.
Tất nhiên là tôi không thể nói thẳng ra như vậy. Câu trả lời của tôi khách khí, đúng tiêu chuẩn ngoại giao: “Cháu rất thích Odessa, bởi vì nơi này là quê hương của hai nghệ sỹ piano vĩ đại Emil Gilels và Rikhter”.
Tôi bổ sung thêm một câu: “Còn Vitas nữa, Vitas đẹp trai cũng sinh ra ở thành phố này”.
Tôn Gia Ngộ ngồi bên cạnh lật cuốn sách, nghe tôi nói vậy, anh ngẩng đầu nhìn tôi và nở nụ cười mờ ám.
Tôi hiểu anh đang nghĩ gì, chắc anh cười tôi ngốc nghếch. Tôi được đà nói tiếp: “Rất giống ca sỹ trong “Lascia Ch’io Pianga”, thần bí đẹp đẽ, khiến con người mê đắm”.
Bà lão không nhịn được cười thành tiếng, cười đến nỗi nếp nhăn trên khóe mắt bà như bông hoa cúc nở nộ. Bà lão quay sang nói với Tôn Gia Ngộ: “Tuổi trẻ đúng là tuổi trẻ, tôi cũng có thời như vậy, thích một người đến mức sùng bái…”.
Khoan đã, trong đầu tôi lóe lên một tia sáng, người đàn ông trung niên trên tấm ảnh treo tường kia chẳng phải là Emil Gilels, nghệ sỹ nhân dân Liên Xô từng tốt nghiệp ở Học viện âm nhạc Odessa hay sao?
Nếu vậy, bà lão ở trước mặt tôi là…
Tôi đứng bật dậy, xúc động đến mức không nói ra lời: “Bà…bà là…”.
Bà lão lắc đầu ngăn tôi lại, nụ cười bà phảng phất nỗi chua xót khó diễn tả: “Tất cả đều đã qua rồi”.
Tôn Gia Ngộ đứng đằng sau bà lão, anh cau mày ra hiệu cho tôi, tôi lập tức ngoan ngoãn ngậm miệng. Nhưng tâm trạng của bà lão rõ ràng bị ảnh hưởng, bà lập tức viện cớ rời khỏi thư phòng.
Nhìn theo bóng lưng bà, tôi cảm thấy rất áy náy: “Tôi đã nói sai điều gì rồi à?”
“Không có, chỉ là em hơi ngốc nghếch”.
“Xì!”
“Xì gì mà xì?” Anh gõ vào gáy tôi.
“Sao anh quen bà ấy?”
“Bé ngốc, em không nhìn ra sao? Bà ấy chính là chủ căn hộ tôi đang thuê”.
“Hả?” Tôi mở to mắt: “Vậy tại sao bà ấy không sống trong thành phố mà ở nơi hoang vắng này?”
“Chồng bà ấy là cán bộ cao cấp của Liên Xô trước kia nhưng qua đời lâu rồi. Lúc đó tiền lương hưu của bà ấy vài ngàn rúp, sống rất thoải mái. Sau khi Liên Xô giải thể, lương hưu của bà ấy nếu đổi ở chợ đen chưa tới một trăm đô la Mỹ. Nếu không cho thuê nhà thì bà ấy sống bằng gì?”

Tôi không tiếp lời anh, im lặng một lúc mới cất giọng đầy sùng bái : “Nếu nhắc đến tên bà ấy, trong giới piano chắc mọi người sẽ ngả mũ kính phục”.
“Không sai, vài người cùng thời đại với bà đều giảng dạy tại một số Học viện âm nhạc ở các nước Tây Âu. Chỉ vì lý do sức khỏe mà bà ấy phải ở lại”.
Tôi vỗ tay: “Ôi trời, nếu bà ấy có thể chỉ dẫn tôi chơi piano, bắt tôi làm người hầu của bà mấy năm tôi cũng đồng ý”.
Tôn Gia Ngộ nhìn tôi, ánh mắt anh lóe lên một tia gian tà: “Đúng vậy, một lá thư tiến cử của bà còn hơn ba năm nỗ lực của em. Em thử xem có nên đối xử tốt với tôi hơn không?”
Tôi không bận tâm đến anh, cầm mấy quyển nhạc lật đi lật lại, nhưng tim tôi không ngừng đập thình thịch.
Tôn Gia Ngộ cười cười, anh cầm mấy cái đĩa hát nhựa đi về góc phòng. Góc phòng đặt một máy nghe nhạc cũ kỹ, giống đạo cụ trong phim điện ảnh đen trắng ở thập niên bốn mươi. Nhưng khi đĩa hát nhựa được bật lên, không khí đột nhiên êm dịu hẳn. Cả căn phòng lập tức chìm vào giai điệu ai oán của vở ca kịch nổi tiếng “Madama Butterfly”.
Tôn Gia Ngộ thuận tay đóng cửa. Anh rót một ly rượu vang rồi ngồi xuống ghế nhắm mắt giả bộ nghỉ ngơi.
Tôi đấu tranh tư tưởng một lúc, cuối cùng cũng không thắng nổi cám dỗ quá lớn. Tôi đi đến trước mặt anh ngồi xổm xuống, đồng thời cất giọng ngọt ngào: “Tôi muốn thương lượng với anh một chuyện có được không?”
Tôn Gia Ngộ mở mắt, anh chỉ tay lên đùi mình: “Ngồi lên đây, ngồi lên đây tôi mới thương lượng”.
Tôi trừng mắt với anh không chịu nhúc nhích. Tôn Gia Ngộ không thèm bận tâm đến tôi, lại nhắm nghiền mắt.
Tôi nghiến răng, tần ngần mất hai mươi giây mới chậm rãi ngồi lên đùi anh.
Khóe miệng anh hơi động đậy rồi nhếch lên, anh hỏi bằng một giọng lười biếng: “Em muốn thương lượng chuyện gì?”
“Anh thử hỏi bà ấy giúp tôi xem bà ấy có chịu nhận tôi không? Tôi sẽ trả phí phụ đạo”.
“Ồ, khẩu khí ghê quá”. Tôn Gia Ngộ hơi khép hờ mi mắt nhìn tôi: “Bà ấy không dễ dàng nhận học trò đâu. Trước tiên phải xem có tư chất không, không là thiên tài bà ấy sẽ không nhận. Hơn nữa tiền luyện đàn một giờ mười lăm đô la em còn chê đắt thì làm sao trả nổi phí phụ đạo cho bà ấy?”
Tôi biết mình đã nói sai, nhưng đáng hận hơn là anh có trí nhớ tốt, đến câu nói buột mồm của tôi anh cũng nhớ rõ.
Tôn Gia Ngộ đứng dậy kéo tôi lại gần, môi anh lướt nhẹ trên má tôi. Anh cất giọng dịu dàng: “Tối nay đừng về nữa, được không em?”
Tôi không lên tiếng, trong lòng hỗn loạn vô cùng. Tôi không phải là thiếu nữ mười sáu tuổi ngây thơ nên tôi biết rõ tiếp theo sẽ xảy ra chuyện gì.
Tôn Gia Ngộ tìm đến bờ môi tôi rồi ngậm chặt. Đây là nụ hôn vừa dịu dàng vừa mãnh liệt, không giống lần đầu tiên. Từ đầu đến chân tôi như bị điện giật, trong lòng chảy đầy mật ngọt.
Thanh củi vẫn cháy trong lò sưởi, phát ra tiếng kêu tí tách vui tai. Bên ngoài trời tuyết bay trắng xóa, trong phòng ấm áp như mùa xuân về.
Tuyết trắng, lò sưởi, âm nhạc, rượu vang, bầu không khí vô cùng mê hoặc, ngay từ đầu tôi đã biết anh luôn tìm cách quyến rũ tôi nhưng tôi không thể cưỡng nổi.
Tôn Gia Ngộ cúi đầu dùng miệng cởi từng cúc áo sơmi của tôi. Anh nâng ly rượu vang đổ xuống người tôi, bầu ngực tôi bỗng dưng lạnh toát. Môi và đầu lưỡi của anh lập tức áp sát, anh tham lam không ngừng liếm mút, khiến toàn thân tôi đông cứng.
“Hãy thả lỏng toàn thân, bảo bối, đây là một chuyện rất dễ chịu và kỳ diệu…”. Anh cất giọng trầm khàn bên tai tôi.
Khi Tôn Gia Ngộ tiến sâu vào người tôi, hai hàng lệ chảy dài bên khóe mắt tôi. Bởi vì đau, cũng bởi vì tôi đã kết thúc thời thiếu nữ sau hai mươi hai năm.
Con người luôn sợ hãi những biến số không biết trước.
Tôi biết bản thân đang đùa với lửa.
Mặc dù vậy, tôi vẫn tình nguyện.

Hết chương 3


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.