Tử Xuyên Tam Kiệt

Chương 42


Bạn đang đọc Tử Xuyên Tam Kiệt – Chương 42


Tử Xuyên Tam Kiệt
Tác giả: Lão Trư
Quyển 8: Phong hỏa liệu nguyên
—–oo0oo—–
Chương 3

Nhóm dịch: Tú Xuyên
Sưu Tầm by nguoibantot8 — 4vn.eu

Đội ngũ bạt thiệp trong núi, ban ngày hành quân, ban đêm nghỉ ngơi. Khi nghỉ, Tử Xuyên Tú thích ở cùng với các binh sĩ của các trung đội, nói chuyện phiếm với binh sĩ, vừa pha trò vừa lắng nghe ý kiến của họ, nắm không sót tình tiết nhỏ nhặt nào.

Biên chế của bán thú nhân quân đội khác xa với nhân loại. Quân đội của Tử Xuyên gia lấy sư làm đơn vị tác chiến lớn nhất, trong khi đó bán thú nhân sử dụng đoàn đội làm đơn vị tác chiến lớn nhất. Dưới đoàn đội, họ còn thiết lập liên đội, trung đội, rồi tiểu đội. Loại kết cấu này gần giống với biên chế quân đội của ma tộc. Do bán thú nhân quân đội là quân khởi nghĩa phản kháng Tử Xuyên gia chuyển thành, nên trong đội ngũ còn bảo trì phong cách tự do sáng kiến ban đầu. So với chế độ giai cấp thượng hạ sâm nghiêm của Tử Xuyên gia, quân đội bán thú nhân có mối quan hệ lỏng lẻo hơn nhiều. Quân quan đều do binh sĩ tự do tuyển cử, sự khác biệt giữa binh sĩ và quân quan rất nhỏ, nhưng quân quan lại phải đảm nhiệm số lượng công việc vô cùng nặng nề, cần vụ và sự lao dịch vô phiền tỏa trong khi họ lại không nhận được sự đãi ngộ đặc thù gì. Điều duy nhất được gọi là tuyệt đối với bán thú nhân là trong chiến đấu quân quan có thể xông lên hàng đầu!

Nếu so về tinh thần tự giác, quân đội của Tử Xuyên gia kém hẳn. Tử Xuyên Tú còn nhớ trước đây khi bản thân còn làm kỳ bổn, gã có quyền mang theo thị vệ và vệ binh riêng. Những quân quan cao cấp của nhân loại do đó dường như đọa lạc thành quân đội của quý tộc rồi, vì quân quan được quyền lợi nhiều quá, quá sướng, thiếu cảm giác và dũng khí dám xông tới mắt trừng mắt, dao đối dao liều mạng với địch. Từ đó, sĩ khí của toàn bộ đội ngũ cũng không phấn chấn lên được.

Tử Xuyên Tú đã từng quan sát kỹ đội ngũ của ma tộc. Binh sĩ của chúng kiêu dũng thiện chiến, nhưng chế độ quân đội của chúng cũng không ổn giống y như Tử Xuyên gia. Tầng lớp trên trong quân đội hầu hết là do hoàng tộc không hiểu biết gì hết chỉ huy. Ma tộc cấp thấp dù có năng lực cũng hiếm khi nhận được sự đề bạt. Sau thắng lợi trong chiến tranh Viễn Đông, loáng một cái ma tộc chiếm được địa khu quá lớn, tài phú cướp được chất chồng như núi, cho nên các quân quan ma tộc vốn rất kiên nhẫn và cương nghị trong việc hưởng lạc đã nhiễm dần thói xa hoa, càng lúc càng mất đi tinh thần thượng võ.

Tử Xuyên Tú không ngừng quan sát và thuận tiện chỉnh đốn đội ngũ. Trong đoàn đội của Duy Lạp, trong lúc nói chuyện phiếm, nhờ các binh sĩ tố cáo, Tử Xuyên Tú đã triệt chức của hai tư vụ trưởng mắc tội tham ô, giao cho các binh sĩ tuyển cử tư vụ trưởng mới mà họ tín nhiệm.

Trong đoàn đội của Bố Lan, gã cũng cách chức đổi hai trung đội trưởng chỉ thích sử dụng bạo lực với binh sĩ (Trong khi chính bản thân gã lại thích dùng quyền cước với các quân quan). Gã thiết lập chế độ khiếu nại và tố cáo, cho binh sĩ quyền tố cáo những quân quan đối xử thô bạo với họ, hoặc khiếu nại và bày tỏ sự không tin tưởng đối với các quân quan làm việc không xứng chức. Đối với những chuyện xung đột trong quân hay những va chạm gì đó, gã đều công chính điều giải, khiến cho hai bên bị xử và những người bàn quan không nói được lời gì. Binh sĩ đều cảm khái: “Có sự tình gì thì thỉnh đi tìm Quang Minh điện hạ!”

Không đến hai tuần, gã đã quen thuộc với chi quân đội này đến nỗi không những hiểu biết được tập quán sinh hoạt của các quân quan bán thú nhân, nắm rõ năng lực công tác của họ như trong lòng bàn tay, mà còn có thể tùy tiện gọi tên bất kỳ binh sĩ nào trong đội ngũ. Thậm chí gã còn gọi luôn cả tên riêng của cha mẹ hay vợ của họ. Đối với khả năng ghi nhớ siêu phàm này, các quân quan trong đội ngũ không ai không thán phục.

Về điểm này thì ngay cả các lão quân quan sống nhiều năm trong quân cũng không thể làm được! Các binh sĩ chưa bao giờ thấy trưởng quan nào như vậy: Gã là một kẻ có thể đối đãi bình đẳng với họ, trị quân công chính, hành sự công minh. Bọn họ hoan nghênh gã và yêu thương gã tận đáy lòng.

Nói ra thì cũng kỳ, cho dù Tử Xuyên Tú hòa ái thân thiện với họ như vậy, không ra vẻ hay kiểu cách gì, nhưng không có binh sĩ nào dám coi thường hay làm loạn ở trước mặt gã. Có những binh sĩ trong quân đã từng nhiều lần vào sinh ra tử, coi sống chết nhẹ như lông hồng, chai lì coi lời của quân quan chẳng ra gì, nhưng khi đến trước Tử Xuyên Tú, chỉ cần đôi mắt đen sâu thẵm của gã quét qua, không cần nói gì, chúng lập tức không thể chịu nổi, ấp a ấp úng ngay lời cũng nói thành câu, ngoan ngoãn như con dê nhỏ gặp phải sư tử vậy.

Những lúc này, Bạch Xuyên rất thích vây quanh Tử Xuyên Tú nhìn phải nhìn trái, nhăm nhăm dò xét xem cái tên mặt trắng này có điểm nào hơn người mà khiến cho binh sĩ kính sự như vậy. Các binh sĩ nói với nàng: “Quang Minh vương điện hạ không phải là người thường à! Trên người của ngài ấy có một cổ hổ khí, không cần nói gì cũng khiến cho người khác sợ hãi!”

Ngay cả những quân quan cao cấp cũng thường cảm thấy: “Quang Minh vương điện hạ phảng phất như một đầm nước sâu không đáy, là người bình dị gần gũi, ai cũng có thể tiếp xúc, nhưng không ai có thể tiếp cận người. Người hòa ái dễ thân, ngay cả hỏa phu ở thực đường có cấp thấp nhất mà Người cũng có thể ngồi xuống nói chuyện cả buổi, bàn chuyện thời tiết, chuyện hoa màu, ở trần đóng khố cùng mọi người ăn khoai lang nướng, nồng nhiệt như người trong nhà, nhưng không ai dám có nửa điểm khinh thị với Người.”

Trên người của gã có khí chất lẫm liệt, khiến cho binh sĩ yêu gã bao nhiêu thì cũng kính gã bấy nhiêu. Ngay cả kẻ có lòng hoài nghi nhất trong vụ Tử Xuyên Tú tiếp nhận chức tổng chỉ huy là Đoàn đội trưởng Duy Lạp cũng tán thưởng: “Trường lão tuyển cho chúng ta một người lãnh đạo không chê vào đâu được.”


Một đoàn đội trưởng khác là Bố Lan cũng tâm phục khẩu phục thừa nhận: “Trời giáng cho tộc ta bậc vĩ tài, đây chính là nhân vật thống soái trời sinh! Tá y tộc của chúng ta có hy vọng trung hưng rồi!”

Trên đường hành quân, mỗi khi đến trời tối, Tử Xuyên Tú triệu tập các quân quan tiến hành hội nghị, thương thảo đối sách. Do hình thế khẩn bách trước mắt, quan quân của đệ nhất đoàn và đệ thất đoàn đều cho rằng hai chi bộ đội tất phải kết hợp lại tạo lập ra một cánh quân mới có danh là “Viễn Đông tự do quân đoàn”.

Chúng quân quan đều nhất trí đề cử Tử Xuyên Tú đảm nhiệm chức Quân đoàn trưởng, nhưng gã rất khiêm tốn, không chịu đảm nhiệm chức tư lệnh quân đội, mà chỉ làm một tham mưu trưởng. Tuy nhiên, gã lại nắm hết quyền chỉ huy quân sự, tác chiến, hậu cần, quyền miễn và bổ nhiệm nhân sự cũng như các sự vụ trọng yếu khác. Gã không muốn xuất đầu lộ diện dẫn tới sự chú ý của ma tộc, nhường chức vụ quân đoàn trưởng cho Bố Sâm đảm nhiệm, cho y chuyên môn chủ quản công tác dọn dẹp vệ sinh. Ở dưới, gã cho thiết lập hai đoàn đội, phân biệt thành Viễn Đông tự do quân đệ nhất đoàn và đệ nhị đoàn. Đoàn trưởng đệ nhất đoàn là Duy Lạp. Đoàn trưởng đệ nhị đoàn là Bố Lan. Quân quan trong đội ngũ đều do binh sĩ đề cử.

Mệnh lệnh đầu tiên mà Tử Xuyên Tú hạ đạt là mọi binh sĩ bán thú nhân phải nhanh chóng học cưỡi ngựa. Trong trận đánh ở cạnh Lam hà, quân đội bán thú nhân đoạt được một lượng lớn chiến mã. Thừa biết sự cơ động của kỵ binh trong chiến tranh du kích quan trọng như thế nào, Tử Xuyên Tú dùng số chiến mã này trang bị hết cho đệ nhất đoàn, thành lập chi kỵ binh đầu tiên của Viễn Đông.

Chi quân đội này có trường huấn luyện là những con lộ nhỏ trên sơn khu. Các bán thú nhân thân hình to lớn nhìn chiến mã được phân phối ình, ai ai cũng hưng phấn phát cuồng, không nghe thầy dạy Bạch Xuyên chỉ dẫn gì hết, phóng bừa lên cưỡi. Kết quả là không quá ba phút sau, bọn chúng tên nào tên nấy cũng té ngồi dưới đất “Ai yêu ai yêu” xoa mông xoa đít, khiến cho bọn bộ binh đứng xem bên đường cười rống lên, sơn lộ tịch liêu lập tức đầy rẫy tiếng cười giỡn tếu đùa.

Từ trước đến nay bán thú nhân binh sĩ không giỏi về thuật cưỡi ngựa. Binh chủng truyền thống của họ là bộ binh, và quân nhân thường là những kẻ luôn biết giữ gìn truyền thống. Hơn nữa, bất kỳ nơi nào trên thế giới này, hễ có sự cải cách thì ắt có kẻ ngăn trở. Lần cải biến này khiến cho những phần tử ngoan cố trong đội ngũ đều đưa ra lời oán trách: “Điều này đi ngược lại chiến pháp truyền thống của Tá y tộc quang vinh chúng ta.”

Tử Xuyên Tú nghe được điều đó chẳng thèm nói gì, ngày hôm sau gã cho những binh sĩ đã học được thuật kỵ mã mở hết tốc lực cưỡi chiến mã tiền tiến, để cho đám ngoan cố không chịu học tập đó chạy bộ đuổi theo sau. Không đến mấy chục phút sao, đám bộ binh “Vác guốc phi nước đại” đó đã biến mất sau đám kỵ binh. Kỵ binh chạy một lúc hơn năm giờ đồng hồ, đến hoàng hôn thì Tử Xuyên Tú mới ra lệnh cho ngừng, cột ngựa hạ trại dưới bóng cây an nhàn nghỉ ngơi chờ đám phía sau. Họ chờ đến vầng trăng mọc trên đỉnh đầu, rồi chờ rạng sáng ngày mai thì đám gia hỏa này mới vác hành lý và vũ khí nặng nề lê chân kịp đến. Vóc dáng của họ đều thiểu não lắc lư, khí thở ồ ồ, mồ hôi khắp người, mặt không chút sắc.

Tử Xuyên Tú hòa ái nhìn bọn chúng bảo: “Các ngươi đến hay lắm, chúng ta đang chuẩn bị xuất phát đây, đi nào!”

Từ đó về sau, không còn ai đề cập tới “Chiến pháp truyền thống của Tá y tộc quang vinh của chúng ta” nữa.

Điều thứ hai mà Tử Xuyên Tú làm là khuyếch đại số quân quan tham gia vào lớp tập huấn “bình dân học vụ”, chiêu mộ một lượng lớn quan binh có chí của Tá y tộc tham gia.

Tử Xuyên Tú phát hiện, tuy nói đã tổ thành quân đội, nhưng ý thức chiến thuật của bán thú nhân cũng như trình độ của họ vẫn đình lưu ở thời kỳ thị tộc nguyên thủy. Lúc bọn họ tác chiến, không hề đánh theo trận hình hay đội ngũ gì, đừng nói chi đến chiến thuật hay thao lược. Khi tiến công, cả đám cùng “oa” một cái xông lên, thở xì cả khói chém giết địch nhân. Nếu như họ chém địc không chết, thì đành để cho địch nhân chém họ chết. Tử Xuyên Tú không thể không cải biến loại quan niệm này của bán thú nhân, giáo dục họ không phải chỉ nhìn thấy địch nhân là nhào tới đánh, mà trong tình hình bên mình bất lợi, có thể tạm thời tránh đi mà không phải xấu hổ gì.

Gã dạy cho bán thú nhân quân quan và binh sĩ các trận hình và chiến thuật tác chiến tiên tiến, làm thế nào để tiến công, làm sao để phòng ngự, sự phối hợp giữa các binh chủng như thế nào. Gã dạy họ làm sao để bố trận, làm sao để che giấu quân đội, làm sao để dùng kế nghi binh dụ địch phân tán binh lực, còn bên nhà thì làm thế nào để tập kết binh lực mạnh nhất quẳng vào cuộc chiến.

Khi tiến công, gã dạy họ nên tập kết binh lực như thế nào để chọc vào đâu trong đội hình địch; Ở chỗ nào nên dùng binh lực ưu thế của bản thân đánh tan địch quân trong cục bộ, hoặc làm sao để đánh địch ở các cánh. Trong tình hình bất lợi thì làm sao dùng cái giá nhỏ nhất để triệt thối. Khi phòng thủ thì đào hào bố trí chướng ngại vật ra sao. Làm thế nào để phối trí kỵ binh, lính đánh thương, lính bắn cung, thuẫn bài thủ, chiến đao thủ đánh sáp lá cà đến mức hữu hiệu nhất. Làm thế nào đả kích địch nhân ở mặt trước, bên hong và mặt sau.

Khi tác chiến, gã nhấn mạnh họ nên giữ một cánh quân khỏe làm đội dự bị như thế nào. Sau đó, họ nên tận dụng thời cơ thích hợp nhất để ném cánh sinh lực quân này vào để giành chiến thắng trên chiến trường ra sao….

Tử Xuyên Tú rất coi trọng đội dự bị này, gã thường treo ở cửa miệng câu nói: “Một trường đại hội chiến quy mô trăm vạn người, trong thời khắc quan trọng đầu nhập một trung đội vào cũng có thể quyết định thắng thua trong chiến tranh.”

Bán thú nhân quân quan nghe thế ai ai cũng mắt sáng rỡ lên. Sự tiếp xúc tư tưởng chiến thuật mới lập tức mở ra trong mắt họ một thế giới mà trước đó họ không thể nào tưởng tượng: “Thì ra khi đánh nhau còn có thể đánh theo kiểu đó!”

Tầm mắt của bọn họ rộng mở, sự sùng bái đối với Tử Xuyên Tú ngày một gia tăng.

Ngay cả những quân quan trước đó còn có thành kiến với nhân loại, hiện giờ phát hiện chỗ đáng quý của Tử Xuyên Tú, bắt đầu nghe lời gã răm rắp. Số tự nguyện báo danh tham gia lớp học của Tử Xuyên Tú càng lúc càng đông. Có những lúc chỗ dành để ngồi trong lớp không đủ, rất nhiều người phải đứng ở cửa nhìn vào suốt hơn mấy giờ.


Bán thú nhân là những kẻ bị làm ông muội nhiều năm. Một khi tiếp xúc được bến bờ tri thức, họ lập tức như con người lạc giữa sa mạc liếm hạt nước trên môi, thèm khác hút sạch, ngay cả mắt cũng lộ ra khát vọng vô bờ. Vô luận là Tử Xuyên Tú nói gì, bọn họ đều tụ tập hết tinh khí thần dùng cuốn sổ lá cây trong tay ghi chép lại hết. Khi bài giảng kết thúc, mọi người đều đem những gì mình ghi nhận được tổng hợp lại, bổ sung những chổ thiếu, xì xào bàn luận cho đến nửa đêm mà vẫn chưa ngủ.

Bạch Xuyên đối với chuyện này có hơi lo ngại: Một khi dân tộc cường hãn dũng cảm thế này mà tiêp thụ kết hợp được với tư tưởng quân sự tiên tiến, họ sẽ nhanh chóng mạnh lên, liệu như thế thì sự an toàn của nhân loại có bị uy hiếp hay không? Những lúc có dịp nói chuyện riêng, nàng đem lo ngại này nói cho Tử Xuyên Tú hay.

Tử Xuyên Tú ngẫm nghĩ một chút, đáp: “Chúng ta không còn lựa chọn nào khác. Trước mắt, nếu như không đề cao chiến lực của bán thú nhân, họ không có cách gì đối kháng với ma tộc. Cho dù bán thú nhân chủng tộc có nhanh chóng cường đại, nhưng do họ không có đặc tính thích xâm lược, bọn họ sẽ trở thành bích lũy kiên cường phòng ngự ma tộc giúp cho nhân loại chúng ta.”

Tử Xuyên Tú cũng phát hiện quân đội bán thú nhân có một nhược điểm rất lớn: Đó là quan hệ trên dưới khá tự do và lỏng lẻo.

Phàm chuyện gì có lợi tất có hại, điều này đã khiến cho bán thú nhân quân đội thiếu tính kỹ luật nghiêm cách. Có thể là nó có liên quan đến tính cách chủng tộc của họ: phần lớn bán thú nhân có tính cách xuề xòa, ôn hòa, không chuyện gì là không thể làm được. Nhưng bọn họ cũng rất dễ bị kích động đến nhiệt huyết phi đằng. Đến lúc này, bọn họ chém giết rất hung ngoan, cơn điên đủ giúp họ đấu ngang với bất kỳ quân tinh nhuệ nhất của bất kỳ chủng tộc nào. Nhưng khi thời gian chiến đấu kéo dài, sự xung động qua đi, họ sẽ bị xì hơi tiết khí, chỉ cần có người lớn tiếng hô: “Đi thôi! Thì cả đám sẽ bất ngờ biến thành một đám cát, chạy tán loạn vô ảnh vô tung.

Lực bạo phát của họ mạnh hơn bất kỳ chủng tộc nào, nhưng sự dai sức và tính kiên nhẫn của họ kém xa các chủng tộc khác.

Danh tướng của Tử Xuyên gia là Tư Đặc Lâm ngày trước đã dùng phương pháp đánh trúng vào nhược điểm họ: Lập trận thủ kỹ, chờ cho duệ khí của bán thú nhân quân đội giảm rồi, liền phái một chi thiết giáp kỵ binh từ bên cánh xuất kích, dễ dàng đánh tan được bọn họ.

Như vậy, nếu không cải biến đặc tính này, vô luận là truyền thụ cho bán thú nhân chiến thuật tiên tiến gì, cuối cùng họ cùng sẽ là những kẻ chạy trốn không còn manh giáp.

Để cởi bỏ tập tính dân quân của bán thú nhân này, Tổng tham mưu trưởng Tử Xuyên Tú hạ đạt mệnh lệnh thứ ba: Chỉnh đốn quân kỷ, tiến hành huấn luyện quân sự chánh quy đối với binh sĩ.

Gã chế ra quân quy nghiêm lệ, triệu tập các binh sĩ lại tuyên đọc, mở đầu bằng bài diễn văn:

“Các ngươi vì sao mà tác chiến?

“Hãy nhớ rõ, đó không phải là vì trưởng quan của các ngươi, cũng không phải vì đồng lương của các ngươi, mà là bảo vệ tổ quốc của các ngươi!

“Không được nói các ngươi không có tổ quốc. Tổ quốc của các ngươi là Viễn đông, đó chính là thánh miếu, là quê nhà của các ngươi, hoa màu của các ngươi, phụ mẫu vợ con của các ngươi!

“Các ngươi tác chiến là vì bảo vệ tài sản trong nhà các ngươi không bị ma tộc hoành hành tước đoạt, vì mẹ cha ở nhà của các ngươi không bị ma tộc chém giết, vì vợ con của các ngươi không bị dị tộc khi nhục!

“Hãy nhớ, các ngươi hôm nay không phải các ngươi hôm qua, hoàn toàn đã là những kẻ khác biệt một trời một vực! Các ngươi không còn là quân sĩ phụ trợ làm trảo nha a tộc nữa, càng không phải là loại dân binh ô hợp tán loạn du đãng đó đây.

“Các ngươi hôm nay là những cánh quân chính quy đầu tiên của Viễn Đông, là niềm hy vọng của Viễn Đông dân tộc!

“Kiếp nạn của tổ quốc chưa bao giờ thâm trọng như ngày nay. Ngoại trừ Vân tỉnh, hai mươi hai hành tỉnh ở Viễn Đông không đâu không bị ma tộc ngược hại. Toàn bộ Viễn Đông đều đang mở to con mắt ngẩng mặt trông chờ vào chúng ta! Sự kỳ vọng của tổ quốc đều nằm trên người các ngươi!”


Sau lời diễn thuật đơn giản, bán thú nhân binh sĩ trầm mặc thật lâu, rồi cùng ồ lên hoan hô nhiệt liệt, tiếng vỗ tay như sấm, có người còn chảy nước mắt nói: “Tổ quốc! Chúng ta có tổ quốc rồi!”

Người Viễn Đông trường kỳ chịu sự thống trị và áp bức của dị tộc, nên hơn một nghìn năm nay họ đã quên sử dụng luôn từ ngữ đó rồi. Nhiều kẻ trong số họ lần đầu tiên trong đời nghe được từ ấy. Và họ đã cảm thụ được sự tự hào dân tộc, cảm giác bản thân xác thật là đang gánh một trách nhiệm thật nặng nề.
Binh sĩ có được giác ngộ đó thì vô luận là họ phải chịu cực khổ thế nào, họ cũng có thể vượt qua. Do đó, họ sẽ tuyệt đối chấp hành đối với mệnh lệnh huấn luyện dường như là lãnh khốc vô tình của Tử Xuyên Tú mà không oán than gì. Bọn họ cam chịu huấn luyện cường độ cao có ý thức của Tử Xuyên Tú, trong vòng một ngày hành quân bốn chục km trong đường núi gập ghềnh, chịu mọi đói khổ, khoác tấm thảm mỏng hành quân trong giá rét liên tục mấy ngày trong vùng không thấy bóng người, chỉ có thể ngủ ngoài trời ăn trái dại. Đối với những điều này, họ đều không oán than một lời, tình nguyện chịu đựng. Khí khai nam nhân anh hùng ấy đã khiến Bạch Xuyên cảm động rất sâu sắc: “Có quân đội như vậy, binh sĩ như vậy, bán thú nhân chủng tộc tất nhiên có thể quật khởi!”
Kinh qua hơn một tháng huấn luyện đặc biệt, toàn bộ đội ngũ đã biến đổi hẳn. Tinh thần mà bọn họ thể hiện ra khác hẳn với trước khi tiến nhập vào rừng, binh sĩ trở nên phiêu hãn, ý chí cứng rắn như sắt.
Rong ruỗi hơn một tháng qua dãy núi Áo Luân gian nan hiểm trở, người hướng đạo của đội ngũ dùng thần tình trang trọng báo cáo với Tử Xuyên Tú: “Đây là mỏm núi cuối cùng, đại nhân, vượt qua chỗ này, trước mặt là vùng bình nguyên rồi!”
Đội ngũ bạo phát một trận hoan hô nhiệt liệt: “Vạn tuế!” Trong vùng núi Áo Luật tịch mịch ấy, họ đã dò dẫm đi quá lâu rồi, bây giờ sắp sửa xuống bình nguyên hòa nhập vào thế giới nhiều sắc màu, binh sĩ không ai không hưng phấn.
Ở đỉnh mỏm núi ấy, Tử Xuyên Tú chóng mắt nhìn ra xa, thấy dãy tuyết trắng phản ảnh một vùng đất rộng lớn phảng phất như không có tận đầu. Trên vùng đất tuyết ấy có vô số điểm đen nhỏ, đó chính là vô số thành thị, hương trấn, thôn xóm. Đây là bình nguyên lớn nhất của Viễn Đông, và là địa khu phồn hoa nhất: bình nguyên Minh Tư Khắc! Lúc này, mặt trời đang lặn xuống đằng tây, mọi cảnh sắc mắt thường có thể nhìn thấy đều chìm trong cảnh chiều tà. Nơi tận đầu của đại địa, mặt trời từ từ hạ xuống, chút ánh sáng le lói cuối cùng tỏa đầy ánh sáng hồng trên tuyết.
Hơn sáu nghìn quan binh khởi nghĩa đứng trên đỉnh núi, lòng tràn đầy hi vọng nhìn cảnh tượng này, lặng im phăng phắc.
“Chúng ta cuối cùng cũng đến rồi.” Tử Xuyên Tú nỗ lực khiến cho của lời mình không động chút tình cảm nào: “Trước mặt quân ta là vùng đất bằng phẳng.”
Tướng lĩnh sau lưng gã gật đầu, có kẻ rơi lệ.
Vào chiều ngày 27 tháng 1 năm 71, Tử Xuyên Tú soái lĩnh bán thú nhân quân đoàn thông qua dãy Áo Luân nằm ở đông nam bộ Minh Tư Khắc thoát khỏi truy binh của ma tộc, đột ngột xuất hiện trên bình nguyên Minh Tư Khắc.
Trời đã đổ tuyết lớn, cánh đồng tuyết vạn dặm trắng hực. Dưới chân dãy Áo Luân, quân khởi nghĩa lập trại trong rừng đã rụng sạch lá.
Sau khi tuần tra xong doanh trại, trở về lều chỉ huy đã đốt lửa hồng, các bán thú nhân quân quan vào cuộc họp. Bố Lan báo cáo với Tử Xuyên Tú rằng trong đội ngũ đã có mấy chục binh sĩ bị tổn thương do giá rét. Duy Lạp thì trình bày tình cảnh dù đã cố dùng đủ biện pháp hạn chế ăn uống, nhưng do lâu quá không bổ sung, lương thực dự trữ trong đội ngũ sắp cạn rồi. Y còn bổ sung rằng, ngay cả củi nấu và than sưởi ấm cũng bắt đầu thiếu khuyết.
Tử Xuyên Tú an tĩnh lắng nghe. Ngọn lửa lấp lánh ánh lên mặt gã, khiến gương mặt đẹp trai đỏ hồng. Tình huống vừa được báo cáo gã đã phát giác lúc tuần tra hồi chiều rồi. Chiến sĩ mệt mỏi và tiều tụy, trong những ngày băng giá thế này mà phải ở ngoài trời, ai ai cũng rúc vào trong thảm hành quân trong doanh trướng mà run bần bật. Sự giá lạnh của Viễn Đông thậm chí khiến nước đóng thành băng, nếu cứ tiếp tục như vậy, không đợi tới khi giao chiến với ma tộc thì đội ngũ của gã đã chết sạch vì đói rét rồi.
“Chúng ta cần phải tìm một căn cứ chống lạnh qua mùa đông này.” Tử Xuyên Tú bất tri bất giác nói thành lời.
Các bán thú nhân quân quan đưa mắt nhìn nhau, lòng đều nghi ngờ. Y chiếu theo binh lực bạc nhược của nghĩa quân hiện nay, đừng nói gì đánh rát vào đại thành hay trọng trấn gì, mà dù có muốn diệt gọn bọn ma tộc thủ ở trong các thôn xom không cũng khá khốn khó rồi.
Nhưng hiện giờ, nghĩa quân đích xác là cần một chỗ nào đó để thoát khỏi mùa đông khắc nghiệt này.
Duy Lạp giới thiệu: “Tôi biết ở gần đây có mấy cái thôn, có vẻ xa xôi hẻo lánh, đội thủ bị của ma tôc ở đó không nhiều.”
Tử Xuyên Tú lắc đầu lia lịa, phủ quyết lời đề nghị của Duy Lạp. Ưu thế duy nhất của quân khởi nghĩa là hành tung bí mật: hiện giờ ma tộc không biết họ đã đến đây. Nếu như bọn gạ bây giờ chạy ra tập kích đội thủ bị của ma tộc ở các thôn xóm, chẳng khác nào báo với ma tộc rằng: “Chúng ta đến rồi nghe, mau đi phòng bị đi!”
Bố Lan khôi hài nói: “Đúng a, Duy Lạp, chỗ của ngươi khỉ ho cò gáy, điện hạ đương nhiên nhìn không hợp. Điện hạ, tôi biết gần đây có mấy tiểu thành, nghe nói phòng ngự không mạnh lắm, thành tường cũng không cao, chúng ta có thể thử coi?”
Tử Xuyên Tú vẫn lắc đầu, gã rất rõ là về mặt chiến thuật, tính đột nhiên và sự xuất kỳ bất ý là ưu thế duy nhất của bên nhà. Nếu như dùng ưu thế này đi đổi một tiểu thành tiểu trấn nghèo nàn, quả thật là quá lỗ vốn. Gã hỏi: “Vậy gần đây có thành thị nào lớn một chút không? Loại thành có tường kiên cố, lương thực tồn trữ phong phú, có thể sánh với Mạt Y thành làm một bảo lũy kiên cố vậy?”
Các bán thú nhân quân quan đưa mắt nhìn nhau. Bọn họ đều không hiểu Tử Xuyên Tú định làm cái gì. Chỉ dựa vào có hai đoàn đội binh lực đơn bạc này mà động tới những thành trì đại quy mô thì chẳng phải là người ngây nói mộng hay sao?
Duy Lạp giới thiệu: “Thành trì lớn nhất ở đông nam bộ Minh Tư Khắc là Khoa Nhĩ Ni thành, tường cao tám mét, có hộ thành hà, trong thành có ba đoàn đội ma tộc bộ binh thủ bị.”
Nhìn thấy mọi người không phản ứng gì, y vội bổ sung thêm: “Khoa Nhĩ Ni thành còn là kho lương tồn trữ lớn nhất của ma tộc ở Viễn đông trung bộ!”
Y lại mô tả sống động ọi người nghe: “Trong Khoa Nhĩ Ni thành, từng kho lương dựng đứng nối tiếp nhau. Trong mỗi kho lương có lương thực mới chất chồng như núi, đó là số mà ma tộc cướp bóc được từ các hành tỉnh chuyển về, đủ a tộc trú quân ở Minh Tư Khắc hành tỉnh sử dụng nửa năm!”
Mọi ngừơi đều động dung: Lương thực! Đây là thứ quân khởi nghĩa cần nhất hiện giờ.
Bố Lan cũng giới thiệu: “Ngõa Lâm cũng là một thành lớn của Viễn Đông, trong đó trú đóng một đoàn đội của ma tộc, thành tường không quá cao, cho dù có chánh diện cường công chúng ta cũng có cơ hội đoạt lấy. Ngoài ra còn có Á Gia Nặc thành, ở đó có hai ma tộc đoàn đội, nếu như đánh lén, chúng ta cũng có cơ hội… Đô Lan thành cũng không tệ, là kho hậu cần quân nhu của ma tộc, phòng ngự khá lỏng lẽo, nhưng vấn đề là ở quá gần Minh Tư Khắc An, chỉ cách có năm chục km, ma tộc chỉ phản công nửa giờ là chúng ta chống không lại…”
“Ta cảm thấy Đạt Lỗ thành cũng không tệ, chỉ có điều ma tộc trú thủ trong đó khá nhiều…” Duy Lạp cũng nghiêm túc thảo luận. Y với Bố Lan trước đây đã từng ở trong quân đội ma tộc, cho nên đối với tình hình trú quân của ma tộc ở Minh Tư Khác hành tỉnh khá rành.
Tử Xuyên Tú tĩnh lặng nghe hai vị đoàn đội trưởng thảo luận, trong lòng cừơi khổ không dứt. Trong tình hình hiện tại bọn gã là một đám nghèo rớt mồng tơi thế lại thèm thuồng bàn luận lựa chọn chỗ nào có châu báo lấp lánh ngũ quang để đi lấy. Gã lên tiếng ngắt cuộc thảo luận của hai người, hỏi: “Thành nào gần chúng ta nhất?”
“Bẩm cáo điện hạ, là Khoa Nhĩ Ni thành.”
“Vậy chúng ta đến đánh Khoa Nhĩ Ni thành.”
Mọi người kinh ngạc đến trợn mắt há mồm, Duy Lạp ấp úng nói: “Nhưng… nhưng mà, điện hạ, Khoa Nhĩ Ni trú quân quá nhiều, vượt quá quân đội của chúng ta! Muốn cường công ba đoàn đội ma tộc dựa vào thành chắc phòng vệ, binh lực của chúng ta phải nhiều hơn gấp bội… không, e rằng phải gấp năm cũng chưa được a!”
“Ta có một ý tưởng.” Tử Xuyên Tú mỉm cười đem kế hoạch nói ra.
Mọi người hầu như đều cười ngất, lớn tiếng rống to: “Đây thật đúng là trò đùa! Đánh nhau làm gì có chuyện giản đơn như vậy!”
“Thử thử rồi xem, nếu như không thành cũng đâu có tổn thất gì đâu!” Quang Minh Vương từ tốn nói.
—o0o—
Ngày 30/1/781 đế quốc lịch, trời tờ mờ sáng, sắc trời mới chớm, bầu trời bị mây dày che kín, bông tuyết đua nhau rời đầy. Trên đầu thành Khoa Nhĩ Ni, trọng trấn phía đông nam của Minh Tư Khắc, lính cạnh ma tộc đang lười nhác trực ban đột nhiên đứng thẳng người, dụi dụi mắt, thấy ở chỗ tiếp giáp đất trời xa xa đùn lên một làn sương mù màu lam khó phân biệt. Trong đó dường như có gì đang hoạt động, đang đến gần, bóng người dày đặc, rõ ràng là một lộ quân đội đang đến! Lính canh cảm thấy đầu óc choáng vác, hay là bản thân tối qua uống nhiều quá, say rượu chưa tỉnh? Nhưng y nhanh chóng thanh tỉnh trở lại, chạy về phía tiểu đội trưởng trực ban báo cáo tình hình, “Đương đương đương” tiếng chuông báo động lập tức vang vọng khắp các đầu thành.
Tư lệnh của quân ma tộc trú đóng Khoa Nhĩ Ni cảm thấy khó hiểu, gần đây không có lưu khấu với quy mô lớn xuất hiện ở gần, xem ra lộ binh mã này của địch nhân có khả năng là không lớn, hơn nữa binh mã là từ phía tây bắc mà tới, cũng là phương hướng thủ phủ Minh Tư Khắc An của Minh Tư Khắc hành tỉnh. Nhưng nếu từ đó có phái bộ đội tăng viện cho y, vì sao y không hề nhận được thông tri trước?
Y mê hoặc khó hiểu, tự trèo lên đầu thành nhìn. Đội ngũ ào ạt đi tới, biến thành một trường xà trận dài vô bỉ, uốn éo gấp khúc, càng đến càng gần. Dần dần, ma tộc ở đầu thành có thể nhìn rõ đám binh mã này. Quân tiền phong bức lại gần nhất có hơn nghìn kỵ binh, tiếp đó là đại đội bộ binh, phía trên đội ngũ là đầu mâu dựng như rừng, dưới ánh mặt trời mùa đông lấp lánh đầy phản quang.
Tư lệnh trú quân thở phào một hơi dài, rõ ràng là đây là một cánh quân chính quy. Lưu khấu hành quân tuyệt không có khí thế ngưng trọng thế này. Chờ đội ngũ tiếp cận hơn một chút, y phát hiện, trong đội ngũ này toàn là binh sĩ bán thú nhân, mặc toàn quân phục của ma tộc. Đây là cánh bán thú nhân – là loại quân phụ trợ của ma tộc. Nhưng y có điểm không thoải mái: từ thủ phủ của hành tỉnh phái quân tăng viện tới đây mà vì sao không thông báo cho y biết trước.
Y ra lệnh cho bộ hạ bên cạnh: “Không cần đóng cửa thành.” Trước mặt quân đồng minh mà đóng cửa thành là hành vi rất thô lỗ. Y không muốn chọc giận viện quân bán thú nhân gì, nhưng cũng đề phòng, hạ lệnh cho đội cung tiễn thủ bị lên tường thành cảnh giới, hơn nữa phái ba quân quan ma tộc đến điếu kiều ở cổng thành giám đốc cảnh giới, chỉ cần hình thế có chút không ổn thì nổi cảnh báo, lập tức chém dây thừng đóng cửa.

Đội ngũ của Bán thú nhân vẫn bảo trì tốc độ không nhanh không chậm, tự động dừng chân trước cổng thành năm chục mét. Một người thổi kèn hiệu bước ra hướng về cổng thành thổi lên kèn hiệu kính chào. Tư lệnh trú quân mỉm cười, nói với bọn tả hữu: “Đám người dã man này cũng biết lễ mạo đó chứ, chí ít bọn chúng giả vờ biết chuyện trước mặt chúng ta.”
Kẻ thổi kèn ở đầu thành thổi đáp lại lời chào, đội nghênh tiếp vác cờ xí chạy ra, ngày từ xa xa đã quát hỏi: “Cổ tích già tạp!”
Các bán thú nhân quân quan lộ vẻ kinh hoàng. Tử Xuyên Tú nhỏ nhẹ an ủi họ: “Đừng có sợ! Bọn chúng đang hỏi phiên hiệu bộ đội của các ngươi và mục đích đến đây.”
Lão bán thú nhân Đức Luân biết ngôn ngữ của ma tộc bước tới, đối với các ma tộc kỵ binh lí xô lí xào nói không dừng. Không cần nghe Tử Xuyên Tú cũng biết là ông ta lại giở trò buôn bán “Viễn đông liên hợp quân đoàn đội 571” y như cũ rồi. Lần này không biết là ông ta lại đổi thành trò gì để lừa người. Trong những hành động giả mạo những lần trước, Đức Luân tựa hồ tìm được lạc thú từ trong hành động đầy nguy hiểm này, vừa có cơ hội là ông ta tự nguyện ra sức, vui mừng khi được cho phép, và trổ tài diễn kịch đến mức lô hỏa thuần thanh.
Một kỵ binh quân quan thần sắc ngạo mạn của ma tộc sau khi kiểm tra các loại chứng minh của Đức Luân xong, cảm giác rất kỳ quái. Chi bán thú nhân quân đội này tuy có các lại chứng minh thân phận xác thật không chê vào đâu được, nhưng bọn họ tuy xưng là được quân khu của hành tỉnh phái tới, nhưng lại khuyết thiếu đạo mệnh lệnh phái khiển do Tạp Lạp tướng quân ký, khiến y cảm thấy thật bất ngờ. Y dùng ánh mắt hoài nghi nhìn Đức Luân, muốn từ thần tình ung dung của lão bán thú nhân này nhìn ra cái gì đó.
Đức Luân chậm rãi ngáp dài, nói là mệnh lệnh phái khiển trên người quan phó của mình, và y đang ở trong đội hậu cần ở phía sau, phải hết một ngày nữa mới tới. Hiện giờ cần phải nhanh chóng cho bộ đội vào thành nghỉ ngơi, do gấp hành quân suốt cả đêm, binh sĩ đều mệt mỏi hết rồi, vừa lạnh vừa đói.
Ma tộc quân quan do dự một chút, nói bản thân không thể đồng ý ột chi quân đội thân phận bất minh tiến vào thành, thỉnh các ngươi ở nguyên địa lập trại nghỉ ngơi, chờ phó quan của ngươi đem mệnh lệnh đến, kinh qua sự kiểm tra của chúng ta mới được tiến thành.
Bán thu nhân tham dự giao thiệp giống như nghe được một mệnh lệnh vô cùng bất hợp lý vậy, toàn bộ nhảy dựng cả lên, tranh cãi thật hung, nào là đi hai chục ngày không ăn đói muốn chết luôn rồi. Còn đoàn đội trưởng Đức Luân đại nhân thì hừ hừ lạnh lẽo, làm ra vẻ ta không thèm nói chuyện với ngươi, lớn bước tiến về cửa thành. Mấy chục bán thú nhân la hét inh ỏi đi theo sau y, rung người bắn ra những cọng lông dài ghê người, khua động đao kiếm đinh đinh đang đang, ra vẻ rất dữ dằn giống như nếu có tên to gan lớn mặt nào dám cản trở các ông, thì đao kiếm này sẽ lập tức chém thẳng lên đầu hắn.
Tên quân quan ma tộc hoảng sợ. Trước đó quan hệ giữa ma tộc và bán thú nhân đã không tốt đẹp gì, hiện giờ nếu như gây nên vụ đụng chạm, không ai có thể nổi trách nhiệm to lớn nà vội chạy đến cạnh Đức Luân, cố dùng lời khuyên can, bảo đảm với Đức Luân rằng để cho binh sĩ lao nhọc cả đêm vừa mệt vừa đói hạ trại ở giữa băng tuyết thế này là không hợp lý chút nào. Bản thân y vô cùng lý giải tình cảnh của đoàn đội 571 này, nhưng nếu muốn thượng ti của y, cũng chính là tư lệnh của ma tộc trú thủ thành này hiểu điểm ấy thì cần phải có chút thời gian.
Đức Luân cứ bực dọc sờ sờ cán đao, nhếch mép lừ mắt nhìn tên quân quan ma tộc. Cửa thành mở toang cách họ không đến mười mét. Y hoàn toàn có thể dùng một đao chém đứt làm đôi tên nhiều chuyện này, xong dẫn hơn bốn chục người bên cạnh lập tức xông vào. Có khả năng đến kịp lúc bọn ma tộc chưa kịp đóng cửa khống chế chúng, sau đó đại quân ào ạt tiến vào. Đây quả thật là một sự dụ hoặc cực lớn.
Đến lúc nà nhìn thấy Tử Xuyên Tú trong đội ngũ lắc đầu lia lịa đối với y, thế là Đức Luân vô cùng bực dọc nói: “Đi đi đi, mau đi đi! Cho ngươi hai phút, nếu không dù có công thành chúng ta cũng tiến vào!” Bán thú nhân binh sĩ đều hiểu rõ câu nói này không còn gì chân thật hơn.
Quân quan của ma tộc ngầm mắng loạn trong lòng, nhưng mặt vẫn mỉm cười vội vã quay đầu ngựa chạy đi thỉnh ý chỉ.
Tử Xuyên Tú thuận tay kéo mép mũ trụ xuống thấp hơn nữa, dùng viền cổ che kính mặt mình. Gã cũng mượn thân khu to lớn của bán thú nhân để ẩn giấu thân ảnh ốm o của hắn. Tuyết bay đầy trời nhẹ đáp lên thân thể các chiến sĩ. Chiến mã không nhịn được phiền khịch mũi, móng đạp liên tục xuống đất. Gã đánh giá tường thành màu xám cao năm mét phía trước, lòng hơi ưu tư. Trong khí trời lạnh lẻo thế này, nếu như sự tình diễn biến đến mức phải phát động cường công, thì đây quả là một trường tai nàn đáng sợ. truyện cập nhật nhanh nhất tại chấm
Bán thú nhân Duy Lạp bên cạnh gã ưu tư hỏi: “Điện hạ, nếu như y cự tuyệt cho chúng ta nhập thành, thì chúng ta phải làm sao?”
Tử Xuyên Tử phát hiện Duy Lạp quả thật là một kẻ tôn thờ chủ nghĩa bi quan không thể cứu chữa. Một khi xảy ra vấn đề, y sẽ lập tức nghĩ về khả năng xấu nhất. Thậm chí dù là một trận cảm mạo sơ sài, y cũng đã viết di chúc dự bị sẵn.
“Vậy chúng ta cuốn vó bỏ đi, đến thành trì khác thử vận khí, cho đến khi tìm được một thành trì chịu mắc mưu mới thôi.”
Duy Lạp nghi ngờ nhìn Tử Xuyên Tú, không biết gã nói vậy là thật hay là nói chơi. Kế hoạch tác chiến như vậy quả thật chẳng khác trò đùa.
Thời gian từ từ trôi đến năm phút sau, vị ma tộc quân quan lúc nãy mới xuất hiện trở lại, ngay từ xa đã gọi lớn: “Đức Luân đoàn đội trưởng, hoan nghênh ngươi vào thành nghỉ ngơi.”
Đức Luân quả thật là không dám tin vào vận khí của minh. Thành công dễ dàng như vậy sao? Tên khốn Tử Xuyên Tú thật là… Kế mưu đơn giản như vậy không ngờ vẫn hiệu quả a. Y còn có điểm hoài nghi, liền hừ một tiếng hỏi: “Vậy quân của ta thì sao?”
Ma tộc quân quan đanh mặt lại, đáp với vẻ không tình nguyện gì: “Có thể cùng tiến vào một lúc.”
Đội ngũ bắt đầu tiến thành. Nhìn dáng vẻ vui mừng của bọn bán thú nhân ở bên cạnh, Tử Xuyên Tú cũng đang mỉm cười, nhưng lòng lại co rúc bất an: Gã không ngờ ma tộc lại dễ dàng để một cánh quân bán thú nhân có lại lịch bất minh vào thành như vậy. Có phải là bọn chúng quá tê liệt rồi không? Hay là bọn chúng căn bản không sợ gì, có quỷ kế gì đó?
Nhìn cửa thành đen xì xì dài và sâu cùng cánh cửa kéo xuống nặng nề, Tử Xuyên Tú nhớ lại kinh lịch bản thân của Tư Đặc Lâm: trong thời kỳ chiến tranh Viễn Đông, Trung ương quân đã từng giả làm đội thủ bị ma tộc của Mạt Y thành, dụ một chi ma tộc bộ đội từ xa tới tiến vào. Một khi cổng thành nặng nề đột nhiên đóng lại, khiến cho đội ngũ ma tộc đang kéo vào bên dưới bị chia hai, đầu đuôi không thể tiếp ứng nhau, sau đó phục binh của nhân loại đột nhiên đánh giết ra…
Tử Xuyên Tú nhìn đội ngũ sâm nghiêm của ma tộc quân đội trên đầu thành, thấy những ma tộc cung tiễn thủ dày đặc nấp đằng sau công sự với sắc mặt lạnh lùng mà không khỏi xuất hạn mồ hôi. Trong khoảng đất rộng lớn không che chắn gì này, nếu như đối phương đột nhiên trở mặt, thì chỉ cần cung tên không cũng đủ tiêu diệt toàn bộ bán thú nhân rồi.
Nhưng mà, hiện giờ gã không còn lựa chọn nào khác, chỉ còn biết mạo hiểm liều một phen.
Bộ đội an toàn tiến vào thành, bước đi trên con đường đọng đầy tuyết trắng. Ngay cái nhìn đầu tiên là Tử Xuyên Tú đã quan sát thấy những kho lương phía tây thành. Những kho trữ lương cao năm sáu mét chứa đầy lương thực nối tiếp nhàu, dày đặc, nhất thời không biết đem bao nhiêu cho xuể. Những kho lương này cao hơn kiến trúc của dân, vô cùng bắt mắt.
Trên đường đi của thành thị, người đi đường rất ít, từng nhóm hai ba binh sĩ ma tộc đứng xem, cũng có những cư dân bản địa… Gã lại quay đầu nhì, trên tường thành cao cao, quân quan đang dùng khẩu lệnh thật to phát. Đội cung tên của ma tộc đang giải trừ cảnh giới, thu đội từ thành tường xuống đường. Đội ngũ của bọn chúng đi ngang các đội ngũ của bán thú nhân, tiến về phía mà bán thú nhân đang đi, chính là khu lưu trú của ma tộc quân.
Binh sĩ bán thú nhân quan sát đánh giá cung tiễn thủ của ma tộc, giống như một bầy sói đang đánh giá đàn dê. Mấy quân quan cáo cấp không ngừng nháy mắt ra hiệu với Tử Xuyên Tú, ý là hiện giờ chính là cơ hội hạ thủ cực kỳ tốt.
Tử Xuyên Tú cũng cảm thấy đây đích xác là cơ hội không tệ, nhưng gã cũng ra dằn lòng: Ở đuôi của đội ngũ, gã còn hơn phân nửa người chưa tiến thành. Nếu động thủ, ma tộc có thể đột nhiên đóng cửa thành, vậy là gã lại biến thành đâu đuôi không thể chiếu ứng cho nhau. Gã quan sát một lúc, thấy cung tiễn thủ của Ma tộc chung quanh tường thành đại khái có ba bốn đại đội, không là chủ lực của ma tộc, vì chủ lực của ma tộc không thể trú đóng ở địa phương này.
Gã hạ giọng ho khan một tiếng, khẽ bảo: “Lưu ý địa hình xung quanh.”
Các quân quan lập tức hội ý, vì khi chiến đấu trên đường hay giành giật từng khu thì chuyện quen địa hình và hoàn cảnh là một tiện nghi cực kỳ lớn.
Án chiếu theo kế hoạch ban đầu của Tử Xuyên Tú, hai bán thú nhân binh sĩ vì một chuyện đánh bạc trước đó mười ngày mà bắt đầu cãi nhau. Một đám bán thú nhân đến khuyên ngăn, nhưng hai binh sĩ bán thú nhân phẫn nộ này hoàn toàn không nghe. Họ càng mắng càng kịch liệt, cuối cùng động thủ với nhau luôn. Khi ấy có một đám đầy binh sĩ đứng bên cạnh xem, bình luận, binh dân địa phương cũng nhìn lại trên đường để xem trò vui. Toàn bộ con đường bị tắt nghẽn, ngay cả đội ma tộc cũng tiễn đang trên đường trở về cdoanh trại cũng không thể thông qua, đội ngũ vốn chỉnh tề lập tức trở nên loạn.
Quân quan đầu lĩnh chỉ huy đội cung tên của ma tộc la hét om sòm: “Mau! Ngươi! Bộ hạ của ngươi ngăn đường của chúng ta! Mau chỉnh đội, loạn cào cào như vậy thì thành cái thể thống gì?”
Đức Luân vờ vịt hò hét vài câu, căn bản chẳng mang lại hiệu quả gì. Y bước tới gần hoa tay múa chân hạ mệnh lệnh, lớn tiếng quát mắng, mắng đến nước bọt văng đầy, hấp dẫn sự chú ý của mọi người tại hiện trường.
Bọn cung tiễn thủ của ma tộc trừng con mắt xanh lam với nét nét ngu ngu gần như khả ái nhìn họ. Nhưng chúng không ngờ rằng, trong lúc vị bán thú nhân quân quan này hoa tay múa chân, đầy tinh lực tiến hành phen biểu diễn này, thì những bán thú nhân khác đã nhanh chóng và im lìm tản ra các nơi, chiếm cứ các cửa đường và địa điểm yếu hại, tạo thành thế bao vây đối với đội hình của ma tộc cung tiễn thủ.
Trong khi đó Tử Xuyên Tú cũng mang theo một đội giả vờ vô tình đến cửa lâu thê trên thành tường. Một tiểu đội ma tộc đang thủ vệ ở đây, binh sĩ đứng đầu quát hỏi: “Các ngươi ở đó làm cái gì?”
“Xem thái dương.” Tử Xuyên Tú tùy tiện trả lời.
Ma tộc binh sĩ đầu não giản đơn không khỏi ngước đầu nhìn trời, thấy trên trời đầy mây, âm ám vô cùng, không nhịn được hỏi: “Ở đâu có thái dương chứ?”
“Do đó chúng ta mới đang tìm đây!” Tử Xuyên Tú tỏ vẻ rất khó chịu, dường như là lão đại của nhóm ma tộc binh này vừa hỏi vấn đề cực kỳ ngu xuẩn, quấy nhiễu công tác chuyên tâm mất sức của gã.
Ma tộc binh chậm chạp nhất thời không biết đáp ứng thế nào, mắt tiếp tục chớp chớp, không phản ứng lại được gì. Y dù sao cũng không ngờ vì sao lại có người nhìn thái dương, hơn nữa xem thái dương có cần xem ở trong nội khu này không? Nhưng xem ra tên “bán thú nhân” nhỏ người này là một kẻ tràn đầy sức lực, xem ra phải có đạo lý nào đó chứ? Nếu như bọn họ không muốn lên thành lâu, thì cứ để bọn họ ở đây “xem thái dương” đi, có vẻ như không ảnh hưởng gì a.
-o0o-


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.